Quyền con người là một giá trị cơ bản, quan trọng của nhân loại. Đó là thành quả của sự phát triển lịch sử, là một đặc trưng của xã hội văn minh. Từ thực tế cho thấy, hoạt động của lực lượng Công an nhân dân đều có sự liên quan mật thiết đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, với tình hình an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, với quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân. Hoạt động giáo dục về quyền con người cho mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an nói chung và cho học viên các Học viện Công an nhân dân nói riêng là một nội dung hết sức cần thiết và quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức xây dựng hình ảnh người cán bộ, chiến sĩ Công an “bản lĩnh, nhân văn, vì Nhân dân phục vụ.
Ảnh minh họa. Nguồn: cand.com.vn.
1. Nhận thức chung về quyền con người và giáo dục quyền con người cho học viên các Học viện trong Công an nhân dân
Quyền con người là một giá trị cơ bản, quan trọng của nhân loại. Đó là thành quả của sự phát triển lịch sử, là một đặc trưng của xã hội văn minh. Tư tưởng về quyền con người đã hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại; nhưng không phải trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào, trong bất cứ kiểu Nhà nước nào nó cũng tồn tại và được thừa nhận một cách đầy đủ. Theo nghĩa chung nhất, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, tự do cơ bản của con người.
Ở Việt Nam, kể từ khi giành được độc lập (năm 1945), Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền con người. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 02/9/1945 được coi là một văn kiện có tính lịch sử trên phương diện quốc tế về quyền con người. Trên cơ sở đó, quyền con người đã được ghi nhận trong các bản Hiến pháp nước ta. Bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ghi nhận các quyền thiêng liêng của con người. Tiếp đó là các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 không chỉ thừa nhận và bảo đảm đầy đủ các quyền con người, quyền công dân phù hợp với luật pháp quốc tế mà còn khẳng định rõ: Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, có trách nhiệm bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân. Đặc biệt khái niệm quyền con người lần đầu tiên được đưa vào Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) trong một chế định cụ thể.
Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của quyền con người, những năm qua, có rất nhiều nước trên thế giới luôn coi trọng việc giáo dục quyền con người nhằm làm cho mỗi con người ý thức biết tôn trọng quyền của người khác và tự mình biết bảo vệ quyền của mình. Trong lời nói đầu của “Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền” năm 1948 có viết: “Đại hội đồng Liên hợp quốc tuyên bố bản Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền là mục tiêu chung cho tất cả các dân tộc và các quốc gia phải phấn đấu đạt tới để nhằm mục đích cuối cùng là mỗi cá nhân, mỗi tổ chức xã hội, luôn luôn ghi nhớ bản Tuyên ngôn bằng giáo dục và giảng dạy sẽ nỗ lực thúc đẩy tôn trọng đối với các quyền và những tự do cơ bản”[1]. Năm 1978, UNESCO cũng đã triệu tập Hội nghị quốc tế về giáo dục nhân quyền tại Viên (Thủ đô nước Áo) để phát triển hơn nữa những lý do cho việc giáo dục nhân quyền. Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị công nhận rằng: “Giáo dục nên làm cho mỗi cá nhân thấy quyền của mình, đồng thời họ cũng phải biết tôn trọng những quyền của người khác”, và đến năm 1993, Hội nghị thế giới về quyền con người cũng được tổ chức tại Viên đặt trọng tâm vào việc coi giáo dục, đào tạo và thông tin chung về quyền con người là thiết yếu cho thúc đẩy và đạt được các quan hệ hài hòa, ổn định trong các cộng đồng và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, khoan dung và hòa bình. Trên quan điểm này, Hội nghị nhấn mạnh đến nghĩa vụ pháp lý của các quốc gia trong việc bảo đảm mục đích của giáo dục là nhằm tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và các tự do cơ bản và điều này nên được đưa vào các chính sách giáo dục ở cấp độ quốc gia và quốc tế. Sau các Tuyên bố của Hội nghị quốc tế tại Viên về giáo dục nhân quyền, Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết 59/113A ngày 10 tháng 12 năm 1994 Tuyên bố về chương trình Thập kỷ giáo dục quyền con người (1995 - 2004) và Nghị quyết số 113B ngày 14 tháng 7 năm 2005 thông qua dự thảo kế hoạch hành động bổ sung cho giai đoạn thứ nhất (2005 - 2009) của Chương trình thế giới về giáo dục quyền con người bản kế hoạch tập trung vào hệ thống các trường tiểu học và trung học với yếu tố chính là “tiếp cận giáo dục dựa trên quyền”.
Ở nước ta, đặc biệt, từ năm 1992 đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn kiện về quyền con người và giáo dục quyền con người, trong đó có Quyết định số 1039/QĐ-TTg, ngày 05/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc thông qua Đề án đưa nội dung giáo dục quyền con người vào chương trình giáo dục chính thống của hệ thống giáo dục quốc dân; đảm bảo đến năm 2025, 100% các nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân giáo dục nội dung này. Nội dung đề án đang được triển khai thực hiện, từng bước hiện thực hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và thực hiện các cam kết quốc tế của Nhà nước Việt Nam về giáo dục quyền con người.
Thuật ngữ giáo dục quyền con người cũng xuất hiện với tần suất cao hơn trong các văn kiện của các tổ chức quốc tế và khu vực, như Liên minh châu Âu (EU), Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), Tổ chức Các nước châu Mỹ (OAS), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)… Tôn trọng và thúc đẩy việc bảo đảm quyền con người đã trở thành xu thế tất yếu mang tính toàn cầu[2]. Có thể quan niệm giáo dục quyền con người là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức về quyền con người; biết tự mình bảo vệ quyền của mình và tôn trọng quyền của người khác phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của các chuẩn mực pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia và tương lai tiến bộ của nhân loại về quyền con người.
Đối với lực lượng Công an nhân dân, tại Điều 3, Luật Công an nhân dân năm 2018 quy định: “Công an nhân dân là lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”[3]; mọi hoạt động của lực lượng Công an nhân dân đều “đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự thống nhất quản lý nhà nước của Chính phủ, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Công an”[4]. Từ thực tế cho thấy, hoạt động của lực lượng Công an nhân dân đều có sự liên quan mật thiết đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, với tình hình an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, với quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân. Nhiệm vụ của lực lượng Công an nhân dân là bảo vệ quyền con người, nhưng để thực hiện được nhiệm vụ đó thì lực lượng Công an phải sử dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ để hạn chế quyền con người theo quy định của pháp luật. Nếu không nắm vững thì rất dễ sẽ dẫn đến xảy ra vi phạm các quy định về quyền con người. Cùng với đó, đặc điểm công tác đảm bảo an ninh, trật tự yêu cầu lực lượng Công an nhân dân luôn phải hoạt động trong những điều kiện khó khăn, phức tạp, nhạy cảm, trong các tình huống bất ngờ, nguy hiểm, do phương thức, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt và manh động. Điều này đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ phải trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao; kinh nghiệm thực tiễn dày dặn; khả năng tư duy độc lập, tự chủ, linh hoạt và sáng tạo; hành động tự tin và quyết đoán… để lựa chọn phương án tối ưu, đưa ra quyết định chính xác, kịp thời, nhằm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đồng thời, mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quá trình thực thi nhiệm vụ phải có định hướng chính trị đúng đắn, để kiên định, không hoang mang, dao động trước khó khăn, thử thách; nêu cao tinh thần cảnh giác, phòng ngừa và đấu tranh với các thế lực thù địch, phản động và bọn tội phạm; luôn làm chủ bản thân, làm chủ mọi hoàn cảnh, kiểm soát chặt chẽ mọi hành vi và thái độ, hành động hiệu quả trên cơ sở đảm bảo yêu cầu chính trị, nghiệp vụ, pháp luật đặt ra.
Xuất phát từ thực tế trên, hoạt động giáo dục về quyền con người cho mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an nói chung và cho học viên các Học viện Công an nhân dân nói riêng là một nội dung hết sức cần thiết và quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức về giá trị của hoạt động này trong việc hình thành, giáo dục nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng hình ảnh người cán bộ, chiến sĩ Công an “bản lĩnh, nhân văn, vì Nhân dân phục vụ”.
2. Thực trạng giáo dục quyền con người tại các Học viện trong Công an nhân dân hiện nay
Cùng với tiến trình phát triển của giáo dục đại học Việt Nam, đến nay, toàn lực lượng Công an nhân dân đã có 08 Học viện, trường Đại học thực hiện chức năng đào tạo trình độ Đại học, sau Đại học, đào tạo, bồi dưỡng các hệ chức danh lãnh đạo, chỉ huy và các chuyên đề nghiệp vụ Công an, trong đó, có 04 Học viện bao gồm: Học viện An ninh nhân dân, Học viện Cảnh sát nhân dân, Học viện Chính trị Công an nhân dân và Học viện Quốc tế. Đây là những cơ sở giáo dục trọng điểm, uy tín, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an nhân dân trước yêu cầu của tình hình mới.
Thời gian qua, cùng với chương trình công tác giáo dục, đào tạo được các Học viện xây dựng phù hợp với từng chuyên ngành đào tạo nói chung thì hoạt động giáo dục về quyền con người cũng được Đảng ủy, Ban Giám đốc các Học viện đặc biệt chú trọng, quan tâm. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, thực trạng này được khái quát, đánh giá trên một số nội dung sau:
Trước hết, về chương trình đào tạo
Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chương trình giáo dục về quyền con người cho học viên tại các Học viện trong Công an nhân dân đã từng bước được tăng cường cả về mặt nội dung, chương trình và phạm vi tổ chức giáo dục. Tuy nhiên, trong chương trình đào tạo đối với hệ đại học chính quy, nội dung giáo dục quyền con người chưa được đưa vào giảng dạy và học tập mà chỉ được tích hợp, lồng ghép vào một số môn học như: Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Luật Hiến pháp, Luật Hành chính, Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật Công an nhân dân, Luật An ninh quốc gia, Pháp luật về lao động, Xã hội học ... Một nguyên tắc trong xây dựng chương trình là dù được đào tạo theo chuyên ngành nào, học viên cũng phải nắm được các kiến thức cơ bản nhất về quyền con người. Thực tế cho thấy, nhìn chung dung lượng kiến thức về quyền con người trong chương trình giảng dạy ở các Học viện còn ở mức độ rất hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ mới của lực lượng Công an nhân dân, chỉ dừng ở mức độ khái quát, chung chung, thiếu tính chỉnh thể, tính liên thông, tính cập nhật và thống nhất theo cách tiếp cận “giáo dục dựa trên quyền” - cách tiếp cận phổ biến của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là chưa đi vào tính chuyên sâu, mặc dù kiến thức về quyền con người trên thực tế rất hữu ích trong hoạt động thực tiễn của học viên sau khi tốt nghiệp ra trường công tác tại Công an các đơn vị, địa phương. Đối với hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị, học phần “Lý luận và pháp luật về quyền con người” cũng đã được đưa vào giảng dạy, học tập và nghiên cứu tại Học viện An ninh nhân dân, Học viện Cảnh sát nhân dân và Học viện Chính trị Công an nhân dân với thời lượng 06 bài, với tổng số tiết quy chuẩn là 35 tiết, trong đó: Lý thuyết (30 tiết), thảo luận (5 tiết); Tự nghiên cứu: 10 tiết, thi hết môn: 05 tiết.
Thứ hai, về giáo trình và tài liệu dạy học
Hiện nay, bên cạnh giáo trình “Lý luận và pháp luật về quyền con người” - giáo trình dùng chung cho đào tạo hệ cao cấp lý luận chính trị của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các Học viện trong Công an nhân dân chưa xây dựng, biên soạn và có sự thống nhất về giáo trình, tài liệu dạy học; chưa có đầy đủ tài liệu cho việc giáo dục về quyền con người, quyền công dân theo từng nhóm đối tượng; bước đầu chỉ dừng lại ở việc lồng ghép vào các chuyên đề, tiết giảng đơn thuần phục vụ công tác giảng dạy và học tập của học viên.
Thứ ba, về đội ngũ cán bộ, giảng viên và báo cáo viên tuyên truyền
Đội ngũ giảng viên, báo cáo viên tham gia giảng dạy không ngừng được nâng cao cả về số lượng và trình độ, tích cực học hỏi trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; nhiều giảng viên có chức danh khoa học, học hàm, học vị cao thuộc ngành luật hoặc các ngành có liên quan được đào tạo trong và ngoài nước; luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, tuyên truyền, phổ biến kiến thức về quyền con người. Thường xuyên đổi mới hình thức, phương pháp giảng dạy phù hợp, thích ứng với đặc điểm, đặc thù và điều kiện trong công tác đào tạo, huấn luyện của từng Học viện nên mức độ, phương pháp và hình thức giáo dục về quyền con người cũng mang những tính đặc thù riêng và đã đạt được một số mục tiêu, yêu cầu đặt ra. Tuy vậy, số lượng giảng viên tham gia các hoạt động giáo dục về nhân quyền còn thiếu, kiêm nhiệm nhiều, chưa có điều kiện đi vào nghiên cứu giảng dạy chuyên sâu. Cùng với đó, đội ngũ giảng viên chưa được tham gia thường xuyên các lớp tập huấn về quyền con người, tập huấn về việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực và tham quan thực tế... Điều này đã tạo áp lực lớn, gây khó khăn cho các giảng viên, đặc biệt là đội ngũ giảng viên trẻ, kinh nghiệm giảng dạy và vốn thực tiễn chưa nhiều…
Thứ tư, về phía người học - đối tượng được giáo dục
Đối tượng được giáo dục về quyền con người bao gồm nhiều nhóm đối tượng khác nhau, trình độ nhận thức khác nhau, có tư duy mở, có khả năng tiếp nhận cái mới, có trách nhiệm cao với công việc và đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Điều này là thuận lợi rất lớn cho việc kết hợp lý luận và thực tiễn thực hiện quyền con người. Tuy nhiên, vẫn còn xuất hiện tình trạng một bộ phận học viên còn có thái độ thờ ơ, không quan tâm đến nội dung học tập về quyền con người, có biểu hiện xuống cấp về đạo đức, lối sống do chưa nắm rõ những kiến thức cơ bản nhất về vấn đề quyền con người, chưa thấy được những kết quả về nhân quyền ở nước ta đã đạt được trong thời gian qua, tình trạng vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, điều lệnh, vi phạm các chuẩn mực về quy tắc ứng xử với Nhân dân sau khi tốt nghiệp ra công tác ở Công an các địa phương vẫn còn xảy ra.
3. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục quyền con nguời cho học viên các Học viện trong Công an nhân dân thời gian tới
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám đốc các Học viện Công an nhân dân trong hoạt động giáo dục quyền con người cho học viên.
Phải xác định trong tình hình hiện nay, công tác giáo dục về quyền con người cho học viên các Học viện trong Công an nhân dân là một nội dung đặc biệt quan trọng để cụ thể hóa nội dung lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám đốc các Học viện đối với công tác giáo dục, đào tạo. Do vậy, hàng năm, Đảng ủy, Ban Giám đốc các Học viện cần chủ động xây dựng thành các chương trình, kế hoạch công tác cụ thể và huy động các nguồn lực để thực hiện có hiệu quả; phải bám sát, gắn chặt với phục vụ mục tiêu, nhiệm vụ chính trị giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng của từng Học viện, sát yêu cầu thực tiễn của công tác Công an. Thường xuyên tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ, giảng viên, học viên về vai trò, tầm quan trọng của công tác giáo dục, học tập, nghiên cứu về quyền con người. Cùng với đó, Đảng ủy, Ban Giám đốc các Học viện, lãnh đạo các Khoa chuyên môn cần có kế hoạch quan tâm đào tạo đội ngũ giảng viên tham gia các hoạt động giáo dục về quyền con người không chỉ cần có tầm nhìn về mặt thời gian mà phải có tầm nhìn tổng quát, đầy đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu, chất lượng đội ngũ giảng viên; có phương án, lộ trình xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo từng ngành học cụ thể để có thể đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của việc giảng dạy, giáo dục về quyền con người trong thời kỳ mới.
Hai là, đổi mới chương trình, nội dung giảng dạy, chuẩn hoá việc biên soạn giáo trình, tài liệu dạy học về quyền con người tại các Học viện theo hướng cập nhật, phù hợp với từng đối tượng người học, gắn sát với thực tiễn công tác, chiến đấu của lực lượng Công an nhân dân
Để chuẩn hóa việc biên soạn tài liệu dạy học, các Học viện cần chủ động phối hợp để họp, bàn trong việc xây dựng chương trình đào tạo, giáo trình dùng chung cho một số hệ học và có sự điều chỉnh phù hợp với từng chuyên ngành đào tạo. Nghiên cứu đề xuất cấp có thẩm quyền phê duyệt đưa nội dung giáo dục quyền con người vào giảng dạy tại các Học viện Công an nhân dân và tách thành một học phần riêng biệt. Các giáo trình, tài liệu dạy học phải được biên soạn theo hướng mỗi bài học là một tình huống chính trị, tình huống pháp luật, tình huống nghiệp vụ sát với yêu cầu thực tiễn của công tác. Đối với hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị, trên cơ sở giáo trình của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và chương trình đào tạo đã được ban hành, các Học viện cần thống nhất xây dựng giáo trình dùng chung, mang tính chiến lược, lâu dài, phục vụ cho công tác giáo dục, đào tạo của lực lượng Công an nhân dân. Đối với các hệ đào tạo khác (đại học, liên thông, sau đại học…), tùy vào điều kiện, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ sở đào tạo, căn cứ vào thực tế từng chuyên ngành đào tạo, các Học viện xây dựng kế hoạch để biên soạn tài liệu giảng dạy phù hợp với đặc thù của từng ngành học, ví dụ: (1) Đối với ngành Điều tra hình sự của Học viện An ninh nhân dân và Học viện Cảnh sát nhân dân có thể biên soạn một số giáo trình, tài liệu giảng dạy như: “Quyền con người trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự”; “Quyền con người trong pháp luật hình sự”; “Quyền con người trong tố tụng hình sự”; (2) Đối với chuyên ngành Quản lý, giáo dục và cải tạo phạm nhân của Học viện Cảnh sát nhân dân có thể nghiên cứu biên soạn và đưa vào giảng dạy học phần “Quyền con người trong tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự”; (3) Đối với ngành Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, chuyên ngành Xây dựng lực lượng Công an nhân dân của Học viện Chính trị Công an nhân dân đề xuất nghiên cứu, biên soạn và đưa vào giảng dạy học phần “Công tác tuyên truyền, giáo dục về quyền con người trong Công an nhân dân” hoặc “Lý luận chung về giáo dục quyền con người trong Công an nhân dân”…
Ba là, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục về quyền con người cho học viên các Học viện Công an nhân dân theo hướng “lấy người học làm trung tâm”
Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục phải luôn hướng đến từng nhóm đối tượng được giáo dục, phù hợp với từng chuyên ngành đào tạo, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ áp dụng ngay vào thực tiễn chiến đấu và phù hợp với đặc điểm công tác của lực lượng Công an nhân dân; trọng tâm, hướng đến mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Đổi mới, đa dạng hóa hình thức, phương pháp truyền đạt nhằm đảm bảo tính lý luận, tính thực tiễn. Không chỉ truyền dạy tri thức một chiều, giảng viên khai thác có chọn lọc những vấn đề từ thực tiễn để phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, qua đó tạo hứng thú và phát huy tính tích cực của người học. Hạn chế phương pháp thuyết trình, độc thoại, tăng cường áp dụng phương pháp nêu vấn đề, đối thoại, thảo luận, hướng dẫn người học. Tăng cường liên hệ với thực tiễn chính trị, xã hội, an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng Công an nhân dân… trong giảng dạy, giáo dục về quyền con người. Ngoài những nội dung được giảng dạy, lồng ghép trong các học phần, chương trình chính khóa, các Học viện cần tiếp tục tuyên truyền, phổ biến nội dung các văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực và những văn bản mới ban hành liên quan đến quyền con người đến học viên nhằm bổ sung cho học viên những tư duy, nhận thức mới để phục vụ công tác, chiến đấu sau này. Tăng cường lồng ghép nội dung giáo dục về quyền con người vào các buổi sinh hoạt chính trị, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của Học viện; thường xuyên tổ chức các diễn đàn, tọa đàm, giới thiệu chuyên đề, thi tìm hiểu kiến thức pháp luật về quyền con người để học viên có môi trường rèn luyện phù hợp và vận dụng những kiến thức vào quá trình học tập, công tác và rèn luyện tại đơn vị.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên tham gia các hoạt động giáo dục về quyền con người tại các Học viện trong Công an nhân dân đủ phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra
Đảng ủy, Ban Giám đốc các Học viện cần thường xuyên quan tâm bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và cập nhật kiến thức mới về quyền con người cho đội ngũ giảng viên, tạo điều kiện và động lực thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên; tổ chức các lớp tập huấn cho giảng viên làm công tác giảng dạy về lĩnh vực nhân quyền để nâng cao tri thức, củng cố lý luận về quyền con người cho người dạy đồng thời tăng khả năng tiếp cận và giải quyết có hiệu quả các tình huống về quyền con người gắn với nghề nghiệp trong thực tế. Muốn vậy, mỗi giảng viên cần thường xuyên tìm tòi, khám phá, không ngừng tự học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phải thực sự là người có tâm huyết với nghề nghiệp, giảng viên vừa phải có phông kiến thức sâu rộng vừa phải vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức, nguyên tắc dạy học; vận dụng các phương pháp dạy học tích cực; chú trọng nghiên cứu khoa học và xem đây là nhiệm vụ không thể thiếu trong đổi mới phương pháp giảng dạy, giúp cho giảng viên làm chủ được tri thức trên cơ sở độc lập suy nghĩ, sáng tạo và tự tin.
Năm là, đảo đảm các điều kiện kinh phí, cơ sở vật chất và các điều kiện cần thiết phục vụ hoạt động giáo dục quyền con người
Để nâng cao chất lượng giáo dục quyền con người, việc bảo đảm cơ sở vật chất, nguồn kinh phí là rất quan trọng. Các Học viện cần tư nâng cấp trang thiết bị phòng học, thư viện điện tử, thường xuyên bổ sung cập nhật tài liệu, sách báo, tạp chí phục vụ trực tiếp cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập của giảng viên và học viên. Tăng cường tài nguyên tư liệu về lý luận phục vụ hoạt động giáo dục về quyền con người và tổng hợp các trường hợp bảo vệ quyền con người để làm tư liệu nghiên cứu đào tạo. Phát động mạnh mẽ trong đội ngũ giảng viên phong trào thi đua học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ hiểu biết và sử dụng các trang thiết bị, tài liệu phục vụ cho phương pháp giảng dạy hiện đại. Cần khai thác và sử dụng tối da, hiệu quả các phương tiện, thiết bị, đồ dung dạy học, đặc biệt là phòng học chuyên dùng và thư viện của các Học viện, tránh tình trạng dạy “chay”, dạy học nặng về lí thuyết hàn lâm, ít kỹ năng thực hành, không gắn với thực tiễn.
Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục quyền con nguời cho học viên các Học viện trong Công an nhân dân luôn là nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm xuyên suốt của các Học viện nhằm hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho cán bộ, chiến sĩ đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trọng sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, không chỉ là trách nhiệm của đội ngũ giảng viên mà còn là sự cộng hưởng trách nhiệm của nhiều chủ thể khác, như: Học viên, cán bộ quản lý giáo dục và các đơn vị chức năng, cùng với các đơn vị công an các cấp./.
Trung úy, Hàn Anh Tuấn
Công an huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa
Thượng úy, Trương Văn Tuấn
[1] Các Văn kiện quốc tế về Quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.63.
[2] Nguyễn Đức Trung (2016), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong giáo dục nhân quyền ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 23(327), tháng 12/2016, Hà Nội.
[3] Điều 3, Luật Công an nhân dân năm 2018.
[4] Điều 4, Luật Công an nhân dân năm 2018.