Tóm tắt: Thực hiện những mục tiêu cũng như các nghĩa vụ quốc tế về bảo đảm quyền trẻ em, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đến các biện pháp nhằm thực thi các khuyến nghị do Ủy ban về quyền của trẻ em của Liên hợp quốc đưa ra sau mỗi kỳ báo cáo thực thi Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Bài viết đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập trong quá trình thực thi các khuyến nghị của Uỷ ban về quyền của trẻ em ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả các khuyến nghị này trong thời gian tới.
Từ khóa: Quyền trẻ em, Uỷ ban về quyền của trẻ em, khuyến nghị.
Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và là nước đầu tiên ở châu Á phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (sau đây gọi tắt là CRC) vào năm 1990. Trong suốt ba thập kỷ qua, những cam kết chính trị cũng như sự lãnh đạo mạnh mẽ của Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện quyền trẻ em đã giúp cải thiện cuộc sống hàng triệu trẻ em của đất nước. Trẻ em ở Việt Nam hiện nay được pháp luật bảo vệ, được sống, được chăm sóc sức khỏe, được học tập những kiến thức và kỹ năng cần thiết ngay từ trường mầm non và được ưu tiên hưởng chính sách phúc lợi...
1. Nghĩa vụ quốc gia trong cam kết thực hiện Công ước quốc tế về quyền trẻ em
Sau 10 năm soạn thảo, sửa đổi tích cực, Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989, mở cho các nước ký vào ngày 26/1/1990 và có hiệu lực từ ngày 02/9/1990. Theo đó, bốn nhóm quyền cơ bản của trẻ em trong công ước gồm: quyền sống còn, quyền phát triển, quyền được bảo vệ và quyền tham gia của trẻ em. Như vậy, đây là Công ước quốc tế đầu tiên ấn định về mặt pháp lý các quyền trẻ em theo tinh thần tiến bộ, nhân đạo.
Giống như các điều ước quốc tế về quyền con người cơ bản, ngoài việc ghi nhận các quyền, CRC cũng xây dựng các cơ chế nhằm giám sát việc thực hiện nghĩa vụ thành viên của các quốc gia trong việc bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người đã được ghi nhận trong điều ước quốc tế, trong đó có việc thành lập Ủy ban về quyền của trẻ em. Ủy ban bao gồm 18 chuyên gia có đạo đức tốt và có năng lực được thừa nhận trong lĩnh vực mà Công ước đề cập. Ủy ban về quyền của trẻ em thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ, trong đó, đáng chú ý là các chức năng: giám sát và thúc đẩy quyền trẻ em thông qua việc xem xét báo cáo của các quốc gia thành viên; đưa ra các bình luận, khuyến nghị chung để giải thích nội dung và các biện pháp thực hiện công ước.
Đối với các quốc gia thành viên, ngoài việc nội luật hoá để tận tâm thực thi các quy định của Công ước (nguyên tắc Pacta sunt servanda) thì cũng phải “cam kết trình lên Ủy ban, thông qua Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, các báo cáo về những biện pháp mà họ đã đề ra nhằm thực hiện các quyền được thừa nhận trong Công ước này, và về những tiến bộ mà họ đã đạt được trong việc thực hiện các quyền này” (khoản 1 Điều 44), thời hạn báo cáo là trong vòng 2 năm kể từ khi Công ước có hiệu lực với quốc gia thành viên và sau đó cứ 5 năm 1 lần. Yêu cầu đối với các báo cáo là phải “nêu ra những nhân tố và các khó khăn, nếu có, mà ảnh hưởng đến việc thực hiện những nghĩa vụ nêu ra trong Công ước này. Các báo cáo cũng phải cung cấp đầy đủ thông tin để Ủy ban có thể hiểu biết toàn diện về tình hình thực hiện Công ước ở nước có liên quan” (Khoản 2 Điều 44).
Thực hiện nghĩa vụ thành viên nêu trên, Việt Nam đã đệ trình các báo về tình hình thực hiện CRC tại quốc gia. Báo cáo lần thứ nhất của Việt Nam được đệ trình lên Uỷ ban về quyền của trẻ em vào năm 1992 (trong vòng 2 năm kể từ khi Công ước có hiệu lực đối với Việt Nam); kỳ báo cáo thứ 2 vào năm 2000; báo cáo ghép lần thứ 3,4 đệ trình vào năm 2012 và báo cáo ghép lần thứ 5,6 đệ trình vào năm 2018. Qua các cuộc đối thoại của các chu kỳ báo cáo, Việt Nam đã nhận được báo cáo kết luận quan sát từ Uỷ ban về quyền của trẻ em, trong đó ghi nhận những kết quả đã đạt được trong tiến trình thực hiện Công ước và đưa ra các khuyến nghị để hạn chế, giảm thiểu những tồn tại, bảo đảm tốt hơn nữa quyền của trẻ em. Tính đến nay, Việt Nam đã nhận được 3 kết luận quan sát của chu kỳ báo cáo thứ nhất, thứ 2 và chu kỳ ghép 3,4. Báo cáo ghép lần thứ 5,6 chưa tổ chức đối thoại, Uỷ ban về quyền của trẻ em đã gửi danh sách các vấn đề Việt Nam cần bổ sung và hạn gửi thông tin là trước ngày 15/6/2021.
2. Thực tiễn thực hiện khuyến nghị của Uỷ ban về quyền của trẻ em ở Việt Nam hiện nay
Căn cứ vào các kết luận quan sát, có thể thấy Ủy ban về quyền của trẻ em đưa ra các khuyến nghị chủ yếu tập trung vào các vấn đề như: sự điều phối, phân bổ nguồn lực, không phân biệt đối xử, đảm bảo lợi ích tốt nhất của trẻ em, quyền tiếp cận bình đẳng về giáo dục và y tế. Ủy ban cũng quan ngại về sự thiếu đồng bộ giữa pháp luật quốc gia và Công ước, cụ thể là khái niệm về trẻ em và tư pháp người chưa thành niên, cũng như tiến triển chậm của việc cải cách luật pháp. Ủy ban nhấn mạnh lại khuyến nghị rằng Việt Nam cần thiết lập một cơ quan giám sát độc lập có đủ nguồn nhân lực, tài chính và kỹ thuật nhằm đảm bảo tính độc lập, hiệu quả, phù hợp với Bản nhận xét số 2 của Ủy ban năm 2002 về vai trò của các cơ quan nhân quyền độc lập trong việc thúc đẩy, bảo vệ quyền trẻ em.
Việt Nam cần tích cực thực hiện các biện pháp hiệu quả để xóa bỏ tất cả các hạn chế trong việc tự do bày tỏ ý kiến của trẻ em và đảm bảo quyền tiếp cận thông tin, tài liệu đa dạng từ các nguồn ở cấp quốc gia, quốc tế dưới mọi hình thức, bao gồm việc truy cập internet để đảm bảo rằng trẻ em được lắng nghe nhiều ý kiến khác nhau.
Với tinh thần cầu thị, tiếp thu các khuyến nghị, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tích cực triển khai các biện pháp đồng bộ trên các mặt lập pháp, hành pháp nhằm bảo đảm và thúc đẩy hơn nữa quyền trẻ em, kết quả được ghi nhận trên một số khía cạnh như sau:
Thứ nhất, về khung pháp luật
Sau khi gia nhập CRC, từ năm 1990, Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung và ban hành một số luật mới nhằm nội luật hoá các quy định của CRC và 2 Nghị định thư không bắt buộc về mua bán trẻ em, mại dâm và khiêu dâm trẻ em (OPSC) và Nghị định thư về sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang (OPAC). Hiến pháp Việt Nam năm 2013 ngoài các quy định chung về bình đẳng, không phân biệt đối xử trong thụ hưởng các quyền còn ghi nhận các bảo đảm cho riêng đối tượng là trẻ em: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và được tham gia vào các công việc của trẻ em. Nghiêm cấm hành vi xâm phạm, ngược đãi, ngược đãi, bỏ rơi, lạm dụng, bóc lột sức lao động và các hình thức vi phạm quyền trẻ em khác” (Điều 37 khoản 1).
Luật Trẻ em năm 2016 đánh dấu một mốc quan trọng trong nỗ lực của Việt Nam nhằm hài hòa pháp luật quốc gia với CRC. So với Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991 và năm 2004, Luật Trẻ em năm 2016 có nội dung rộng hơn về quyền trẻ em và phạm vi áp dụng của hầu hết các điều khoản cũng được mở rộng, bao gồm cả trẻ em không phải là người Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam. Luật cũng quy định rõ hơn cơ chế lập kế hoạch và giám sát việc thực hiện quyền trẻ em ở các cấp quản lý, đồng thời bảo đảm phân bổ nguồn lực phù hợp cho việc thực hiện quyền trẻ em. Luật quy định việc tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em do Thủ tướng Chính phủ thành lập để chỉ đạo, điều phối, giải quyết hài hòa các vấn đề liên quan đến trẻ em và thực hiện quyền trẻ em. Luật Trẻ em năm 2016 cũng xây dựng một chương mới về quyền tham gia (Chương V). Đặc biệt, Chương IV của Luật quy định cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bỏ rơi, xâm hại, bạo lực và bóc lột, với việc cung cấp ba cấp độ dịch vụ bảo vệ trẻ em (phòng ngừa, hỗ trợ và can thiệp). Báo cáo, đánh giá và quy trình lập kế hoạch can thiệp cho trẻ em cần được bảo vệ, hướng dẫn chi tiết về chăm sóc trẻ em thay thế dựa vào gia đình và yêu cầu bố trí người làm công tác bảo vệ trẻ em ở cấp xã. Luật cũng quy định các nguyên tắc cơ bản của giáo dục tư pháp cho trẻ em nhằm đảm bảo việc đối xử với tất cả trẻ em theo luật phải đáp ứng các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định và hướng dẫn chi tiết hơn về bảo vệ trẻ em, chăm sóc thay thế.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định cụ thể việc bảo vệ quyền trẻ em trong trường hợp kết hôn trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng và trường hợp vợ chồng chung sống mà không có hôn nhân hợp pháp. Luật quy định trẻ em có quyền phát biểu ý kiến trong trường hợp cha, mẹ ly hôn hoặc có sự thay đổi khác về lựa chọn người trực tiếp nuôi con. Các quy định liên quan đến việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, nhằm tránh cho trẻ em bị bỏ rơi và buôn bán, và phải chịu các rủi ro về sức khỏe hoặc tính mạng khác khi sinh ra trong trường hợp trẻ em bị bỏ rơi.
Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi năm 2014 bổ sung một số quy định mới đối với trẻ em dưới 6 tuổi, có hiệu lực đến khi trẻ đủ 72 tháng tuổi. Trường hợp trẻ đủ 72 tháng tuổi mà chưa đăng ký học tại trường nào thì thẻ bảo hiểm y tế của trẻ có giá trị sử dụng đến ngày 30-9 năm đó. Trẻ em dưới 6 tuổi, trẻ em đang hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hàng tháng, trẻ em thuộc hộ nghèo, trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng khó khăn, trẻ em ở các huyện đảo được Quỹ bảo hiểm y tế chi trả toàn bộ (100%), được đài thọ chi phí khám chữa bệnh. Trường hợp chưa được cấp thẻ bảo hiểm y tế thì trẻ em vẫn được khám bệnh, chữa bệnh và được cấp thẻ sau khi đã giải quyết đủ điều kiện.
Luật Hộ tịch năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã cải cách hệ thống đăng ký hộ tịch (bao gồm đăng ký khai sinh, khai tử, nhận cha, mẹ, con), thiết lập các quy trình đảm bảo tất cả trẻ em (dù sinh ra ở Việt Nam hay ở nước ngoài đều có cha mẹ là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài) được đăng ký khai sinh và nhận cha mẹ.
Bộ luật Hình sự năm 2015 và Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã thay đổi chính sách hình sự vì lợi ích của người chưa thành niên phạm tội như: thu hẹp phạm vi trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên và cụ thể hóa các điều kiện để được miễn trừ tội phạm áp dụng cho người chưa thành niên; các biện pháp giám sát, giáo dục được thực hiện ở cấp huyện và cấp thôn đối với những trường hợp trẻ em được miễn trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, Luật sửa đổi, bổ sung danh mục tội xâm phạm quyền trẻ em như: bổ sung tội sử dụng trẻ em dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm; sửa đổi thành phần buôn bán trẻ em dưới 16 tuổi như được định nghĩa trong Nghị định thư để ngăn chặn, trấn áp và trừng trị nạn buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; ...
Thứ hai, về định nghĩa trẻ em
CRC quy định rằng trẻ em nên được định nghĩa là những người dưới 18 tuổi. Một ngoại lệ có thể được chấp nhận khi luật pháp quốc gia xác định trẻ em là trẻ em dưới tuổi đó. Trong trường hợp của Việt Nam, Luật Trẻ em năm 2016 quy định “trẻ em là người dưới 16 tuổi”.
Mặc dù định nghĩa pháp lý của Việt Nam về trẻ em khác với các tiêu chuẩn quốc tế, nhưng một số quy định hiện hành đã giúp thu hẹp khoảng cách này. Những người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không được xác định là trẻ em nhưng vẫn được coi là người chưa thành niên theo Bộ luật Dân sự (Điều 21), do đó, người trong độ tuổi này được các quy định của Bộ luật Dân sự và các luật chuyên ngành khác bảo vệ. Ví dụ: Bộ luật Hình sự và Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định rằng người dưới 18 tuổi không phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hành vi của mình, cũng như người lớn, để trẻ em được sửa chữa nhằm thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của mình và để trở thành những công dân có ích. Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định các thủ tục thân thiện với trẻ em để xử lý bị cáo, nạn nhân và người làm chứng dưới 18 tuổi. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định tuổi kết hôn tối thiểu đối với nữ là đủ 18 và nam là đủ 20. Bộ luật Lao động năm 2019 xác định đủ 15 tuổi là mức tối thiểu để làm việc toàn thời gian. Tuy nhiên, người dưới 18 tuổi chỉ được làm những công việc phù hợp với năng lực để đảm bảo sự phát triển về thể chất, trí tuệ và bản thân. Luật cũng quy định các biện pháp bảo vệ người lao động chưa thành niên.
Thứ ba, về cơ quan chuyên trách bảo vệ trẻ em
Chính phủ Việt Nam đã thành lập Ủy ban quốc gia về trẻ em, trong đó, Chủ tịch Uỷ ban là Phó Thủ tướng Chính phủ, các Phó Chủ tịch gồm Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (Phó Chủ tịch thường trực), Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ trưởng Bộ Y tế. Các thành viên khác là lãnh đạo các bộ, ngành liên quan. Ngoài ra còn có sự tham gia của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam... Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về trẻ em và phối hợp thực hiện quyền trẻ em. Ở cấp tỉnh là Sở Lao động - Thương binh và Xã hội. Ở cấp xã có cán bộ chuyên trách theo dõi công tác lao động và xã hội, trong đó có công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Hiện nay, Việt Nam có mạng lưới 70.000 nhân viên bảo vệ và chăm sóc trẻ em ở các thôn, bản1.
Thứ tư, về bố trí kinh phí và cơ sở vật chất
Ngân sách để thực hiện các chính sách pháp luật liên quan đến trẻ em phải được lồng ghép giữa các lĩnh vực y tế, giáo dục, an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, văn hóa, thể thao và dân số kế hoạch hóa gia đình. Trong vòng 5 năm của giai đoạn 2016-2020, ngân sách nhà nước chi thường xuyên cho giáo dục đạt trên 32,2%, chi thường xuyên cho y tế đạt 7,1% tổng chi NSNN và năm sau tăng hơn năm trước2. Trong những năm gần đây, đã có 16 chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có 8 chương trình liên quan trực tiếp đến quyền và phúc lợi trẻ em như: Chương trình Hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2021-2030, Chương trình Phòng ngừa và giảm thiểu trẻ em lao động trái quy định của pháp luật giai đoạn 2021-2025 định hướng 2030, Chương trình Bảo vệ và hỗ trợ trẻ em tương tác lành mạnh, sáng tạo trên môi trường mạng...
Thứ năm, tư pháp người chưa thành niên
Theo quy định của pháp luật, mô hình Toà Gia đình và người chưa thành niên được thành lập ở TAND cấp cao, TAND cấp tỉnh, và có thể thành lập ở TAND cấp huyện. Mô hình Tòa Gia đình và người chưa thành niên tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh được tổ chức ban đầu tại hai TAND địa phương là TAND Thành phố Hồ Chí Minh (ra mắt ngày 04/4/2016) và TAND tỉnh Đồng Tháp (ra mắt ngày 22/6/2018), đến nay hầu hết các TAND cấp tỉnh đã thành lập mô hình này. Việc thành lập toà này là một dấu mốc quan trọng đối với quá trình cải cách tư pháp. Nó thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc đảm bảo các quyền của trẻ em theo pháp luật thông qua việc xây dựng hệ thống tư pháp trẻ em toàn diện với sự tham gia của Tòa Gia đình và người chưa thành nhiên cũng như của các cơ quan, tổ chức liên quan.
Thứ sáu, về việc thực hiện các nguyên tắc chung (Điều 2, 3, 6 và 12 CRC)
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử (Điều 2 CRC)
Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm việc phân biệt đối xử với trẻ em trên bất kỳ cơ sở nào. Ngoài ra, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em di cư, trẻ em khuyết tật, trẻ em nhiễm HIV/AIDS và trẻ em vùng sâu, vùng xa được ưu tiên tiếp cận các dịch vụ xã hội. Quan trọng nhất, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và phúc lợi xã hội được cung cấp bình đẳng cho tất cả trẻ em. Luật Trẻ em năm 2016 kết hợp và mở rộng các nguyên tắc của CRC, bao gồm các nguyên tắc “không phân biệt đối xử với trẻ em” và nghiêm cấm “kỳ thị và phân biệt đối xử với trẻ em do đặc điểm cá nhân, hoàn cảnh gia đình, giới tính, dân tộc, quốc tịch, tín ngưỡng và tôn giáo”. Các biện pháp đặc biệt nhằm đảm bảo cơ hội bình đẳng cho tất cả trẻ em bao gồm các biện pháp chung về cung cấp dịch vụ công trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội kém phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực y tế và giáo dục. Khuyến khích nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường, thông tin liên lạc, văn hóa, thể thao cho người dân, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, xã vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, huyện nghèo, người dân tộc thiểu số.
- Nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ (Điều 3 CRC)
Luật Trẻ em năm 2016 quy định nguyên tắc “bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em trong các quyết định liên quan đến trẻ em”. Nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên trong quá trình xử lý vi phạm hành chính và tố tụng hình sự, kể cả bị cáo, người bị hại, người làm chứng cũng được ghi nhận trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Bộ luật Hình sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Cơ chế chính sách liên quan đến trẻ em đã được thay đổi để thực hiện các nguyên tắc sau: (i) Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc dựa vào cộng đồng; (ii) Giảm thiểu tình trạng trẻ em không được sống trong môi trường gia đình; (iii) Tòa Gia đình và người chưa thành niên và đơn vị cảnh sát đặc biệt về bảo vệ trẻ em được thành lập.
Nhà nước có chính sách trợ cấp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, chính sách bảo trợ xã hội đối với người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong đó có trẻ em; chính sách miễn học phí cho trẻ em; chính sách hỗ trợ tiền ăn cho trẻ em từ 3-5 tuổi và hỗ trợ trẻ em đi học mẫu giáo; chính sách khám chữa bệnh, cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi và một số nhóm trẻ em khác... Các biện pháp nâng cao nhận thức về lợi ích tốt nhất của trẻ em cũng được thực hiện dưới nhiều hình thức, đặc biệt với sự tham gia của các cơ quan thông tin đại chúng ở trung ương và địa phương, bao gồm cả đài truyền hình, báo chí và Tổng đài Thiếu nhi quốc gia.
- Quyền tồn tại và phát triển (Điều 6)
Thúc đẩy quyền sống và phát triển của trẻ em là ưu tiên của Chính phủ Việt Nam. Ngoài việc khẳng định nguyên tắc này trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Trẻ em năm 2016 (Điều 5), các luật khác cũng đã được sửa đổi. Bộ luật Lao động 2019 quy định lao động nữ được nghỉ thai sản 06 tháng theo khuyến nghị của WHO về việc cho con bú hoàn toàn trong 06 tháng đầu để chăm sóc thai sản tốt cho người mẹ. Các biện pháp chính sách nhằm nâng cao sức khỏe sinh sản, giảm tử vong bà mẹ và trẻ em cùng với các chương trình nâng cao nhận thức về sử dụng các biện pháp tránh thai đã góp phần quan trọng trong việc giảm tỷ số tử vong mẹ (MMR) là 46 ca trên 100.000 trẻ sinh sống, giảm 23 ca so với năm 20093. Chính phủ cũng đã đưa ra các biện pháp, bao gồm giải quyết bạo lực gia đình và trừng phạt việc lựa chọn giới tính thai nhi, để đảm bảo rằng trẻ em có thể phát triển tự nhiên và sống trong môi trường an toàn.
Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm quyền sống còn và sự phát triển toàn diện của trẻ em. Số liệu công bố năm 2021 cho thấy, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi (chiều cao/tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi là 19,6% - mức <20% - được xếp vào mức trung bình theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới; tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em tuổi học đường (5 - 19 tuổi) còn 14,8% (năm 2010 tỷ lệ này là 23,4%)4. Tuy nhiên, vẫn còn sự chênh lệch giữa các vùng miền về tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi; ở các vùng nông thôn và miền núi tỷ lệ này còn ở mức cao. Hằng năm có khoảng 1,7 triệu trẻ em dưới độ tuổi 1 người được tiêm 8 loại vắc xin cơ bản5. Công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi trên cả nước đạt kết quả tốt. Hơn 90% trẻ em hiện nay đi học mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. Đáng chú ý, số trẻ THPT đi học đúng độ tuổi đạt 70%6.
- Tôn trọng ý kiến của trẻ em trong các quyết định lập pháp, hành pháp và tư pháp (Điều 12)
Luật Trẻ em năm 2016 có một chương quy định về quyền tham gia của trẻ em. Luật quy định trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em. Các văn bản pháp luật khác cũng quy định trẻ em được bày tỏ quan điểm về các vấn đề trẻ em như: Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 công nhận quyền của trẻ em trong quá trình tham gia điều tra, truy tố, xét xử, ghi nhận giá trị lời khai của trẻ em với tư cách là bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định trẻ em trên 09 tuổi có quyền đưa ra ý kiến về việc nuôi con nuôi. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định phải tôn trọng ý kiến của trẻ em từ 07 tuổi trở lên trong việc lựa chọn sống chung với cha, mẹ trong trường hợp ly hôn và Tòa án sẽ đưa ra quyết định dựa trên lợi ích tốt nhất của trẻ em...
Bên cạnh việc xây dựng khung pháp lý, Chính phủ đã tăng cường các biện pháp thực hiện. Hai năm một lần, các bộ, ban, ngành và địa phương đã phối hợp tổ chức thường niên Diễn đàn trẻ em quốc gia. Diễn đàn trẻ em cũng được tổ chức hàng năm ở cấp tỉnh. Tham gia diễn đàn trẻ em các cấp là nhóm trẻ em khuyết tật, trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số. Tại các diễn đàn, trẻ em được bày tỏ quan điểm, chính kiến, nguyện vọng và được đối thoại với lãnh đạo các bộ, ngành, lãnh đạo địa phương về các vấn đề liên quan đến trẻ em. Diễn đàn này được thiết kế để đảm bảo quyền lợi tốt nhất của trẻ em. Nó là một kênh quan trọng để thu thập ý kiến và mong muốn của trẻ em.
- Đường dây nóng bảo vệ trẻ em
Việt Nam có đường dây nóng điện thoại quốc gia (số 111) thay thế đường dây nóng thành lập năm 2004 (trước đây gọi là Đường dây Tư vấn hỗ trợ trẻ em). Tổng đài có trách nhiệm tiếp nhận thông tin, tư vấn và kết nối điện thoại để hỗ trợ trẻ em và gia đình, thời gian làm việc 24 giờ một ngày, mọi ngày trong tuần và trong năm và cho phép gọi miễn phí cho người dân và trẻ em. Qua 17 năm hoạt động, Tổng đài đã nhận được trên 4,5 triệu cuộc gọi đến, trong đó, Tổng đài đã tư vấn 410.552 ca và hỗ trợ, can thiệp cho 6.923 trường hợp trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực, bị mua bán, trẻ bị lạc, bị bỏ rơi, trẻ cần hỗ trợ về tài chính7... Ngoài ra, các phương tiện truyền thông sản xuất và phát sóng chương trình “1 giờ đường dây nóng” từ 16.00-17.00 vào Chủ nhật hàng tuần và có trang dành cho người hâm mộ cho chương trình; Chương trình truyền hình dành cho trẻ em vào thứ Năm hàng tuần. Đường dây nóng về trẻ em cũng được thiết lập tại một số địa điểm trong cả nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, thực tế cho thấy, vẫn còn không ít các vụ việc xảy ra vi phạm quyền trẻ em, như: bạo lực, xâm hại tình dục, xâm hại trên môi trường mạng, an toàn vệ sinh trong trường học, lạm dụng sức lao động trẻ em ở một số ngành, nghề, lĩnh vực, nhất là những nguy cơ với nhóm trẻ em yếu thế... Đáng chú ý hơn, những hành vi vi phạm này xảy ra thậm chí ở cả những nơi tưởng chừng an toàn nhất đối với trẻ em như gia đình, trường học, cơ sở bảo trợ xã hội. Theo số liệu thống kê của Bộ Công an, chỉ tính riêng năm 2020 cả nước phát hiện 1.945 vụ, xâm hại 2.008 trẻ em (trong đó xâm hại tình dục 1.349 vụ, 1.576 trẻ em bị xâm hại tình dục)8. Đặc biệt, thời gian gần đây, chúng ta đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh COVID-19, thực hiện giãn cách xã hội khiến hàng triệu trẻ em không được tới trường, hoặc phải nghỉ hè sớm hơn quy định. Do hạn chế tiếp xúc bạn bè, giáo viên, các thành viên gia đình, xã hội đã khiến trẻ em trở nên dễ bị tổn thương hơn. Thêm vào đó, việc học tập, giải trí của nhiều em gần như gắn chặt với máy tính, điện thoại và internet, hạn chế việc tham gia vui chơi ở ngoài đã khiến cho trẻ em có nhiều nguy cơ hơn bị xâm hại trên môi trường mạng...
Ngoài ra, tỉ lệ vi phạm pháp luật ở trẻ em còn cao (tỷ lệ gây án ở tuổi vị thành niên trên địa bàn cả nước là 5,2% đối với người dưới 14 tuổi, 24,5% đối với người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và 70,3% đối với người từ 16 đến dưới 18 tuổi)9; Mặc dù tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi (U5MR) của Việt Nam năm 2019 là 21,0 trẻ em dưới 5 tuổi tử vong/1000 trẻ sinh sống, giảm hơn một nửa so với năm 1999 (56,9 trẻ em dưới 5 tuổi tử vong/1000 trẻ sinh sống)10, nhưng tử vong ở trẻ sơ sinh vẫn ở mức cao; tỷ lệ suy dinh dưỡng và tai nạn trẻ em, đặc biệt là tai nạn giao thông và đuối nước vẫn ở mức cao; tình trạng tảo hôn, hôn nhân ép buộc và hôn nhân cận huyết thống vẫn còn xảy ra ở một số dân tộc thiểu số, đặc biệt là ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên...
Những hạn chế trên xuất phát từ một số nguyên nhân chủ yếu như: Việt Nam vẫn là một nước có thu nhập bình quân đầu người thấp, có khoảng cách phát triển đáng kể giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng và các dân tộc dẫn đến thách thức lớn đối với việc đảm bảo thực hiện toàn diện và nghiêm túc các nguyên tắc cũng như nội dung của quyền trẻ em; sự thờ ơ, bỏ mặc, thiếu quan tâm hoặc không thấu hiểu các giai đoạn phát triển tâm sinh lý của trẻ em là nguyên nhân của tình trạng vi pháp luật ở trẻ em; nhà trường mới chỉ coi trọng đến việc dạy kiến thức mà thực sự chú ý đến việc giáo dục kỹ năng cho trẻ em; nhận thức xã hội về quyền trẻ em còn hạn chế, sự nguy hại nhiều mặt của tình trạng xâm hại, bạo lực đối với trẻ em của pháp luật chưa được cảnh báo đúng mức; công tác truyền thông, vận động, giáo dục, tư vấn bảo vệ trẻ em chưa được quan tâm thích đáng…
Những khó khăn, thách thức nêu trên là rào cản đối với việc thực hiện quyền của trẻ em, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, trẻ em bị ảnh hưởng/nhiễm HIV/AIDS, trẻ em mồ côi, trẻ em tàn tật, trẻ em lao động sớm, trẻ em lang thang, trẻ em di cư... Việc thực hiện quyền trẻ em đòi hỏi Chính phủ, xã hội và mỗi gia đình Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa.
Ảnh minh họa. Nguồn: unicef.org
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các khuyến nghị của Uỷ ban về quyền của trẻ em ở Việt Nam trong thời gian tới
Từ những kết quả và hạn chế trong thực tiễn thực hiện khuyến nghị của Uỷ ban về quyền của trẻ em ở Việt Nam, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, cần tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyển, phổ biến các quy định về quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em trong Luật Trẻ em năm 2016 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Chú trọng giáo dục kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em, đặc biệt về phòng ngừa xâm hại trẻ em. Truyền thông thường xuyên, rộng rãi về Đường dây nóng của Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em 111 để mọi trẻ em, cá nhân, cơ quan, tổ chức liên hệ khi có nhu cầu tìm kiếm thông tin, thông báo, tố giác nguy cơ, hành vi xâm hại trẻ em. Thiết lập đầu mối tiếp nhận thông tin, thông báo, tố giác; xác lập cơ chế phối hợp phòng ngừa, xử lý vụ việc xâm hại trẻ em tại địa phương.
Hai là, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm quyền trẻ em. Để hoạt động bảo vệ trẻ em có hiệu quả, cơ quan truyền thông, cơ quan điều tra phải vận động sự tham gia của quần chúng nhân dân phát hiện kịp thời những hiện tượng vi phạm quyền trẻ em; tập trung điều tra, xác minh làm rõ vụ việc và xử lý các tội phạm đối với trẻ em. Bộ Công an thường xuyên triển khai các biện pháp phòng, chống hành vi bạo lực, xâm hại tình dục, mua bán trẻ em, đặc biệt là mua bán trẻ sơ sinh. Đẩy mạnh công tác điều tra, xử lý các hành vi xâm hại trẻ em. Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai chính sách, giải pháp giảm thiểu tình trạng trẻ em bỏ học, đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Triển khai có hiệu quả công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội trong hoạt động giáo dục, đặc biệt là giáo dục lối sống văn hóa, rèn luyện đạo đức cho học sinh và phòng, chống bạo lực học đường, xâm hại tình dục trẻ em trong và ngoài trường học.
Ba là, tiếp tục triển khai đồng thời Đề án Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông (ban hành kèm theo Quyết định số 404/QĐ-TTg ngày 27/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ) và Đề án Đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân (ban hành kèm theo Quyết định số 1309/QĐ-TTg ngày 05/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ) nhằm giáo dục cho trẻ em về quyền trẻ em, các kiến thức cơ bản của pháp luật nhằm hạn chế tối đa việc vi phạm pháp luật ở trẻ em. Song song với đó cũng cần phải thực hiện các hoạt động giáo dục đạo đức và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em nhằm trang bị cho trẻ em các kiến thức về quyền và khả năng tự bảo vệ mình.
Bốn là, mô hình Tòa Gia đình và người chưa thành niên với phòng xử án thân thiện và các phòng chức năng ra đời đã bước đầu đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, là bước đi cụ thể để thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo vệ các quyền dân sự, chính trị, các quyền của trẻ em đã được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng quy định về thủ tục xét xử trong các vụ việc có liên quan đến trẻ em, bao gồm các quy định không chỉ dành riêng cho bị cáo là trẻ em mà còn cho cả người bị hại, người làm chứng là trẻ em khi tham gia tố tụng. Trong quá trình giải quyết vụ án phải có sự tham gia của chuyên gia trong lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ trẻ em nhằm giảm thiểu áp lực tâm lý cho các đương sự là người chưa thành niên trong quá trình tố tụng. Đối với những loại vụ việc như hình sự, xử phạt hành chính..., hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên chỉ nên nhằm mục đích giáo dục nhiều hơn là trừng phạt.
Năm là, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác giám sát hoạt động bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở. Trang bị cho cán bộ những kiến thức về tâm, sinh lý trẻ em, kiến thức pháp luật về trẻ em, đào tạo để có kỹ năng theo dõi, giám sát, biết phân tích tình hình, phát hiện những vấn đề về trẻ em nảy sinh trong cộng đồng, từ đó tìm ra những giải pháp phù hợp nhằm bảo đảm thực hiện quyền trẻ em. Mặt khác, cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về quyền trẻ em của các cấp, các ngành và mọi thành viên trong xã hội, coi đó là biện pháp trọng tâm để đấu tranh, ngăn ngừa tình trạng xâm hại trẻ em và trẻ em vi phạm pháp luật.
Sáu là, để nâng cao hiệu quả việc thực hiện các cam kết về bảo đảm và thúc đẩy quyền trẻ em, Việt Nam cần tăng cường hợp tác với các quốc gia và các tổ chức quốc tế. Cần tăng cường các chính sách mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em với các tổ chức quốc tế trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, phù hợp với pháp luật mỗi nước và thông lệ quốc tế; hợp tác quốc tế ở các nội dung: xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án, hoạt động về bảo đảm quyền trẻ em; tham gia các tổ chức quốc tế; ký kết gia nhập các điều ước quốc tế về quyền trẻ em; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, trao đổi kinh nghiệm bằng cách tăng cường tổ chức và tham gia các buổi hội thảo quốc tế nhằm giao lưu, học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm trong việc chăm sóc, giáo dục và chữa trị trẻ em tự kỷ, trẻ em khuyết tật...
Mặc dù vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến việc thực hiện các cam kết quốc tế về bảo đảm quyền con người nhưng với trách nhiệm của quốc gia thành viên, Việt Nam đang từng bước sửa đổi, bổ sung, nội luật hóa để dần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về trẻ em đảm bảo phù hợp, hài hòa với pháp luật quốc tế. Nhà nước Việt Nam đã và đang huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các tổ chức phi chính phủ cùng tham gia vào sự nghiệp bảo vệ quyền trẻ em, quyết tâm phấn đấu thực hiện đầy đủ các cam kết, khuyến nghị quốc tế trong việc thực hiện CRC cũng như các công ước quyền con người mà Việt Nam đã ký kết, phê chuẩn.
TS. Nguyễn Thị Thu Hà
Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 3/2021
-----
Tài liệu trích dẫn
(1) Báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện CRC chu kỳ 5,6
(2) http://consosukien.vn/chu-trong-dau-tu-cho-giao-duc-dao-tao.htm truy cập ngày 09/8/2021.
(3) Tổng cục Thống kê, Kết quả tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019.
(4) Bộ Y tế, Kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc 2017 - 2020, năm 2021.
(5) http://www.tiemchungmorong.vn/vi/content/thanh-qua.html truuy cập ngày 09/8/2021.
(6) Tổng cục Thống kê, Kết quả tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019.
(7) http://tongdai111.vn/ truy cập ngày 11/8/2021.
(8) http://tongdai111.vn/tin/bao-ve-tre-em-truoc-nguy-co-bi-xam-hai, truy cập ngày 11/8/2021.
(9) https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/khi-toi-pham-ngay-cang-tre-375448 truy cập ngày 11/8/2021.
(10) Tổng cục Thống kê, Kết quả tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019.