Bài viết phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” và giá trị định hướng đối với chính sách, pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng ở Việt Nam. Tư tưởng này vừa kế thừa truyền thống đạo lý dân tộc, vừa thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo người có công. Trên cơ sở đó, bài viết đánh giá thực trạng chính sách, pháp luật hiện hành, đồng thời chỉ ra những hạn chế cần khắc phục. Cuối cùng, bài viết đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách ưu đãi trên cả phương diện pháp lý và tổ chức thực hiện, nhằm bảo đảm công bằng, nhân văn, hiệu quả và phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1. Khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn, đáp nghĩa”
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về cách mạng Việt Nam, về con người, về đạo lý dân tộc, được hình thành và phát triển trong suốt quá trình Người hoạt động cách mạng và lãnh đạo công cuộc giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, một nội dung nổi bật thể hiện chiều sâu đạo đức, nhân văn và giá trị văn hóa truyền thống, chính là tư tưởng về “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”. Đây là một mạch tư tưởng xuyên suốt, thể hiện sinh động ở cả lời nói, văn bản và hành động của Hồ Chí Minh trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong chính sách đối với người có công với cách mạng.
Trước hết, cần khẳng định rằng tư tưởng “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống văn hóa ngàn đời của dân tộc Việt Nam – một dân tộc có đạo lý thâm sâu về lòng biết ơn, nghĩa tình và hiếu nghĩa. Từ kho tàng tục ngữ, ca dao như “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn”, “chim có tổ, người có tông”, đạo lý ấy đã trở thành sợi chỉ đỏ trong đời sống tinh thần và quan hệ xã hội của người Việt. Người không chỉ tiếp thu mà còn kế thừa, nâng cao và phát triển truyền thống đó trên bình diện lý luận chính trị - đạo đức cách mạng, gắn liền với trách nhiệm của Nhà nước và toàn xã hội trong công cuộc tri ân, đền đáp những người đã hy sinh, đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lòng biết ơn đối với những người có công không chỉ là một giá trị đạo đức cá nhân hay truyền thống gia đình, mà phải trở thành một nguyên tắc ứng xử của Nhà nước cách mạng. Người khẳng định: “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận chúng ta là phải biết ơn, phải yêu thương và giúp đỡ họ[1]”. Ở đây, tư tưởng của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở mức độ biểu cảm đạo đức, mà đã phát triển thành một luận điểm chính trị: Nhà nước cách mạng chân chính là Nhà nước biết tôn vinh và chăm lo cho những người đã hy sinh, cống hiến vì lợi ích của đất nước và nhân dân. Việc đền ơn, đáp nghĩa không thể chỉ là hành vi mang tính tình cảm, mà cần trở thành chính sách cụ thể, có hệ thống và được thể chế hóa bằng pháp luật.
Một điểm đặc biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gắn kết chặt chẽ giữa đạo lý và chính trị, giữa lòng biết ơn và tinh thần hành động. Theo Người, việc tri ân không chỉ để thể hiện nghĩa tình, mà còn có ý nghĩa chiến lược trong việc củng cố niềm tin, tạo sự đồng thuận xã hội và phát huy nguồn lực của nhân dân cho công cuộc cách mạng. Chính vì vậy, ngay từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập, trong bối cảnh còn vô cùng khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến việc chăm lo cho thương binh, liệt sĩ, gia đình người có công. Ngày 27/7/1948 – Ngày Thương binh liệt sĩ – được xem là một dấu mốc thể hiện sinh động tư tưởng “uống nước nhớ nguồn” trong hành động của Người. Trong thư gửi Ban tổ chức ngày Thương binh năm 1948, Hồ Chí Minh viết: “Thương binh là những người đã hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đó đã ốm yếu. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn và giúp đỡ những người anh dũng ấy” [2].
Nội hàm tư tưởng “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” của Hồ Chí Minh không dừng lại ở việc biểu dương hay tri ân, mà còn thể hiện tầm nhìn toàn diện về sự phát triển xã hội. Người nhận thức sâu sắc rằng, để xây dựng một xã hội tiến bộ, công bằng và nhân văn, việc tôn vinh và chăm sóc những người có công không thể thiếu. Đó là nền tảng tạo ra sự gắn kết giữa các thế hệ, củng cố tinh thần yêu nước và khơi dậy truyền thống cách mạng. Thậm chí trước lúc đi xa, trong bản Di chúc thiêng liêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt căn dặn Đảng, Chính phủ và nhân dân phải chăm lo đầy đủ cho thương binh, gia đình liệt sĩ và những người đã hy sinh xương máu vì Tổ quốc. Người nhấn mạnh cần bảo đảm cho họ nơi ăn, chốn ở ổn định, tổ chức dạy nghề phù hợp để từng bước giúp họ “tự lực cánh sinh”. [3] Với các liệt sĩ, mỗi địa phương nên xây dựng vườn hoa, bia tưởng niệm nhằm ghi nhớ công lao và giáo dục lòng yêu nước cho thế hệ sau. Cha mẹ, vợ con liệt sĩ, nếu neo đơn, thiếu sức lao động, thì chính quyền phải quan tâm, hỗ trợ công việc, không để họ rơi vào cảnh đói rét[4].
Tư tưởng ấy đã trở thành kim chỉ nam cho quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về người có công ở Việt Nam. Ngay từ những năm đầu kháng chiến, các hình thức hỗ trợ thương binh, gia đình liệt sĩ, cán bộ hoạt động cách mạng đã được triển khai thông qua các quyết định hành chính, sắc lệnh của Chủ tịch nước và các cơ quan chuyên môn. Từ đó, hệ thống chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công từng bước hình thành, mở rộng và hoàn thiện về nội dung, phạm vi và đối tượng áp dụng. Các chính sách không chỉ dừng lại ở việc trợ cấp hàng tháng, hỗ trợ y tế, giáo dục mà còn bao gồm việc cấp đất, hỗ trợ nhà ở, đào tạo nghề và tạo việc làm phù hợp với hoàn cảnh của người có công.
Một dấu ấn quan trọng trong quá trình thể chế hóa tư tưởng Hồ Chí Minh là việc ban hành Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm 1994[5] (và được sửa đổi, bổ sung nhiều lần sau đó). Pháp lệnh này quy định rõ các đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi như người hoạt động cách mạng trước Cách mạng Tháng Tám 1945, liệt sĩ và thân nhân, Anh hùng LLVTND, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, thương binh, bệnh binh, người bị tù đày, người hoạt động kháng chiến… Đồng thời, pháp lệnh cũng xác định cụ thể các quyền lợi, chính sách hỗ trợ mà các đối tượng này được hưởng, thể hiện một hệ thống pháp luật tương đối toàn diện, kế thừa và phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Ngoài hệ thống pháp luật, nhiều chương trình mang ý nghĩa đạo lý – xã hội sâu sắc đã được triển khai trên toàn quốc như: phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, xây dựng “Nhà tình nghĩa”, chăm sóc “Mẹ Việt Nam anh hùng”, hỗ trợ gia đình liệt sĩ, tổ chức thăm hỏi, tặng quà vào các dịp lễ, Tết... Các hoạt động này được các cấp chính quyền, đoàn thể và nhân dân tích cực tham gia, tạo nên một phong trào xã hội sâu rộng, thể hiện tinh thần gắn bó, trách nhiệm cộng đồng và đạo lý dân tộc.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, việc thực hiện tư tưởng “đền ơn đáp nghĩa” trong thực tiễn vẫn còn một số hạn chế, bất cập như thủ tục hành chính phức tạp, tình trạng trục lợi chính sách, sự chênh lệch trong mức hưởng giữa các địa phương, thiếu sự cập nhật phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay. Những điều này cho thấy việc quán triệt và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh cần không ngừng đổi mới, hoàn thiện về cơ chế, chính sách và phương thức thực thi.
Có thể khẳng định rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” là một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống tư tưởng đạo đức, chính trị của Người. Đó không chỉ là chuẩn mực văn hóa dân tộc được kế thừa và phát huy, mà còn là nền tảng tư tưởng cho việc xây dựng chính sách pháp luật ưu đãi xã hội đối với người có công. Việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện chính sách này chính là cách thiết thực và đúng đắn nhất để khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện phát triển hiện nay.
Ảnh minh họa. Nguồn: thanhtra.com.vn
2. Thực trạng chính sách, pháp luật về ưu đãi xã hội người có công với cách mạng ở Việt Nam hiện nay
Chính sách ưu đãi xã hội dành cho người có công với cách mạng là một phần quan trọng trong hệ thống chính sách bảo đảm xã hội của Việt Nam. An sinh xã hội, theo Hiến pháp 2013, là quyền cơ bản của công dân, bao gồm nhiều hình thức như ưu đãi xã hội cho người có công, bảo hiểm xã hội cho người lao động, cứu trợ xã hội và bảo trợ xã hội cho những người gặp khó khăn. Chính sách ưu đãi xã hội không chỉ mang tính bảo vệ, giúp đỡ mà còn thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của Nhà nước và cộng đồng đối với nhóm đối tượng đặc biệt này.
Trong suốt chiều dài phát triển đất nước, đặc biệt từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay, chính sách này không chỉ là một biện pháp bảo đảm xã hội mang tính pháp lý, mà còn là hiện thân rõ nét của truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã nhiều lần khẳng định: “Máu đào của các liệt sĩ đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói… Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ”[6].
Trên phương diện pháp lý, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh về ưu đãi xã hội đối với người có công với cách mạng. Điểm nhấn nổi bật là Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005 và ba lần sửa đổi vào các năm 2007[7], năm 2012[8] và năm 2020[9]– đánh dấu bước phát triển mới về cả nội dung lẫn kỹ thuật lập pháp.
Có thể nói, pháp luật ưu đãi xã hội ở nước ta được bổ sung và hoàn chỉnh dần và đến nay đã hình thành một hệ thống văn bản pháp luật tương đối đồng bộ về vấn đề ưu đãi cả về vật chất và tinh thần đối với người có công.
Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm 2020 do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/7/2021, là văn bản pháp lý quan trọng, thể chế hóa chủ trương của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về tri ân những người đã hy sinh, đóng góp cho sự nghiệp cách mạng. Với 7 chương, 58 điều, Pháp lệnh tạo nền tảng pháp lý cho việc xác nhận, công nhận, và thực hiện chế độ chăm sóc, đãi ngộ toàn diện đối với người có công và thân nhân của họ.
Pháp lệnh quy định hai nhóm đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi: người có công với cách mạng và thân nhân của họ. Có 12 diện người có công gồm: người hoạt động cách mạng trước và sau ngày 1/1/1945; liệt sĩ; thương binh, bệnh binh; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng LLVTND, Anh hùng Lao động thời kỳ kháng chiến; người bị địch bắt tù, đày; người nhiễm chất độc hóa học; người có công giúp đỡ cách mạng... So với Pháp lệnh trước, Pháp lệnh 2020 giữ nguyên số lượng nhóm đối tượng nhưng đã chuẩn hóa theo trật tự logic: điều kiện – chế độ người có công – chế độ thân nhân. Một điểm mới đáng chú ý là mở rộng chế độ bảo hiểm y tế cho vợ/chồng liệt sĩ đã tái hôn nhưng vẫn nuôi con hoặc chăm sóc cha mẹ liệt sĩ.
Về tiêu chuẩn công nhận người có công, Pháp lệnh 2020 có quy định chặt chẽ hơn nhằm bảo đảm nguyên tắc chính xác, công bằng và tôn vinh đúng đối tượng. Các điều khoản quy định rõ điều kiện để công nhận người hoạt động cách mạng, liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người bị nhiễm chất độc hóa học… Cụ thể, Pháp lệnh nhấn mạnh yếu tố bị thương khi làm nhiệm vụ hoặc cứu người, cứu tài sản của Nhà nước, nhân dân. Ngoài ra, danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng được quy định theo tiêu chuẩn cụ thể tại Điều 17; bệnh binh được công nhận nếu tổn thương từ 61% trở lên và không đủ điều kiện nghỉ hưu.
Về chính sách ưu đãi, Pháp lệnh hệ thống hóa đầy đủ các chế độ như: trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần, khám chữa bệnh, phục hồi chức năng, miễn/giảm thuế, vay vốn ưu đãi, hỗ trợ nhà ở, đất ở… Đặc biệt, chính sách bảo hiểm y tế được mở rộng cho cả thân nhân người hoạt động cách mạng còn sống. Các quy định mới cũng bổ sung chế độ thờ cúng liệt sĩ không có thân nhân, hỗ trợ di chuyển hài cốt, hỗ trợ thân nhân các đối tượng đã mất nhưng chưa kịp thụ hưởng chính sách.
Với nhiều điểm đổi mới và hoàn thiện, Pháp lệnh 2020 đã góp phần mở rộng diện hưởng chính sách, nâng cao hiệu quả tri ân người có công, qua đó khẳng định rõ vai trò nhân văn và công bằng xã hội trong chính sách pháp luật của Nhà nước ta.
Việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ưu đãi người có công cùng hệ thống pháp luật ưu đãi xã hội cho thấy sự phát triển đáng kể về mặt pháp lý. Pháp luật ưu đãi xã hội đã từng bước được pháp điển hóa, kế thừa các giá trị hợp lý qua các thời kỳ lịch sử, đồng thời bổ sung nhiều quy phạm mới, đầy đủ, chính xác, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Hệ thống pháp luật này khẳng định vai trò chủ đạo và trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo người có công, đồng thời trở thành công cụ quản lý hiệu quả trong ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Pháp luật ưu đãi xã hội cũng đề cao vai trò, tình cảm và trách nhiệm của cộng đồng đối với người có công, góp phần nâng cao đời sống và khơi dậy tinh thần tự lực vươn lên trong điều kiện mới. Cùng với 5 chương trình chăm sóc người có công đang triển khai tại các địa phương, nhiều mô hình thiết thực đã xuất hiện như: phong trào phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, xây dựng vườn cây tình nghĩa, tổ thương binh tình nghĩa, mô hình làm kinh tế giỏi của gia đình liệt sĩ, thương binh, hay các xã, phường làm tốt công tác người có công. Những hoạt động này đã góp phần lan tỏa trách nhiệm xã hội và biến sự tri ân thành hành động thiết thực trong toàn dân.
Trên bình diện chính trị – xã hội và văn hóa, chính sách ưu đãi người có công đã tạo dấu ấn sâu đậm trong đời sống xã hội và hệ giá trị văn hóa – chính trị của Việt Nam. Việc triển khai đồng bộ các chương trình như phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, xây dựng nhà tình nghĩa, phong trào "Đền ơn đáp nghĩa", chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ, tổ chức lễ tri ân nhân ngày 27/7… đã lan tỏa tinh thần “nhân dân chăm lo người có công, xã hội phụng dưỡng người có ơn” trong toàn quốc.
Tại nhiều địa phương, các phong trào như thương binh làm kinh tế giỏi[10], xã phường kiểu mẫu trong công tác người có công đã phát huy hiệu quả rõ rệt, vừa giúp cải thiện đời sống cho người có công, vừa gắn kết cộng đồng và nâng cao đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Chính sách ưu đãi người có công không chỉ góp phần bảo đảm an sinh, mà còn củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Đây cũng là một yếu tố chính trị then chốt giúp duy trì ổn định xã hội, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế – xã hội trong bối cảnh chuyển đổi và hội nhập. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay pháp luật ưu đãi xã hội và vấn đề tổ chức thực hiện còn một số vấn đề không phù hợp.
Trước hết, hệ thống pháp luật hiện hành chưa bao quát đầy đủ các quan hệ xã hội liên quan đến người có công. Pháp lệnh năm 2020 mới chỉ xác định 12 nhóm đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi, bỏ sót nhiều trường hợp có đóng góp đặc biệt như thanh niên xung phong bị bệnh tật trong kháng chiến, dân công hỏa tuyến, các cá nhân được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý như Nhà giáo Nhân dân, Thầy thuốc Nhân dân, Nghệ sĩ Nhân dân. Mặc dù việc mở rộng đối tượng cần được cân nhắc kỹ lưỡng, song rõ ràng giữa Nhà nước và những cá nhân này tồn tại mối quan hệ pháp lý – xã hội cần được điều chỉnh bằng quy phạm ưu đãi phù hợp, thể hiện công bằng và đạo lý tri ân.
Thứ hai, pháp luật ưu đãi xã hội còn thiếu thống nhất và hiệu lực chưa cao. Hệ thống văn bản còn tản mạn, chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn, gây khó khăn trong áp dụng. Nhiều vấn đề chưa được quy định rõ, như chính sách với người Việt Nam ở nước ngoài có công hoặc người nước ngoài từng tham gia kháng chiến. Một số nội dung quan trọng như hỗ trợ về thuế, đất đai vẫn thiếu hướng dẫn cụ thể, ảnh hưởng đến tính thực thi. Bên cạnh đó, pháp luật chưa phát huy được vai trò phối hợp giữa Nhà nước, cộng đồng và bản thân người có công trong nâng cao chất lượng cuộc sống; nguồn lực thực hiện còn phụ thuộc hoàn toàn vào ngân sách nhà nước, trong khi mức trợ cấp còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Thứ ba, công tác tổ chức thực hiện chính sách ưu đãi còn nhiều vướng mắc. Việc xác định đúng đối tượng vẫn gặp khó khăn do còn khoảng 300.000 liệt sĩ chưa xác định danh tính[11]. Nhiều chính sách hỗ trợ bị điều chỉnh theo hướng giảm quyền lợi, như hỗ trợ thăm viếng mộ liệt sĩ[12]. Một số quy định về thời điểm hưởng trợ cấp bổ sung (đối với người vừa là thương binh, vừa là bệnh binh) còn hạn chế. Theo quy định hiện hành, họ chỉ được tính hưởng từ thời điểm Sở Lao động – Thương binh và Xã hội ra quyết định. Trong khi đó, nhiều người có công nộp hồ sơ muộn do điều kiện khách quan nên bị thiệt thòi; Thủ tục giám định thương tật còn quá khắt khe: một số thương binh muốn giám định lại nhưng do chỉ còn một trong hai giấy tờ (giấy chứng nhận bị thương hoặc biên bản xác định thương tật) nên hồ sơ không được chấp nhận, gây bức xúc; Quy định tại Điều 43 Nghị định 131/2021/NĐ-CP còn thiếu nhất quán: nếu người đang hưởng chế độ bệnh binh thì có thể được hưởng thêm chế độ thương binh, nhưng nếu đang hưởng chế độ thương binh thì lại không được hưởng chế độ bệnh binh – điều này gây ra sự không công bằng trong áp dụng chính sách; Việc hỗ trợ xây dựng hoặc sửa chữa nhà ở cho người có công tuy đã được quy định nhưng vẫn chưa được triển khai thực tế, làm giảm hiệu quả thực thi chính sách an sinh xã hội dành cho nhóm đối tượng này.
Từ những kết quả và hạn chế nêu trên, có thể thấy rằng vấn đề then chốt đặt ra hiện nay là cần tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh trong chính sách pháp luật ưu đãi người có công, đặc biệt trong bối cảnh đất nước chuyển mình mạnh mẽ theo hướng hội nhập quốc tế, phát triển bền vững và thực hiện công bằng xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” không chỉ là một giá trị đạo đức truyền thống, mà còn là nền tảng tư tưởng - chính trị để xây dựng các chính sách pháp luật thực sự nhân văn, toàn diện và hiệu quả. Việc tri ân người có công không thể chỉ dừng ở mức độ hình thức, phong trào, mà phải được thể chế hóa thành hệ thống pháp luật hiện đại, đồng bộ, dễ thực thi và phản ánh đúng các quan hệ xã hội mới phát sinh.
3. Giá trị định hướng của tư tưởng đối với chính sách, pháp luật ưu đãi xã hội người có công với cách mạng ở Việt Nam hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về "uống nước nhớ nguồn", "đền ơn đáp nghĩa" là một trong những giá trị cốt lõi, vừa mang tính nhân đạo, vừa thể hiện trách nhiệm lịch sử của Nhà nước và toàn xã hội đối với những người đã hy sinh, cống hiến vì độc lập, tự do và sự nghiệp phát triển đất nước. Tư tưởng ấy không chỉ dừng lại ở phương diện đạo lý truyền thống mà còn có giá trị định hướng mạnh mẽ cho quá trình hoạch định, xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật ưu đãi người có công trong điều kiện hiện nay.
Trước hết, cần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu mở rộng phạm vi điều chỉnh và đối tượng thụ hưởng chính sách ưu đãi xã hội theo hướng bao quát hơn, toàn diện hơn, không ngừng cập nhật các mối quan hệ xã hội mới phát sinh. Hiện nay, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng (năm 2020) đã quy định 12 nhóm đối tượng cụ thể được hưởng chính sách. Tuy nhiên, thực tiễn đời sống cho thấy còn nhiều đối tượng có cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp cách mạng và xây dựng đất nước vẫn chưa được ghi nhận thỏa đáng. Do đó, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung pháp lệnh này theo hướng mở rộng khái niệm “người có công” để bao gồm các nhóm[13] như: thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến bị bệnh tật trong kháng chiến, người được phong tặng các danh hiệu cao quý như Nhà giáo Nhân dân, Thầy thuốc Nhân dân, Nghệ sĩ Nhân dân, các nhà khoa học tiêu biểu có cống hiến đặc biệt trong giai đoạn tái thiết và phát triển đất nước.
Đồng thời, cần thiết lập một cơ chế phân loại đóng góp và đánh giá cống hiến, dựa trên các tiêu chí rõ ràng về lịch sử, chính trị, xã hội, để từ đó xác lập thang bậc ưu đãi phù hợp, thể hiện sự tôn vinh công bằng và hợp lý. Việc này không chỉ bảo đảm quyền lợi mà còn tạo động lực xã hội tích cực, khơi dậy tinh thần cống hiến trong các tầng lớp nhân dân. Đó chính là hiện thực hóa lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ai có công thì Nhà nước phải báo đáp xứng đáng”..
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật ưu đãi xã hội theo hướng thống nhất, đồng bộ và có hiệu lực pháp lý cao. Tiến hành rà soát và hệ thống hóa các văn bản liên quan đến ưu đãi người có công, loại bỏ sự chồng chéo, trùng lặp, đồng thời ban hành Luật Ưu đãi người có công thay thế Pháp lệnh, nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý và tạo khung pháp lý đồng bộ hơn. Bổ sung quy định đối với các trường hợp còn bỏ ngỏ: anh hùng lao động sau năm 1975, người Việt Nam ở nước ngoài hoặc người nước ngoài có công trong kháng chiến… Thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành trong việc xây dựng chính sách và hướng dẫn thực thi. Đẩy mạnh xã hội hóa các nguồn lực hỗ trợ người có công, không chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước, mà phát huy vai trò của cộng đồng, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc huy động và sử dụng nguồn lực..
Thứ ba, nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật ưu đãi xã hội, khắc phục các vướng mắc thực tiễn theo hướng:
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và số hóa hồ sơ người có công để tra cứu, xác minh danh tính liệt sĩ, thương binh, bệnh binh dễ dàng hơn. Tăng đầu tư cho công tác giám định ADN, cơ sở dữ liệu quốc gia về người có công, phối hợp tốt giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, và các Bộ có liên quan.
- Rà soát mức hỗ trợ thăm viếng mộ liệt sĩ và các trợ cấp khác để tăng theo mức giá thị trường hoặc gắn với mức lương tối thiểu vùng, bảo đảm quyền lợi thiết thực. Cần xây dựng khung chuẩn về mức trợ cấp tối thiểu tương ứng với từng nhóm đối tượng và địa bàn cư trú, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.
- Sửa đổi quy định về thời điểm hưởng trợ cấp. Cần quy định việc truy lĩnh đối với người nộp hồ sơ muộn vì lý do khách quan (khó khăn, bệnh tật, thiếu giấy tờ gốc), bảo đảm quyền lợi công bằng.
- Cải cách thủ tục giám định và hồ sơ. Đơn giản hóa thủ tục giám định thương tật, cho phép sử dụng một trong các giấy tờ hợp pháp thay thế, tăng cường công tác hướng dẫn và hỗ trợ người dân làm hồ sơ. Rà soát và sửa đổi quy định tại Điều 43 Nghị định 131/2021/NĐ-CP, cho phép người vừa là bệnh binh vừa là thương binh được hưởng đầy đủ chính sách tương ứng với hai diện hưởng nếu có đủ điều kiện.
- Tăng cường hỗ trợ về nhà ở cho người có công. Tập trung nguồn lực, kết hợp giữa chính sách hỗ trợ của Nhà nước với tín dụng ưu đãi và đóng góp của cộng đồng để đẩy nhanh tiến độ xây dựng, sửa chữa nhà ở. Thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát và công khai việc thực hiện chính sách hỗ trợ nhà ở, đảm bảo đúng đối tượng, đúng tiến độ và tránh lãng phí..
Thứ tư, tăng cường thanh tra, kiểm tra và giám sát thực hiện pháp luật ưu đãi người có công. Thiết lập cơ chế thanh tra định kỳ, thanh tra chuyên đề đối với các địa phương về việc triển khai chính sách người có công, xử lý nghiêm các sai phạm như gian lận hồ sơ, trục lợi chính sách. Khuyến khích vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể và báo chí trong việc phát hiện, giám sát, phản ánh các bất cập, tiêu cực trong chính sách ưu đãi. Đẩy mạnh minh bạch hóa thông tin, công khai danh sách người có công được hưởng ưu đãi tại địa phương, các nguồn chi trợ cấp, kết quả thanh tra, để nhân dân cùng giám sát và góp phần bảo đảm công bằng xã hội.
4. Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo lý "uống nước nhớ nguồn", "đền ơn đáp nghĩa" là giá trị cốt lõi trong di sản tư tưởng của Người, thể hiện sâu sắc tinh thần nhân văn, yêu nước và trách nhiệm xã hội. Tư tưởng ấy đã trở thành kim chỉ nam cho việc hình thành và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật ưu đã xã hội đối với người có công với cách mạng ở Việt Nam. Qua các thời kỳ, Đảng và Nhà nước ta không ngừng cụ thể hóa tư tưởng Hồ Chí Minh thành những quy định pháp lý và chương trình hành động thiết thực, góp phần bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho người có công, củng cố niềm tin của nhân dân vào chế độ. Tuy nhiên, để chính sách phát huy hiệu quả cao nhất, cần tiếp tục đổi mới cơ chế thực hiện, nâng cao tính minh bạch, công bằng và toàn diện. Việc kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực này không chỉ là yêu cầu chính trị - pháp lý mà còn là biểu hiện sinh động của đạo lý dân tộc và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
ThS. Nguyễn Thanh Tùng
Viện Nhà nước và Pháp luật – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 10, tr. 372
[2] Chủ tịch Hồ Chí Minh với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2002, tr. 1.425 - 1.426
[3] Hồ Chí Minh toàn tập. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2011
[4] Nguyễn Văn Tài (2018), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Thương binh, Liệt sĩ, Tạp chí Tòa án nhân dân, (23/07/2018 07:07), https://tapchitoaan.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-thuong-binh-liet-si
[5] Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng năm 1994
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr.401.
[7] Ngày 21 tháng 06 năm 2007 Ủy ban Thường Vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh số: 35/2007/PL-UBTVQH11 sửa đổi bổ sung một số điều Pháp lệnh người có công với cách mạng.
[8] Ngày 16 tháng 07 năm 2012 Ủy ban Thường Vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh số: 04/2012/UBTVQH13 sửa đổi bổ sung một số điều Pháp lệnh người có công với cách mạng.
[9] Ngày 09 tháng 12 năm 22020 Ủy ban Thường Vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh số: 02/2020/UBTVQH14 ban hành Pháp lệnh người có công với cách mạng 2020.
[10] Nguyễn Phong - Quốc Trinh (2024), Những thương binh vượt khó, làm kinh tế giỏi,( 27/07/2024 - 06:12), https://nhandan.vn/nhung-thuong-binh-vuot-kho-lam-kinh-te-gioi-post821326.html
[11] Hoàng Thùy (2022), 300.000 liệt sĩ chưa xác định danh tính là nỗi trăn trở lớn, VnExpress, (27/7/2022, 07:23), https://vnexpress.net/300-000-liet-si-chua-xac-dinh-danh-tinh-la-noi-tran-tro-lon-4492502.html
[12] Nguyễn Thị Tuyết Vân - Nguyễn Thị Sơn - Nguyễn Thị Sinh Chi (2024), Khuyến nghị về pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng là thương binh, liệt sĩ, Tạp chí Nguồn nhân lực và An sinh xã hội, số 31 - tháng 06/2024, tr.11.
[13] Nguyễn Thanh Tùng – Đinh Đức Thiện (2016), Thực trạng điều chỉnh pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 7/2016, tr.37