Bài viết phân tích cơ sở pháp lý và thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) trong bối cảnh Việt Nam thực hiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp (cấp tỉnh và cấp xã) theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025. Từ góc độ quyền con người, nghiên cứu chỉ rõ các rào cản đặc thù (ngôn ngữ, văn hóa, địa lý, năng lực thụ hưởng), từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm thực chất quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào DTTS, góp phần hiện thực hóa nguyên tắc bình đẳng thực chất và cam kết “không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Ảnh minh họa. Nguồn: nhandan.vn
1. Cơ sở lý luận và pháp lý
a) Quyền tiếp cận thông tin trong hệ thống quyền con người và pháp luật Việt Nam
Quyền tiếp cận thông tin là bộ phận hữu cơ của quyền tự do biểu đạt, được ghi nhận tại Điều 19 Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người năm 1948 và Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR 1966). Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc trong Bình luận chung số 34 năm 2011 khẳng định đây là điều kiện tiên quyết để thực hiện mọi quyền con người khác, đặc biệt đối với các nhóm dễ bị tổn thương [1]. Tại Việt Nam, quyền này được hiến định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013 và cụ thể hoá bởi Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.
Đối với đồng bào DTTS, quyền tiếp cận thông tin không dừng ở quyền được biết (“right to know”) mà phải đạt tới quyền được hiểu (“right to understand”) và quyền được tham gia (“right to participate”). Việc bảo đảm quyền này phải tuân thủ nguyên tắc bình đẳng thực chất (substantive equality) và áp dụng biện pháp phân biệt đối xử tích cực theo Điều 5 Công ước ICERD mà Việt Nam là thành viên từ năm 1982 [2]. Chỉ khi thông tin được cung cấp bằng ngôn ngữ và hình thức phù hợp văn hóa, đồng bào DTTS mới thực sự trở thành chủ thể quyền thay vì đối tượng thụ hưởng chính sách.
b) Đặc thù rào cản tiếp cận thông tin của đồng bào dân tộc thiểu số
Ba nhóm rào cản cấu trúc chính vẫn tồn tại:
Ngôn ngữ và văn hóa: chỉ 29,9% người DTTS từ 15 tuổi trở lên sử dụng thành thạo tiếng Việt; phần lớn thông tin chính sách được soạn thảo bằng văn phong hành chính trừu tượng, không được dịch thuật hoặc “văn hóa hóa” [3].
Địa lý và khoảng cách số: tỷ lệ hộ DTTS có kết nối internet chỉ đạt 38,8% (thấp hơn 30 điểm phần trăm so với bình quân cả nước), hạ tầng viễn thông vùng sâu, vùng xa vẫn chưa ổn định.
Năng lực thụ hưởng: trình độ dân trí chưa đồng đều và tâm lý thụ động khiến đồng bào ít chủ động yêu cầu thông tin; việc tiếp cận chủ yếu phụ thuộc vào cán bộ cơ sở và người có uy tín trong cộng đồng.
c) Tác động của mô hình chính quyền địa phương hai cấp
Việc triển khai chính quyền địa phương hai cấp từ năm 2025 theo Nghị quyết 27-NQ/TW và Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 72/2025/QH15 tạo ra ba vấn đề liên quan trực tiếp đối với quyền tiếp cận thông tin của đồng bào DTTS:
Một là, không còn HĐND cấp huyện với tư cách cơ quan dân cử trước đây giám sát các dự án lớn (thủy điện, đất rừng, tái định cư...), nay HĐND cấp xã đứng trước áp lực về năng lực thực hiện hoạt động này không hề nhỏ.
Thứ hai, việc truyền tải thông tin tại UBND cấp xã trong bối cảnh chỉ khoảng 15-20% cán bộ xã vùng cao biết tiếng dân tộc phổ biến trên địa bàn [4].
Thứ ba, khoảng cách thẩm quyền giữa cấp tỉnh và cấp xã tăng lên, dễ khiến thông tin bị chậm trễ hoặc sai lệch khi chuyển tải đến cơ sở.
2. Thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của đồng bào dân tộc thiểu số
a) Thành tựu
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào DTTS, phản ánh cam kết chính trị mạnh mẽ của Nhà nước pháp quyền XHCN trong việc hiện thực hóa các quyền con người theo Hiến pháp năm 2013 và các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Những thành tựu này không chỉ dừng ở việc xây dựng khung pháp lý mà còn thể hiện qua các chương trình hành động cụ thể, tập trung vào việc đa dạng hóa kênh truyền thông, đầu tư hạ tầng và nâng cao năng lực cộng đồng, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia. Các nỗ lực này góp phần thực thi nguyên tắc bình đẳng thực chất, nơi Nhà nước không chỉ cung cấp thông tin mà còn đảm bảo tính khả thi và phù hợp văn hóa, giúp đồng bào DTTS vượt qua các rào cản để trở thành chủ thể tham gia tích cực vào quản lý nhà nước và phát triển bền vững.
Một trong những thành tựu nổi bật nhất là việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 (Chương trình MTQG 1719, phê duyệt theo Quyết định 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021), với Dự án 10 - “Truyền thông, tuyên truyền, vận động trong vùng đồng bào DTTS” - dành nguồn lực đáng kể cho việc nâng cao khả năng tiếp cận thông tin [5]. Đến hết năm 2024, Dự án 10 đã phân bổ hơn 500 tỷ đồng cho các tiểu dự án, bao gồm Tiểu dự án 1 (biểu dương điển hình tiên tiến, phổ biến pháp luật và truyền thông) và Tiểu dự án 2 (ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội và an ninh trật tự) [6]. Cụ thể, chương trình đã tổ chức 38 hội nghị phổ biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền vận động đồng bào DTTS tại 15 tỉnh miền núi, đạt tỷ lệ tiếp cận 75% hộ dân ở vùng sâu, vùng xa; đồng thời sản xuất hơn 1.000 sản phẩm truyền thông (tờ rơi, video ngắn bằng tiếng dân tộc) về các chính sách an sinh xã hội, đất đai và y tế [7]. Tại Quảng Trị, sau 3 năm thực hiện, Chương trình 1719 đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo vùng DTTS từ 25% xuống còn 15%, phần lớn nhờ thông tin chính sách được truyền tải kịp thời qua các kênh địa phương hóa, giúp đồng bào tham gia hiệu quả vào các dự án sản xuất chuỗi giá trị [8]. Những kết quả này không chỉ nâng cao nhận thức pháp lý mà còn thúc đẩy quyền tham gia theo Điều 19 ICCPR, nơi thông tin trở thành công cụ trao quyền cho nhóm yếu thế, góp phần đạt 6/9 nhóm mục tiêu của Chương trình 1719 vượt kế hoạch đến năm 2024 [9].
Bên cạnh đó, hệ thống phát thanh truyền hình bằng tiếng dân tộc đã được duy trì và mở rộng đáng kể, khẳng định vai trò của truyền thông đại chúng như một kênh tiếp cận thông tin công bằng, kịp thời. Đến năm 2025, Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) và Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) đã phát sóng chương trình bằng 11 thứ tiếng dân tộc phổ biến (như H’Mông, Thái, Khmer, Ê Đê, Dao), với thời lượng tăng 30% so với năm 2020, đạt hơn 500 giờ/năm [10]. Các chương trình như “Góc nhìn dân tộc” trên VTV và “Tiếng nói vùng cao” trên VOV không chỉ phổ biến chính sách mà còn tích hợp nội dung văn hóa, giúp đồng bào DTTS “hiểu” thông tin theo ngữ cảnh cộng đồng. Tại các tỉnh Tây Bắc và Tây Nguyên, tỷ lệ tiếp cận phát thanh truyền hình đạt 85% hộ DTTS, góp phần nâng cao nhận thức về quyền lợi pháp lý và giảm khiếu nại hành chính liên quan đến thông tin không minh bạch từ 12% xuống còn 7% (theo báo cáo Thanh tra Chính phủ 2024) [11]. Hơn nữa, Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đồng bào DTTS phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh trật tự giai đoạn 2019 - 2025” (Quyết định 414/QĐ-TTg năm 2019) đã hỗ trợ xây dựng 500 điểm truy cập internet công cộng tại UBND xã vùng DTTS, kết hợp với đào tạo kỹ năng số cho 50.000 người có uy tín trong cộng đồng, biến họ thành “đại sứ thông tin” để truyền tải chính sách bằng ngôn ngữ mẹ đẻ [12].
Cuối cùng, hệ thống thông tin cơ sở - bao gồm loa truyền thanh xã, bảng tin thôn bản và đội tuyên truyền lưu động - vẫn đóng vai trò chủ đạo ở những vùng chưa có internet ổn định, đảm bảo tính bao quát và gần gũi. Đến tháng 6/2025, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phủ sóng loa truyền thanh tại 95% xã vùng DTTS (tăng 15% so với năm 2020), với nội dung phát sóng hàng ngày về pháp luật, y tế và cảnh báo thiên tai, đạt tỷ lệ lắng nghe trung bình 70% dân số [13]. Tại Phú Thọ, đội tuyên truyền lưu động đã tổ chức hơn 200 buổi họp thôn bản, tiếp cận 100.000 lượt đồng bào, kết hợp hình thức “hội nghị đầu bờ” để giải thích chính sách bằng tiếng dân tộc, giúp giảm tỷ lệ hiểu lầm thông tin từ 18% xuống còn 9% [14]. Những nỗ lực này thể hiện nghĩa vụ tích cực của Nhà nước theo Bình luận chung số 34 của Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc, nơi truyền thông cơ sở trở thành “cầu nối” văn hóa, góp phần thực hiện SDG 16 về xã hội hòa nhập và SDG 10 về giảm bất bình đẳng [15]. Tổng thể, các thành tựu đã nâng cao chỉ số tiếp cận thông tin vùng DTTS từ 45% năm 2020 lên 68% năm 2025 (theo báo cáo giữa kỳ Chương trình 1719), khẳng định bước tiến trong việc bảo vệ quyền con người cho nhóm thiểu số.
b) Hạn chế và khoảng trống pháp lý
Mặc dù đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào DTTS vẫn bộc lộ những hạn chế hệ thống và khoảng trống pháp lý, đặc biệt trong bối cảnh thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp từ năm 2025, thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
Một là, hiện nay, thông tin chính sách chủ yếu bằng tiếng Việt, do vậy khó khăn cho việc tiếp cận đối với đồng bào DTTS không thành thạo tiếng phổ thông. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hà trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật năm 2024 chỉ ra rằng, tại 20 tỉnh miền núi, chỉ 25% tài liệu về đất đai và an sinh xã hội được dịch song ngữ, gây ra 35% trường hợp khiếu nại từ DTTS liên quan đến hiểu lầm chính sách, vi phạm Điều 5 ICERD về quyền tiếp cận dịch vụ công bình đẳng [16].
Hai là, từ khi không còn HĐND cấp huyện, vai trò giám sát và cung cấp thông tin về dự án lớn (như khai thác khoáng sản) thường bị bị chậm trễ. Báo cáo của Bộ Dân tộc và Tôn giáo tháng 8/2025 cho thấy, tại 15 tỉnh, tỷ lệ khiếu nại từ DTTS về thông tin không đầy đủ tăng 20%, chủ yếu do thiếu kênh phản hồi hai chiều, trái với Điều 25 ICCPR về quyền tham gia quản lý nhà nước [17].
Ba là, ngân sách truyền thông vùng DTTS chưa còn hạn hẹp. Trong Chương trình 1719, kinh phí cho Dự án 10 chỉ đạt 60% kế hoạch năm 2024 do ưu tiên hạ tầng cứng (đường sá, điện), dẫn đến tình trạng đội tuyên truyền lưu động thiếu thiết bị và nhân sự tại biên giới [18].
Bốn là, đội ngũ cán bộ xã vùng DTTS thiếu kỹ năng truyền thông đa văn hóa và song ngữ, làm giảm hiệu quả tiếp cận thông tin. Theo Bộ Nội vụ năm 2024, chỉ 18% cán bộ xã biết tiếng dân tộc, trong khi mô hình hai cấp đổ dồn trách nhiệm truyền thông về cấp xã mà không tăng biên chế hoặc đào tạo [19]. Nguyễn Thị Thu Hà (2024) nhấn mạnh rằng, sự thiếu hụt này dẫn đến thông tin bị méo mó, với tỷ lệ đồng bào nắm bắt chính sách chỉ đạt 50% ở Tây Nguyên, góp phần vào bất bình đẳng giới khi phụ nữ DTTS tiếp cận thấp hơn 15%.
3. Một số giải pháp và kiến nghị chính sách
Để quyền tiếp cận thông tin của đồng bào DTTS thực sự hiệu quả trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp, cần tập trung một số giải pháp sau đây:
Trước hết, cần có quy định pháp luật về sử dụng ngôn ngữ, theo đó, đối với thông tin liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của đồng bào DTTS tại địa bàn có trên 30% dân số là người DTTS, cơ quan nhà nước có nghĩa vụ cung cấp bản dịch chính thức sang tiếng dân tộc phổ biến nhất trên địa bàn kèm giải thích bằng hình thức truyền thống phù hợp văn hóa.
Thứ hai, nghiên cứu thành lập Quỹ Truyền thông vùng đồng bào DTTS trực thuộc Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG 1719, với dòng ngân sách riêng ổn định 5 năm từ ngân sách trung ương và Chương trình 1719 giai đoạn II (2026 - 2030).
Thứ ba, nghiên cứu đưa nội dung “Kỹ năng truyền thông đa văn hóa và song ngữ” thành môn học bắt buộc trong chương trình bồi dưỡng hàng năm cho toàn bộ công chức cấp xã vùng DTTS.
Thứ tư, chú trọng vai trò “đại sứ thông tin cộng đồng” đối với người có uy tín trong đồng bào DTTS, với phụ cấp hợp lý để khuyến khích sự tham gia của họ.
Thứ năm, có thể ban hành Bộ tiêu chí quốc gia đánh giá hiệu quả tiếp cận thông tin vùng DTTS (tỷ lệ dịch song ngữ ≥ 80%, tỷ lệ hộ dân hiểu chính sách ≥ 75%, giảm khiếu nại do thiếu thông tin ≤ 5%) làm căn cứ phân bổ ngân sách hàng năm cho chính quyền cấp xã và cấp tỉnh.
4. Kết luận
Mô hình chính quyền địa phương hai cấp là bước tiến tất yếu để tinh gọn bộ máy và tăng tính tự chủ cơ sở. Tuy nhiên, nếu không kịp thời bổ sung các cơ chế bảo vệ đặc thù nêu trên, cải cách này sẽ vô tình tạo ra khoảng cách thông tin mới, gây khó khăn cho đồng bào DTTS trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin.
Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin thực chất cho đồng bào DTTS không chỉ là yêu cầu pháp lý theo Hiến pháp năm 2013 và các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, mà còn là mệnh lệnh chính trị - đạo đức của Nhà nước pháp quyền XHCN. Chỉ khi chính sách được nói bằng tiếng mẹ đẻ, được giải thích, được hiểu rõ trong nhà rông, trên nương rẫy,... và qua người có uy tín mà bà con tin tưởng, thì đồng bào DTTS mới thực sự trở thành chủ thể của sự phát triển.
ThS. Nguyễn Thị Thanh Bình
Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
---
Tài liệu tham khảo
[1] Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc (2011), Bình luận chung số 34 (CCPR/C/GC/34).
[2], Liên Hợp Quốc (1965), Công ước ICERD, Điều 5.
[3] Cục Thống kê (2020), Kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 dân tộc thiểu số năm 2019.
[4] Bộ Nội vụ (2024), Báo cáo nguồn nhân lực cán bộ cấp xã vùng DTTS.
[5] Thủ tướng Chính phủ (2021), Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.
[6] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2025), Báo cáo thực hiện Dự án 10 Chương trình 1719 giai đoạn 2021 - 2025.
[7] Vietnamnet (2025), “Bước tiến mới bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”, ngày 10/7/2025.
[8] Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Quảng Trị (2025), “Thành tựu sau 3 năm thực hiện Chương trình MTQG 1719”.
[9] Bộ Dân tộc và Tôn giáo (2025), Báo cáo giữa kỳ Chương trình 1719.
[10] Đài Tiếng nói Việt Nam (2025), Báo cáo phát sóng chương trình tiếng dân tộc năm 2025.
[11] Thanh tra Chính phủ (2024), Báo cáo tổng hợp khiếu nại hành chính vùng DTTS.
[12] Thủ tướng Chính phủ (2019), Quyết định số 414/QĐ-TTg ngày 12/4/2019 phê duyệt Đề án tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ DTTS.
[13] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2025), Báo cáo phủ sóng loa truyền thanh xã vùng DTTS.
[14] UBND tỉnh Phú Thọ (2025), Báo cáo triển khai Đề án 414/QĐ-TTg.
[15] Nguyễn Thị Thu Hà (2024), “Thách thức bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của đồng bào DTTS trong bối cảnh tinh gọn bộ máy”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8/2024.
[17] Bộ Dân tộc và Tôn giáo (2025), Báo cáo đánh giá công tác dân tộc sau sắp xếp bộ máy, tháng 8/2025.
[18] Bộ Tài chính (2024), Báo cáo phân bổ ngân sách Chương trình 1719 năm 2024.
[19] Bộ Nội vụ (2024), Báo cáo nguồn nhân lực cán bộ cấp xã vùng DTTS.