Từ khoá: Quyền con người, giáo dục quyền con người, cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR).
Abstract: Over the years, our Party and the Government have paid special attention to carry out a number of measures to raise the awareness and understandings of all classes of people on human rights matters to support people to understand and fully enjoy their rights, in which communication and education on legal regulations on human rights being considered one of the most effective and important measures, which is aimed to realize the goals as well as fulfill the international human rights obligations of Vietnam, with the view that no one will be left behind.
Keywords: Human rights; human rights education, Universal Periodic Reviews (UPR).
             
Giáo dục quyền con người được coi là một cách để xây dựng và đẩy mạnh kiến thức về quyền con người cũng như những thái độ và kỹ năng cần thiết để thực hiện quyền con người. Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, để mọi người có thể thực hiện quyền con người như một thói quen, các chủ thể của quyền cần nắm rõ quyền của họ và có thái độ, kỹ năng để đấu tranh cho các quyền đó, còn các chủ thể có nghĩa vụ cần hiểu rõ nghĩa vụ thực hiện quyền con người của họ và có thái độ, kỹ năng tôn trọng, bảo vệ đầy đủ các quyền con người; thông qua đó, góp phần tạo ra một nền văn hóa phổ quát về quyền con người, nâng cao nhận thức xã hội, phòng ngừa các hành vi vi phạm và giúp người thụ hưởng nói chung biết cách tự bảo vệ các quyền và tự do của bản thân, đồng thời tôn trọng quyền và tự do của người khác[1].Quyen-con-nguời.png
Mục đích của giáo dục quyền con người là hướng tới sự tôn trọng công bằng, luật pháp, các quyền và tự do cơ bản của con người, không phân biệt đối xử bởi bất kỳ lý do gì từ phía cơ quan nhà nước, các thành phần khác trong xã hội và ngay trong chính bản thân mỗi công dân[2]; phát triển toàn diện cá nhân con người và ý thức tôn trọng con người; thúc đẩy sự hiểu biết, tôn trọng, bình đẳng giới và sự đoàn kết giữa các quốc gia, người bản địa và các nhóm chủng tộc, quốc gia, dân tộc, tôn giáo và ngôn ngữ; khả năng hoạt động một cách có hiệu quả của tất cả mọi người trong một xã hội tự do[3].
1. Thực tiễn tuyên truyền, giáo dục v quyền con người tại Việt Nam trong thời gian qua
Việt Nam luôn xác định giáo dục quyền con người là một trong những biện pháp thực thi quyền con người. Bởi vì, giáo dục là công cụ chuyển tải những kiến thức cơ bản về các quyền con người, hình thành ý thức tôn trọng quyền con người[4]. Ở Việt Nam, giáo dục quyền con người không chỉ là trách nhiệm quốc tế mà còn được xem là nhiệm vụ tự thân xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Quan điểm này đã được nhắc lại trongChỉ thị số 32-CT/TW ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, trong đó xác định: giáo dục quyền con người là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đối với việc đưa giáo dục quyền con người lồng ghép trong hệ thống giáo dục quốc dân, ngày 5-9-2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1309/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân… làm tiền đề cho việc xây dựng các chương trình giảng dạy khung của các bậc đào tạo trong cả nước.
Trong quá trình đối thoại UPR chu kỳ III của Việt Nam diễn ra vào đầu năm 2019, có 121 phái đoàn của các nước thành viên Liên hợp quốc đã tham gia đối thoại với phái đoàn Việt Nam và đã đưa ra 291 khuyến nghị[5]. Trong đó, Việt Nam đã nhận được 14 khuyến nghị về tăng cường giáo dục quyền con người đến từ 13 quốc gia khác nhau với các nội dung chủ yếu như[6]:
- Lồng ghép công ước về quyền trẻ em, công ước về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối với phụ nữ, Công ước về quyền của người khuyết tật vào sách giáo khoa để phổ cập đến toàn dân.
- Đến năm 2025, hoàn thành việc đưa nội dung giáo dục về quyền con người trong tất cả các cơ sở giáo dục.
- Nâng cao nhận thức của người dân về các công uốc quốc tế về quyền con người.
- Thúc đẩy tuyên truyền để góp phần nâng cao kiến thức của cán bộ nhà nước và người dân về quyền con người.
   Tại Báo cáo trả lời năm 2019 của Chính phủ Việt Nam về các khuyến nghị, Việt Nam chấp nhận 14 khuyến nghị về giáo dục quyền con người[7]. Để có được kết quả đó, Việt Nam đã phối hợp các cấp, các ngành thực hiện nhiều hoạt động như đẩy mạnh hoạt động truyền tải giáo dục về quyền con người vào chương trình đào tạo các cấp, triển khai các hoạt động nghiên cứu về quyền con người, đồng thời xây dựng các chương trình/kế hoạch nhằm tuyên truyền và phổ biến pháp luật về quyền con người. Khi rà soát toàn diện để xây dựng Báo cáo quốc gia chu kỳ III, các kết quả thu thập được từ các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu và đơn vị sử dụng lao động cho thấy, hoạt động tuyền truyền, giáo dục pháp luật về quyền con người đang được thực hiện đã có những kết quả nhất định thể hiện ở các khía cạnh sau:
Hoạt động xây dựng chương trình, kế hoạch giáo dục về quyền con người trong hệ thống giáo dục quốc dân
Trên cơ sở lấy ý kiến của các Bộ, ngành và các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, ngày 5/9/2017, Chính phủ đã phê duyệt Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đây là đề án có ý nghĩa rất quan trọng nhằm mục tiêu tuyên truyền, phổ biến, giáo dục quyền con người nhằm tạo sự chuyển biến trong nhận thức của người học, của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục về tầm quan trọng, ý thức tự bảo vệ các quyền của bản thân, tôn trọng nhân phẩm, các quyền và tự do của người khác; ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước và xã hội, góp phần phát triển toàn diện con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững của đất nước. Đề án được xây dựng, một phần cũng nhằm thực hiện khuyến nghị về vấn đề tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về quyền con người mà Việt Nam đã chấp nhận trong cả 2 chu kỳ UPR.
Cũng trong Đề án này, Chính phủ xác định mục tiêu đến năm 2025, 100% các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân tổ chức giáo dục quyền con người cho người học. Đồng thời, trên cơ sở góp ý của các cơ quan, tổ chức, cơ quan xây dựng Đề án đã có sự điều chỉnh phù hợp với nội dung lồng ghép giáo dục quyền con người cho phù hợp với từng cấp học, cụ thể:
+ Việt Nam đã dần đưa hoạt động giáo dục quyền con người vào trong các chương trình của bậc tiểu học đến bậc trung học phổ thông.
+ Ở cấp tiểu học, các kiến thức về quyền con người được truyền tải ở mức độ đơn giản nhưng rõ ràng.
+ Các bài học về quyền con người ở cấp trung học cơ sở và phổ thông đã mang tính tiếp cận cụ thể nhiều nội dung của quyền con người. Do đó, dù các bài học vẫn được thiết kế thông qua bối cảnh sinh hoạt hàng ngày, phù hợp với nhận thức xã hội của học sinh theo từng độ tuổi nhưng các bài học chứa đựng những kiến thức rộng và sâu hơn về quyền con người.
+ Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em lần đầu tiên là chủ đề của một bài học trong chương trình giảng dạy phổ thông Chương trình học môn Giáo dục công dân dành cho học sinh lớp 6, ngoài ra các quyền học tập, quyền được pháp luật bảo vệ tính mạng, thân thể, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về thư tín cũng là nội dung chính của nhiều bài học khác.
+ Chương trình giảng dạy từ lớp 7 đến lớp 9 đã lồng ghép các quyền về môi trường và tự do tín ngưỡng, tôn giáo,… Các kiến thức về quyền con người tập trung nhiều hơn ở chương trình giáo dục công dân Lớp 12; theo đó, học sinh được tiếp cận với nhiều nội dung liên quan đến quyền công dân như bài Hiến pháp, các quyền trong lĩnh vực dân sự (trong bài Luật dân sự), các quyền trong tố tụng và một số quyền trong các lĩnh vực cụ thể như đất đai, thuế, hành chính…
+ Đối với bậc đại học, tại các trường có đào tạo Luật, quyền con người đã được tích hợp, lồng ghép vào một số môn học như luật hiến pháp, luật hành chính, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, công pháp quốc tế..., thậm chí có những cơ sở nghiên cứu và đào tạo đã xây dựng những môn học riêng như: Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật (Đại học quốc gia Hà Nội), Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Cảnh sát nhân dân, Học viện An ninh nhân dân, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Học viện Ngoại giao…
+ Đối với hệ đào tạo sau đại học, số lượng các trung tâm nghiên cứu/cơ sở đào tạo có mã ngành đào tạo sau đại học độc lập về quyền con người hiện còn khá hạn chế, chỉ có một số chương trình như: Chương trình thạc sĩ chuyên ngành Pháp luật về quyền con ngườicủa Đại học quốc gia Hà Nội[8], Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,[9]… còn lại chủ yếu là các chương trình đào tạo liên kết. Ngoài ra, các cơ sở đào tạo và trung tâm nghiên cứu quyền con người còn tiến hành các hình thức đào tạo, bồi dưỡng dài hạn, trung hạn và ngắn hạn cho các đối tượng là cán bộ công chức, viên chức theo các đề án của Nhà nước; hoặc các chương trình bồi dưỡng kiến thức theo nhu cầu của cơ quan, tổ chức, góp phần nâng cao nhận thức về quyền con người trong xã hội.
Hoạt động nghiên cứu khoa học về quyền con người
Việt Nam đã thành lập hệ thống các cơ quan nghiên cứu chuyên sâu về quyền con người như: Viện nghiên cứu quyền con người – VIHR thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Nghiên cứu quyền con người và quyền công dân (CRIGHTS, thuộc Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội), Trung tâm Nghiên cứu Pháp luật về quyền con người và quyền công dân (thuộc Đại học Luật, Tp. HCM). Ngoài ra, một số viện nghiên cứu chuyên ngành thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam như Viện Nghiên cứu gia đình và giới; Viện Nhà nước và Pháp luật; Viện Nghiên cứu con người… đã thành lập Phòng Nghiên cứu về quyền con người. Trong đó, có những trung tâm trực tiếp tham gia cả vào hoạt động đào tạo, giảng dạy và nghiên cứu nhưng cũng có trung tâm chủ yếu ra đời phục vụ quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quyền con người. Kết quả của hoạt động nghiên cứu đã củng cố thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền con người, đồng thời bổ sung thêm những nguồn tri thức, luận cứ khoa học mới cho sự phát triển của các nội dung quyền con người và pháp luật về quyền con người; qua đó làm sâu sắc hơn những nhận thức về vấn đề quyền con người trong giới nghiên cứu, học giả. Những giải pháp, đề xuất mà các công trình nghiên cứu khoa học mang lại có thể trở thành nguồn tham khảo rất hữu ích đối với các cơ quan nhà nước trong quá trình xây dựng các chính sách, pháp luật về vấn đề quyền con người tại Việt Nam; đồng thời cung cấp nguồn học liệu phong phú, đa chiều cho đội ngũ học sinh, sinh viên, các nhà nhiên cứu[10]
Nhìn chung, bên cạnh những kết quả đạt được, việc giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định như: (i) Dung lượng kiến thức về quyền con người trong chương trình giảng dạy của các cấp bậc chưa tương xứng với nhu cầu của đối tượng đào tạo; (ii) Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên có chuyên môn sâu về quyền con người còn tương đối mỏng; (iii) Tài liệu và học liệu giảng dạy còn thiếu; (iv) Kiến thức về quyền con người tuy được giới thiệu trong môn học giáo dục công dân ở cấp phổ thông nhưng không được nhà trường và học sinh chú trọng bằng các môn học như văn học, địa lý, lịch sử,…
Hoạt động tuyên truyềncác nội dung củaquyền con người
Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức được thực hiện thông qua các hình thức tổ chức hội thảo, tọa đàm, tập huấn, nói chuyện chuyên đề, sinh hoạt các câu lạc bộ, biên soạn và phát hành tài liệu tuyên truyền, phổ biến nội dung pháp luật trong nước về quyền con người tới các đối tượng phù hợp; phổ biến trên phương tiện thông tin đại chúng, chuyên trang, chuyên mục về pháp luật về quyền con người; tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học… Những nội dung pháp luật về quyền con người được lựa chọn để tuyên truyền thường xoay quanh các quyền cơ bản của con người, các công cụ hỗ trợ, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, các trách nhiệm, nghĩa vụ mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nhằm đảm bảo việc tôn trọng các quyền con người cơ bản.
Ngoài ra, một trong những nội dung cũng được quan tâm tuyên truyền đó là các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên cũng như các thông tin liên quan đến quy trình báo cáo UPR như: công tác chuẩn bị, quy trình báo cáo, kết quả báo cáo, các khuyến nghị và việc thực hiện các khuyến nghị trên thực tế, những khó khăn và thuận lợi… Qua công tác tuyên truyền, cán bộ, người dân từng bước nắm bắt, hiểu được những quy định pháp luật cụ thể liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng như vai trò và trách nhiệm của mình đối với vấn đề thực thi các nghĩa vụ của quốc gia về quyền con người.
Trên thực tế, sau 3 phiên báo cáo đối thoại UPR, các hoạt động bảo đảm quyền con người ở Việt Nam được các quốc gia thành viên Liên hợp quốc ghi nhận là thành tựu to lớn của Việt Nam trong quá trình đổi mới và phát triển. Tuy nhiên, những kết quả này chưa thực sự được phổ cập đến mọi đối tượng thụ hưởng. Điều này một phần do hoạt động tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về quyền con người chưa có sự phân hoá về đối tượng; hình thức, phương pháp và các nội dung tuyên truyền còn mờ nhạt, thiếu sự sáng tạo và chưa phổ cập tới toàn bộ các nhóm người thụ hưởng, đặc biệt là những người thụ hưởng ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và những người lao động phổ thông.
2. Kiến nghị giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền, giáo dục về quyền con người tại Việt Nam trong thời gian tới
Trong thời gian tới, để tiếp tục nâng cao nhận thức của người dân về quyền con người, chúng tôi cho rằng, Nhà nước cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, tăng cường giáo dục về nhân quyền để nâng cao nhận thức của công chúng và năng lực của các cơ quan thực thi pháp luật liên quan nhằm bảo đảm tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân trong khuôn khổ pháp luật của quốc gia; lồng ghép giáo dục quyền con người với việc thực hiện các Nghị quyết của Đảng, các chương trình, đề án của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo.
Việc hiểu biết một cách đúng đắn về quyền con người cũng như các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về quyền con người là điều kiện tiên quyết, không thể thiếu để bảo vệ, thúc đẩy quyền con người một cách hiệu quả. Để làm được điều đó, việc giáo dục quyền con người phải được tiến hàng một cách thường xuyên, liên tục để tất cả cán bộ, người dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về quyền con người; đấu tranh, phê phán với những quan điểm, luận điệu sai trái về quyền con người của các thế lực thù địch có âm mưu chống phá.
Thứ hai, đổi mới hoạt động giảng dạy quyền con người trong hệ thống giáo dục quốc dân, xác định đúng các hình thức, phương pháp giáo dục phù hợp cho từng nhóm đối tượng giáo dục cụ thể, hướng đến xây dựng một nền văn hoá nhân quyền.
Hiện nay ở Việt Nam, các kiến thức về quyền con người cũng trong các cấp học từ tiểu học đến trung học phổ thông còn mang tính lý thuyết và trừu tượng. Chương trình giáo dục quyền con người cần đảm bảo tính hiện đại, ổn định và thống nhất, có sự kế thừa giữa các cấp học. Đối với cấp độ đại học, giáo dục quyền con người đã trở thành một chủ đề được quan tâm chung trong nhiều trường đại học ở Việt Nam nhưng mức độ hướng dẫn, nội dung, phương pháp và cách thức tiếp cận chưa thực sự đồng đều. Các nội dung về quyền con người được lồng ghép vào trong các môn học, nhưng chủ yếu vẫn chỉ được coi là một chủ đề trong phạm vi luật quốc tế, dẫn đến chưa có sự gắn kết thực sự chặt chẽ giữa các môn học với nội dung giáo dục nhân quyền[11]. Ngoài ra, môn học về quyền con người cũng mới chỉ được giảng dạy tại một số trường đại học/cao đẳng đào tạo chuyên ngành luật hoặc về mảng xã hội chứ chưa được giảng dạy tại tất cả các ngành học ở các trường đại học/cao đẳng. Vì vậy, cần thiết phải đưa chương trình giáo dục quyền con người vào tất cả các cấp bậc học và tất cả các ngành học (đối với các trường đại học/cao đẳng) để tất cả học sinh/sinh viên đều có thể tiếp cận được các nội dung cơ bản về quyền con người. Khi lồng ghép vấn đề quyền con người vào hệ đào tạo đại học/cao đẳng sẽ đảm bảo tính thống nhất, tính liên thông của chương trình; đồng thời cũng đảm bảo tính chủ động, thường xuyên, liên tục, rộng khắp trong cả nước. Tuy nhiên, cũng cần có sự cân nhắc về mức độ phù hợp cũng như phương pháp lồng ghép trong chương trình đào tạo của các trường cao đẳng/đại học, đặc biệt với các trường thuộc khối tự nhiên với các môn học cơ sở.
Bên cạnh đó, cần đổi mới phương pháp giảng dạy, xây dựng bài giảng hiện đại, hấp dẫn, đưa nhiều ví dụ minh hoạ thực tế vào bài giảng; tránh phương pháp dạy học một chiều, thiên về lý thuyết tạo tâm lý nhàm chán cho người học. Đối với cấp bậc đại học, cần thường xuyên cho sinh viên trao đổi thảo luận về quyền con người trên lớp thông qua việc cho sinh viên làm bài tập lớn theo nhóm, cho sinh viên đóng vai luật sư tư vấn, diễn thuyết vấn đề nghiên cứu... Ngoài ra, cần khuyến khích sinh viên thành lập các câu lạc bộ chuyên ngành để sinh viên có thế cùng nhau học tập, sinh hoạt chủ đề môn học theo tháng, học nhóm, cùng nhau thảo luận những vướng mặc, khó khăn trong quá trình học tập môn học; để từ đó, cùng có hướng giải quyết và phương pháp học tích cực[12].
Thứ ba, vận dụng nhiều hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục kiến thức về quyền con người.
Đối với hoạt động tuyên truyền, giáo dục nội dung quyền con người, cần sử dụng, khai thác và vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp khác nhau bảo đảm tính phù hợp, hiệu quả; đảm bảo nội dung tuyên truyền phù hợp với đối tượng và mục tiêu; Kết hợp giữa tuyên truyền, giáo dục quyền con người với các kỹ năng sống, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải cơ sở, giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật[13]
     Khuyến khích tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về quyền con người, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người cũng là một hình thức hấp dẫn, có thể đạt hiệu quả cao. Ưu điểm của biện pháp này là có thể được áp dụng một cách đa dạng cho nhiều đối tượng khác nhau (không chỉ riêng với nhóm học sinh/sinh viên tham gia các cuộc thi trong khuôn khổ của cơ sở đào tạo mà kể cả các đối tượng như người đi làm, người nghỉ hưu… cũng hoàn toàn tham gia được ở phạm vi rộng); phạm vi đối tượng được giáo dục cũng rất rộng (bao gồm cả người dự thi và người theo dõi cuộc thi), phát huy được tính tích cực, chủ động của đối tượng dự thi và giúp họ nhận thức sâu sắc hơn nội dung quyền con người cần tìm hiểu.
Thứ tư, tăng cường giáo dục về quyền con người thông qua việc cung cấp các chương trình đặc biệt cho các cán bộ thực thi pháp luật; chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng viên có kiến thức chuyên môn phục vụ công tác giáo dục về quyền con người trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Để có thể giáo dục quyền con người cho các đối tượng thụ hưởng khác nhau một cách hiệu quả, ngoài việc có giáo trình phù hợp, phương pháp giảng dạy hấp dẫn thì chất lượng của đội ngũ người giảng dạy cũng vô cùng quan trọng. Hiện nay, đội ngũ giáo viên phổ thông nhìn chung chưa được đào tạo đầy đủ, bài bản về nội dung này, khi giảng dạy về quyền con người chủ yếu họ phải dựa vào giáo trình và những tài liệu tham khảo để xây dựng bài giảng. Do đó, trước khi các nội dung quan điểm của Đảng, Nhà nước về quyền con người được chuyển tải tới học sinh, sinh viên thì lãnh đạo các nhà trường và giáo viên phải là đối tượng được trang bị kiến thức về quyền con người, cũng như chủ trương của Đảng, Nhà nước về thực hiện quyền con người một cách toàn diện, giúp họ chủ động trong việc lồng ghép nội dung giáo dục này vào bài giảng nhằm chuyển tải và thẩm thấu một cách linh hoạt vào học sinh, sinh viên[14].
Đối với đội ngũ tuyên truyền, công tác viên giáo dục quyền con người ngoài hệ thống nhà trường, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tọc thiểu số, cần có một đội ngũ cốt cán, không chỉ làm nhiệm vụ tuyên truyền, mà còn phải vận đồng quần chúng nhân dân tích cực tham gia hoạt động này. Ngoài ra, cần phải đặc biệt quan tâm đến xây dựng đội ngũ tuyên truyền cốt cán trong các tổ chức chính trị xã hội đặc thù như: Hội liên hiệp phụ nữ, Hội người cao tuổi, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh, Công đoàn… để thông qua hoạt động của các tổ chức này mà truyền tải nội dung giáo dục quyền con người một cách sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân.
Thứ năm, chuẩn hoá việc biên soạn giáo trình, sách, tài liệu giáo dục về quyền con người.
Các nhóm người thụ hưởng khác nhau sẽ được hưởng những quyền lợi khác nhau, đồng thời cách tiếp cận cũng khác nhau, nhu cầu mục đích tiếp cận các thông tin về quyền con người khác nhau. Do đó, nếu chỉ sử dụng chung một loại tài liệu/giáo trình quyền con người thì sẽ không phù hợp, vì vậy cần phải chuẩn hoá các tài liệu giáo dục quyền con người cho từng nhóm chủ thể trên cơ sở tính hệ thống, liên thông của tài liệu. Ví dụ, xây dựng giáo trình, tài liệu giáo dục kiến thức quyền con người cho nhóm trẻ em; học sinh/sinh viên; người dân tộc thiểu số; người khuyết tật; nhóm cán bộ công chức và đối tượng chuyên biệt như công an, thẩm phán, luật sư, phạm nhân…  
Thứ sáu, áp dụng công nghệ thông tin và lợi ích của các mạng xã hội trong hoạt động tuyên truyền, giáo dục quyền con người.
Để hỗ trợ cho các hình thức, phương pháp giáo dục, cần tăng cường đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tuyên truyền, thông tin về quyền con người, quyền công dân trên các phương tiện thông tin đại chúng. Với lợi thế là tính phổ cập, kịp thời và rộng khắp, báo chí là một kênh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục quyền con người đạt hiệu quả cao. Ngày nay, sự đa dạng các loại hình báo chí như: báo in, báo hình, báo nói, báo điện tử đã góp phần ngày càng nâng cao hiệu quả và chất lượng thông tin. Phát huy thế mạnh đặc trưng của mình, mỗi loại hình báo chí đều có thể tìm được những hình thức thích hợp để chuyển tải nội dung giáo dục quyền con người đến đối tượng một cách hiệu quả nhất. Nhà nước cần có chính sách đầu tư nguồn lực, kỹ thuật thích hợp cho các cơ quan thông tin tuyên truyền, đặc biệt là các cơ quan phát thanh, truyền hình, báo chí để các cơ quan này có điều kiện thuận lợi thực hiện hoạt động của mình. Đồng thời, các cơ quan thông tin đại chúng cần coi hoạt động tuyên truyền, giáo dục quyền con người là trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, từ đó xây dựng các chuyên mục, chương trình thường xuyên, liên tục và rộng khắp cho hoạt động này.
Bên cạnh đó, chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng những lợi ích từ các mạng xã hội để phổ biến các thông tin về quyền con người một cách nhanh chóng và tiếp cận được rất nhiều đối tượng sử dụng. Tuy nhiên, khi tiếp nhận các thông tin từ mạng xã hội, người đọc cần phải chắt lọc các thông tin chính thống, có tư duy phản biện để nhìn nhận được chính xác vấn đề./.
 

 


[1] Viện nhân quyền Đan Mạch, “Tài liệu hướng dẫn giáo dục nhân quyền, hướng dẫn của chuyên gia trong việc lập kế hoạch và quản lý giáo dục nhân quyền”, 2019; ‘Giáo dục nhân quyền: biện pháp “dài hơi” thúc đẩy bảo đảm quyền con ngườihttp://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-phap-luat/giao-duc-nhan-quyen-bien-phap-dai-hoi-thuc-day-dam-bao-quyen-con-nguoi-301156.html, truy cập ngày 26/8/2020.
[2] Nguyễn Văn Mạnh và Nguyễn Thị Báo, “Giáo dục quyền con người trong các cơ sở đào tạo không có chuyên ngành luật: vấn đề và giải pháp”, Tạo chí Khoa giáo, số 1&2 năm 2007.
[3] Nguyễn Thị Hồng Yến (2019), “Vai trò và sự tham gia của các cơ sở nghiên cứu/đào tạo trong thực hiện các khuyến nghị UPR về giáo dục quyền con người tại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4/2019.
[4] Hà Mai Hiên, “Xây dựng chiến lược quyền con người ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”, Sách tham khảo “Giáo dục quyền con người – những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb. Khoa học xã hội, 2011, tr.388-390.
[5] Section II of the Report of the Working Group A/HRC/41/7, xem tại: https://www.upr-info.org/sites/default/files/document/viet_nam/session_32_-_january_2019/2rps_vietnam.pdf, truy cập ngày 19/8/2020.
[6] Các khuyến nghị đến từ 13 quốc gia gồm: Jordan, Ấn độ, Ethiopia, Philippines, Saudi Arabia, Turkmenistan, Belarus, Ukraine, Morrocco, Bahrain, Bhutan, Pakistan và Slovakia, https://www.ohchr.org/EN/HRBodies/UPR/Pages/VNindex.aspx, truy cập ngày 19/11/2020.
[7] Quan điểm về kết luận và/hoặc khuyến nghị, các cam kết tự nguyện và trả lời của Nhà nước ngày 26/6/2019 (A/HRC/41/7/Add.1), xem tại: https://www.upr-info.org/sites/default/files/document/viet_nam/session_32_-_january_2019/a_hrc_41_7_add.1_e.pdf, truy cập ngày 19/8/2020.
[8] Các ngành tuyển sinh sau đại học của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, xem tại: https://www.vnu.edu.vn/ttsk/?C2097/N23641/Khoa-Luat-tuyen-sinh-sau-dai-hoc-nam-2019.htm, truy cập ngày 18/9/2020)
[10] Nguyễn Thị Hồng Yến (2019), “Vai trò và sự tham gia của các cơ sở nghiên cứu/đào tạo trong thực hiện các khuyến nghị UPR về giáo dục quyền con người tại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4/2019.
[11] Nguyễn Thị Hồng Yến, Cơ sở nghiên cứu/đào tạo trong thực hiện khuyến nghị UPR về giáo dục quyền con người tại Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 08 (384)/2019, http://lapphap.vn/Pages/TinTuc/210302/Co-so-nghien-cuu-dao-tao-trong-thuc-hien-khuyen-nghi-UPR-ve-giao-duc-quyen-con-nguoi-tai-Viet-Nam.html, truy cập ngày 27/8/2020.
[12] “Giáo dục quyền con người cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập quốc tếhttp://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dao-tao-boi-duong/item/2901-giao-duc-quyen-con-nguoi-cho-sinh-vien-trong-boi-canh-hoi-nhap-quoc-te.html, truy cập ngày 27/8/2020.
[13] Đỗ Đức Hồng Hà, “Mục đích, vai trò, ý nghĩa, phạm vi giáo dục quyền con ngườiSách tham khảo “Giáo dục quyền con người – những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb. Khoa học xã hội, 2011, tr.59-60.
[14] Đào Thị Tùng, Nhận thức rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền con người – đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, Tạp chí Nghiên cứu con người số 4 (85)/2016, https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/nhan-thuc-ro-quan-diem-cua-dang-nha-nuoc-ta-ve-quyen-con-nguoi-dau-tranh-voi-nhung-luan-dieu-xuyen-tac-cua-cac-the-luc-thu-dich-75, truy cập ngày 27/8/2020. 

TS, NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN*

THS. LÃ THỊ MINH TRANG**

*,** Trường Đại học Luật Hà Nội.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 21 (421), tháng 11/2020.)