Tóm tắt: Đại hội lần thứ XIII của Đảng (2021) đề ra những chủ trương đúng đắn cho việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Bài viết đề cập một số nội dung thực hiện Nghị quyết Đại hội trên lĩnh vực quyền con người gồm: tiếp tục gắn quyền con người với quyền phát triển phồn vinh, hạnh phúc; lấy con người là trung tâm và phát triển con người toàn diện; an ninh con người và an ninh quốc gia; bảo hộ công dân ở nước ngoài và hoạt động tư pháp phải tăng cường bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân.
Từ khóa: Quyền con người, quyền công dân, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
 

Toàn cảnh Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Nguồn: daihoi13.dangcongsan.vn

Trong các văn kiện Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương đúng đắn cho việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Để sớm đưa các chủ trương của Đảng vào cuộc sống, cần tập trung một số nội dung sau đây:
Một là, tiếp tục gắn quyền con người với quyền phát triển phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc.
Trong Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển tư tưởng quyền “tự nhiên” của mỗi cá nhân thành quyền đương nhiên của mọi dân tộc. Cần nhấn mạnh rằng, nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết do Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson (1856 - 1924) đưa ra năm 1918 và Luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa của V.I.Lênin (1870-1924) công bố năm 1920 chưa gắn quyền dân tộc tự quyết với quyền con người. Trong luật quốc tế về quyền con người, phải đến năm 1966, Điều 1 của hai Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa mới ghi nhận quyền tự quyết dân tộc là một quyền con người. Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định dân là chủ thì mới làm chủ và coi quyền cá nhân gắn với quyền tập thể, với quyền của toàn thể xã hội; bảo đảm quyền lợi của nhân dân Việt Nam đồng thời tôn trọng quyền lợi của các dân tộc khác; bảo đảm quyền tự do, độc lập của dân tộc - quốc gia phải gắn với tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền của các cộng đồng dân tộc thiểu số, các giai tầng xã hội,... và ngược lại. 
Trên cơ sở vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội XIII của Đảng nhất quán tiếp cận vấn đề quyền con người gắn với quyền dân tộc, và khẳng định chủ nghĩa xã hội (CNXH) là chế độ tốt nhất bảo đảm quyền con người cho nhân dân Việt  Nam. Từ quan điểm quyền con người gắn với quyền dân tộc, Đảng, Nhà nước luôn xem xét, giải quyết hài hòa, đúng đắn mối quan hệ giữa quyền dân tộc - quốc gia với quyền của các cộng đồng dân tộc thiểu số và các giai tầng xã hội khác ở nước ta. Theo đó, tất cả các cộng đồng dân tộc thiểu số và đa số, phụ nữ, thanh niên, người cao tuổi, tôn giáo, nông dân, công dân, trí thức, doanh nhân... đều được tôn trọng, bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy quyền bình đẳng, tương trợ, đoàn kết,... trong quá trình bảo đảm quyền dân tộc - quốc gia Việt Nam.
Quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”1. Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 là thực hiện ba đột phá chiến lược, đặc biệt là “hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”2. Thông qua đó, “xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”3.
Cách thức triển khai đưa Văn kiện Đại hội XIII vào cuộc sống là lồng ghép, tích hợp cách tiếp cận dựa trên quyền con người vào cách tiếp cận chính trị - xã hội trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, nhất là trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030. Thông qua đó, thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) không chỉ thể hiện ở mục tiêu bảo đảm quyền lực của dân, do dân, vì dân, mà còn phải được thể chế hóa thành phương tiện, công cụ để đạt được mục tiêu đó một cách hiệu lực, hiệu quả trong thực tế. Văn kiện cũng đã xác định: “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”4. Bằng cách tiếp cận dựa trên quyền của người dân như vậy, mới có thể áp sát vào thực tế triển khai, thực hiện công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN và thể chế nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm bảo đảm quyền lực của nhân dân một cách hiệu lực, hiệu quả trong thực tế. Thực tiễn cho thấy, chủ trương, chính sách, pháp luật chỉ có thể được lựa chọn, xác định chính xác và triển khai, thực hiện một cách hiệu lực, hiệu quả khi: i) Xuất phát và nhắm đến đúng thành phần kinh tế hay giai tầng xã hội cần được thụ hưởng quyền lợi khi đề ra, ban hành chủ trương, chính sách, pháp luật đó; ii) Phân rõ chủ thể được bảo đảm quyền lợi và chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm thực hiện quyền lợi đó; iii) Lôi cuốn và huy động được sự tham gia chủ động, tích cực, đông đảo của người dân vào việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật đó; iv) Bảo đảm sự công khai, minh bạch trong triển khai, thực hiện. Đây chính là các tiêu chí của cách tiếp cận dựa trên quyền con người và là công cụ hay phương tiện nhất thiết cần phải có trong “nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” theo yêu cầu của Đại hội XIII5. Đồng thời cách tiếp cận này cũng phù hợp và là công cụ triển khai, thực hiện có hiệu lực, hiệu quả phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” được nêu trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng. 
Thông qua đó sẽ chú trọng tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ những quyền mới phát sinh trong bảo đảm quyền lực của nhân dân, như: quyền an ninh, an toàn thông tin mạng; quyền mua bán, kinh doanh trên nền tảng internet; quyền giáo dục; sinh hoạt tôn giáo, văn hóa trực tuyến; quyền bí mật đời tư; quyền về thân thể, danh dự, nhân phẩm của trẻ em; quyền của những người lao động di trú,... Đồng thời, cũng nắm bắt, điều tiết được những thách thức đang đặt ra ngày càng lớn hơn đối với việc ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ các quyền mới nêu trên. Vấn đề quyền con người đang và sẽ được đề cập trực tiếp ngày càng nhiều hơn, bức xúc hơn trong các vụ khiếu kiện, điểm nóng thay vì chỉ được giới hạn trong quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như hiện nay, đặc biệt trong hoạt động tư pháp.  
Hai là, quyền con người là khâu nối tất yếu giữa lấy con người làm trung tâm và phát triển con người toàn diện.
Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”6. Từ đó, Đảng chủ trương: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”7. Phải “bảo đảm công khai, minh bạch thông tin, quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của mọi tầng lớp nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Chống các biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức”8.
Như vậy, khi triển khai, thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần thấy rằng, một mặt, không thể dựa vào dân, lấy dân làm gốc, không thể “bồi dưỡng, phát huy sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài,9... nếu không “đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”10.  Mặt khác, mục tiêu phát triển con người toàn diện đương nhiên phải xuất phát từ con người và “lấy con người làm trung tâm”. Nhưng nếu không bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như đã được thể chế trong Hiến pháp năm 2013, thì con người không thể chủ động, tích cực tham gia vào các công việc Nhà nước và xã hội với tư cách là người là chủ - làm chủ. Do đó, bảo đảm quyền con người phải là khâu kết nối cần thiết, không thể thiếu giữa khâu lấy con người làm trung tâm và phát triển con người toàn diện.
Ba là, quyền con người gắn với an ninh con người, an ninh quốc gia. 
Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Bảo đảm an ninh sinh thái, an ninh môi trường, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng”.11 “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại. Bảo đảm cung cấp và nâng cao các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là đối với người nghèo, người yếu thế trong xã hội, quan tâm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân. Nâng cao chất lượng dân số; tận dụng hiệu quả cơ hội thuận lợi từ cơ cấu dân số vàng; chủ động thích ứng với xu thế già hóa dân số. Tạo môi trường và điều kiện để phát triển thị trường lao động đồng bộ, hiện đại, linh hoạt, thống nhất hội nhập và hiệu quả.”12 Và “giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng”13. Triển khai thực hiện những chủ trương này chính là thúc đẩy tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ an ninh con người gắn với quyền con người và an ninh quốc gia, trên 7 phương diện: an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh sức khỏe, an ninh môi trường, an ninh cá nhân, an ninh cộng đồng và an ninh chính trị.
Bốn là, coi trọng công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề ra yêu cầu: “Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh...”14 trong quá trình tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả hội nhập quốc tế. Hiện nay cần triển khai thực hiện Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020 và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực này, nhất là Bộ luật Lao động năm 2019, để tạo khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh thúc đẩy việc bảo vệ quyền của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo tiêu chuẩn quốc tế. Việc tăng cường công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài là nhằm bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân, góp phần nâng cao vị thế chính trị, uy tín của Nhà nước ta đối với thế giới cũng như trong con mắt người Việt Nam ở nước ngoài; từ đó khuyến khích, động viên ngày càng nhiều sự đóng góp của họ vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.     
Năm là, hoạt động tư pháp phải tăng cường bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân.
Đại hội XIII của Đảng đặt ra đòi hỏi: “Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”15. Hiện nay, trong bối cảnh các vụ án thuộc lĩnh vực dân sự, hôn nhân, gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại (gọi chung là vụ việc dân sự) - ngày càng tăng về số lượng với tính chất ngày càng phức tạp, gay gắt thì cần thúc đẩy thực hiện hòa giải, đối thoại tại Tòa án theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020. Đồng thời, phải “xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân”16. Và trong nghiên cứu, ban hành Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp gắn với “nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”, cần phải chú trọng “tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật”17.
Sáu là, đẩy mạnh đối thoại, đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng và chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa.
Một trong những nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị trong thời gian tới, theo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chủ động cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phòng, chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội”18. Và “tích cực phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm; ngăn chặn âm mưu bạo loạn, khủng bố, phá hoại; (...) không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước.”19
Cần nhấn mạnh rằng, trong điều kiện chế độ XHCN với sự cầm quyền của Đảng, mục tiêu và bản chất của đấu tranh và đối thoại trên lĩnh vực quyền con người, trước tiên và chủ yếu là nhằm thực hiện, phát huy nền dân chủ XHCN trong toàn thể nhân dân. Từ đó cảm hóa, cô lập, làm thất bại hoàn toàn các âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Trong quá trình đó, phải tăng cường thực hiện phương thức đối thoại, để tiến hành trao đổi, thương lượng một cách bình đẳng giữa những người tham gia đối thoại trên cơ sở pháp lý nhất định, hướng đến một chủ đề cụ thể, nhằm nhận thức sâu thêm về nhau và đạt tới một chân lý cao hơn cho cả hai bên, hoặc tiến đến giải quyết được một vấn đề nhất định liên quan đến danh dự, nhân phẩm hay quyền lợi cụ thể của các bên. Còn trong đấu tranh cần phải chủ động, tích cực nhận diện, phê phán, phản bác, bác bỏ, ngăn chặn, xử lý công khai, minh bạch bằng pháp luật nhằm kiên quyết làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn sử dụng dân chủ, nhân quyền như một công cụ chống phá chế độ chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Trong hội nhập quốc tế, cần chú trọng nguyên tắc trong đấu tranh có đối thoại để nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau, từng bước thu hẹp bất đồng và những sự hiểu biết khác nhau, nhất là giữa Việt Nam với các đối tác quốc tế trong vấn đề dân chủ, nhân quyền. Thông qua đó tích cực chuyển từ tham dự sang chủ động tham gia đóng góp hoặc tham gia kiến tạo thể chế hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người vốn có nhiều nhạy cảm. Qua đó chủ động tạo điều kiện và vị thế ở tầm cao hơn cho Việt Nam trong việc kiên quyết bảo vệ quan điểm, lập trường, lợi ích quốc gia - dân tộc và đấu tranh ngăn chặn một cách hiệu lực, hiệu quả đối với các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc  nội bộ của nước ta.

PGS.TS. Nguyễn Thanh Tuấn - ThS. Đặng Thị Loan

Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

-----

Tài liệu trích dẫn 
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. CTQG, HN, 2021, Tập 1, tr.110.
(2) TLđd, tập 1, tr.53.
(3) TLđd, tập 1, tr.116
(4) TLđd, tập 1, tr.51.
(5) TLđd, tập 1, tr.177.
(6) TLđd, tập 1, tr.27-28.
(7) TLđd, tập 1, tr.27.
(8) TLđd, tập 1, tr.51.
(9) TLđd, tập 1, tr.110.
(10) TLđd, tập 1, tr.173.
(11) TLđd, tập 1, tr.52.
(12) TLđd, tập. 1, tr.47- 48.
(13) TLđd, tập 1, tr.117.
(14) TLđd, tập 1, tr.171.
(15) TLđd, tập 1, tr.177.
(16) TLđd, tập 1,  tr.174.
(17) TLđd, tập 1, tr.178.
(18) TLđd, tập 2,  tr.234.
(19) TLđd, tập 1,  tr. 280.