Lao động/việc làm là một quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế và quốc gia. Dù vậy, ở Việt Nam người khuyết tật vẫn gặp rất nhiều khó khăn khi tìm kiếm việc làm. Các rào cản trong tiếp cận việc làm của người khuyết tật còn tồn tại khá phổ biến, vì vậy, cần gỡ bỏ để tạo sự công bằng trong tiếp cận việc làm của người khuyết tật. Điều này giúp người khuyết tật có cơ hội tiếp cận việc làm, tự tin hòa nhập cộng đồng và có đóng góp vào sự phát triển đất nước.
Học viên khuyết tật học nghề thêu tại Trung tâm Dạy nghề
và đào tạo việc làm cho người khuyết tật tỉnh Thừa Thiên Huế (Nguồn: TTXVN)
1. Cơ sở pháp lý trong tiếp cận quyền việc làm của người khuyết tật
Lao động/việc làm là một quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, được ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR, 1966) và một số Công ước, khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Các văn kiện này khẳng định: “Mọi người đều có quyền được kiếm sống bằng công việc do họ tự do lựa chọn hoặc chấp nhận” (Điều 6, ICESCR), coi đây là nền tảng để thực hiện các quyền con người khác, gắn liền với phẩm giá con người. Đối với người khuyết tật (NKT), quyền lao động/việc làm giúp họ tìm được công việc phù hợp, tăng tự tin và thúc đẩy hòa nhập xã hội. Nếu trước đây NKT chủ yếu nhận hỗ trợ về y tế và từ thiện, thì hiện nay họ được bảo đảm quyền an sinh xã hội, quyền tham gia cộng đồng, đặc biệt là quyền tiếp cận việc làm. Pháp luật ghi nhận NKT có đầy đủ các quyền con người, dựa trên các nguyên tắc như: tôn trọng phẩm giá, không phân biệt đối xử, hòa nhập xã hội, tôn trọng sự khác biệt, bình đẳng cơ hội, tiếp cận và bình đẳng giới (Điều 3, Công ước CRPD). Các cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NKT.
Quyền tiếp cận việc làm của NKT được quy định rõ tại Điều 27 Công ước CRPD, khẳng định NKT được hưởng đầy đủ, bình đẳng các quyền con người, trong đó có quyền làm việc trong môi trường mở, hòa nhập và tiếp cận. Các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam (phê chuẩn CRPD ngày 28/11/2014), có trách nhiệm xây dựng pháp luật cấm phân biệt đối xử trong việc làm, tạo điều kiện để NKT tiếp cận đào tạo nghề, dịch vụ việc làm, thăng tiến, phục hồi chức năng và trở lại làm việc. Việt Nam cũng là thành viên Công ước 159 của ILO (phê chuẩn ngày 25/3/2019), với mục tiêu bảo đảm cơ hội việc làm bình đẳng cho NKT. Công ước này yêu cầu các quốc gia xóa bỏ định kiến, phát triển cơ sở đào tạo nghề, dịch vụ việc làm và phục hồi chức năng cho NKT, bảo đảm quyền không bị sa thải tùy tiện và có cơ hội phát triển để hòa nhập xã hội.
Ngoài ra, quyền bình đẳng về cơ hội tiếp cận việc làm của NKT còn được ghi nhận trong các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG). Chẳng hạn, tiểu mục 8.5 với yêu cầu kết quả được đo bằng 2 chỉ số: “thu nhập bình quân theo giờ của lao động nữ và nam, theo nghề nghiệp, độ tuổi và NKT” (8.5.1), “Tỷ lệ thất nghiệp, theo giới tính, độ tuổi và NKT” (8.5.2); Hay, Mục tiêu 4 quy định về giáo dục và đào tạo nghề; Mục tiêu 10 về tăng cường sự tham gia vào các vấn đề xã hội, kinh tế và chính trị; Mục tiêu 11 về quyền tiếp cận phương tiện giao thông và đi lại ở nơi công cộng của NKT; Mục tiêu 17 về thống kê dữ liệu có phân tách theo tình trạng khuyết tật.
Mặc dù phải đến năm 2014 Chính phủ Việt Nam mới phê chuẩn CRPD, nhưng quyền của NKT đã được ghi nhận trong Hiến pháp từ năm 1992: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội” (Điều 34). Năm 1998, Pháp lệnh Người tàn tật đã ghi nhận quyền học nghề và việc làm đối với NKT (từ Điều 18 đến Điều 23). Năm 2010, Luật NKT ra đời thay thế Pháp lệnh Người tàn tật và thiết lập khuôn khổ pháp lý với hệ thống chính sách tương đối đầy đủ, toàn diện, tạo điều kiện và thúc đẩy cơ hội bình đẳng, cấm phân biệt đối xử, khuyến khích khả năng tham gia của NKT. Luật đã thiết lập nhiều cơ chế đảm bảo quyền, trong đó có quyền học nghề và tạo việc làm bằng việc bố trí ngân sách thực hiện các chương trình, đề án trợ giúp, dạy nghề, chăm sóc, phục hồi chức năng cho NKT; phát triển nghề công tác xã hội; tạo điều kiện cho hoạt động của các tổ chức của NKT và vì NKT. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định trách nhiệm chủ đạo của Nhà nước trong trợ giúp NKT, tạo điều kiện để NKT được học văn hóa, học nghề, tạo việc làm,... (Điều 59 và 61). Năm 2014, khi phê chuẩn CRPD, Chính phủ đã tuyên bố “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cam kết thực hiện CRPD trên tất cả các lĩnh vực”. Đây là một tuyên bố mạnh mẽ trong bảo đảm quyền của NKT trong đó có quyền tiếp cận việc làm. Đến nay đã có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thực thi các nội dung trong Luật NKT trong đó có quyền tiếp cận đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm cho NKT.
2. Thực hiện công bằng trong tiếp cận quyền việc làm của người khuyết tật ở Việt Nam
Về mặt ngữ nghĩa “công bằng” (equity) có nghĩa là tạo cơ hội như nhau cho tất cả mọi người. Nói cách khác, “công bằng” là xét đến yếu tố khác biệt, người yếu thế hơn sẽ được tạo điều kiện nhiều hơn để có được cơ hội như những người khác. NKT cần được tạo điều kiện để có cơ hội tiếp cận... “công bằng” như người không khuyết tật.
Theo quan điểm của CRPD, NKT là những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan, khi tham gia các hoạt động xã hội, tương tác với các rào cản khác nhau có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ trên nền tảng công bằng như những người không khuyết tật. Do đó, để NKT có thể thụ hưởng các quyền một cách công bằng với người không khuyết tật thì “tiếp cận” phải là một quyền tự nhiên của con người và quyền này phải được thực hiện trên thực tiễn.
Luật NKT năm 2010 quy định “tiếp cận” là việc NKT có thể sử dụng công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin và các dịch vụ khác để hòa nhập cộng đồng. Bộ luật Lao động 2019 khẳng định Nhà nước bảo trợ quyền lao động, tự tạo việc làm của NKT; có chính sách ưu đãi với người sử dụng lao động tuyển NKT (Điều 158), đồng thời yêu cầu bảo đảm điều kiện làm việc, an toàn lao động, tổ chức khám sức khỏe định kỳ và tham khảo ý kiến NKT khi quyết định vấn đề liên quan đến họ (Điều 159). Các luật khác như Luật Xây dựng, Luật Giao thông đường bộ, Luật Tiếp cận thông tin... cũng quy định về tiêu chuẩn tiếp cận cho NKT. Tuy nhiên, thực tế còn nhiều bất cập, định kiến và rào cản khiến NKT khó tiếp cận cơ sở hạ tầng, phương tiện, thông tin, đào tạo nghề, việc làm và phục hồi chức năng. Để khắc phục, Quyết định 90/QĐ-TTg năm 2022 đã đưa NKT không có sinh kế ổn định vào các dự án giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021–2025. Nhiều bộ, ngành cũng ban hành văn bản hướng dẫn liên quan đến y tế, giáo dục, việc làm, sinh kế và trợ giúp pháp lý cho NKT.
Có thể nói, quyền tiếp cận có vai trò đặc biệt quan trọng với NKT trong khai mở việc thụ hưởng các QCN. Khi NKT tham gia thị trường lao động đồng nghĩa với việc NKT đã có sự chuẩn bị tâm lý hoà nhập cộng đồng. Mặt khác, việc NKT có việc làm cũng phản ánh mức độ được tham gia toàn diện vào đời sống xã hội: có việc làm, có thu nhập - NKT có thể tự nuôi sống bản thân. Điều này giúp NKT có thêm tự tin vào giá trị của bản thân và góp phần đảm bảo sự bền vững của gia đình. Dù vậy, trên thực tế số đông NKT vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong tiếp cận các cơ hội việc làm và phần lớn các hộ gia đình có NKT vẫn chưa thoát khỏi tình trạng đói nghèo1.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), sự tham gia của NKT vào thị trường lao động có thể đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc gia. Các quốc gia có thể mất đi từ 5-7% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) nếu NKT không được tham gia vào thị trường lao động2. Tạo cơ hội việc làm cho NKT không chỉ là việc nhà nước thực hiện nghĩa vụ của chủ thể trách nhiệm với chủ thể quyền, mà còn là thực hiện nghĩa vụ của quốc gia thành viên trong thực thi CRPD. Bên cạnh đó, tạo cơ hội việc làm cho NKT còn góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP và giảm gánh nặng cho quỹ an sinh xã hội. Với NKT, "có việc làm, NKT không chỉ có cơ hội tiếp xúc với xã hội mà còn có thu nhập, tạo dựng cuộc sống tự lập. Việc làm cho NKT chính là con đường bền vững giúp họ thực sự hòa nhập cộng đồng" (phát biểu của ông Trịnh Xuân Dũng, Phó Chủ tịch Hội Người khuyết tật thành phố Hà Nội tại Hội thảo do Viện Nghiên cứu Con người tổ chức tháng 7/2024).
Có thể nói, mặc dù Đảng và Nhà nước luôn nhất quán cả trong chủ trương và chính sách việc bảo đảm quyền cho NKT trong đó có quyền việc làm để không ai bị bỏ lại phía sau, tuy nhiên, trên thực tế nhóm NKT vẫn gặp rất nhiều rào cản trong tiếp cận, hoà nhập cộng đồng, trong đó có các rào cản từ môi trường, từ sự phân biệt đối xử, kỳ thị,như tiếp cận giáo dục hạn chế tác động đến việc tiếp cận quyền việc làm.
- Tiếp cận thông tin việc làm: ở Hà Nội, nhiều NKT và gia đình NKT ít biết đến các chính sách ưu đãi của Nhà nước về đào tạo, tuyển dụng và các cơ chế hỗ trợ việc làm cho NKT, như: được tư vấn học nghề, tìm việc làm miễn phí hoặc được vay vốn lãi suất ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH). Đến năm 2024 vẫn chưa có một hệ thống/nền tảng tập trung, toàn diện để mọi NKT quan tâm có thể truy cập các thông tin liên quan đến dạy nghề và phát triển nghề cho NKT. Các trang Web đào tạo nghề, tuyển dụng lao động là NKT do Sở LĐTB&XH/Trung tâm giới thiệu việc làm quản lý, chịu trách nhiệm nhưng không cập nhật thông tin thường xuyên và giao diện khó sử dụng cho các dạng khuyết tật; việc phổ biến tin chưa chú trọng đến các định dạng có khả năng tiếp cận với các dạng khuyết tật, đặc biệt là với NKT nghe không thể tiếp cận thông tin, tham gia ứng tuyển và gặp gỡ, thảo luận với nhà tuyển dụng để tìm hiểu cơ hội đào tạo, tiếp cận việc làm,... Nhiều doanh nghiệp từng công bố chương trình đào tạo và tuyển dụng NKT trên sàn giao dịch việc làm, tuy nhiên mới chỉ mang tính thời vụ. Dù vậy, nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn trong tìm kiếm NKT đáp ứng được yêu cầu về tay nghề3.
- Tiếp cận trang thiết bị, máy móc, công cụ làm việc: Hiện chưa có quy định cụ thể về quy chuẩn kĩ thuật tiếp cận cho từng loại trang thiết bị, máy móc, công cụ làm việc với từng dạng khuyết tật. Các doanh nghiệp sử dụng người lao động khuyết tật chủ yếu tự cải tạo, điều chỉnh trang thiết bị tùy vào điều kiện kinh tế và tình hình cụ thể của mỗi loại công việc và từng dạng khuyết tật. Tuy nhiên, các quy định ở khoản 3 Điều 33 Luật NKT và khoản 1 Điều 159 Bộ luật Lao động năm 2019 về bố trí trang thiết bị, công cụ lao động phù hợp với NKT đang là quan ngại với các doanh nghiệp. Việc quy định không cụ thể về điều kiện, quy chuẩn và cơ chế thanh quyết toán nhận hỗ trợ khiến nhiều cơ sở, doanh nghiệp ngại nhận lao động khuyết tật vì làm tăng chi phí sửa chữa trong khi công suất sử dụng thấp, cơ chế hỗ trợ phức tạp. Phần lớn các cơ sở sản xuất có NKT làm việc là nhỏ và siêu nhỏ nên họ tự điều chỉnh công cụ làm việc theo khả năng tài chính của mình. Quy định này ít có hiệu quả trong việc khuyến khích doanh nghiệp sử dụng lao động là NKT.
- Tiếp cận công nghệ, thông tin, công nghệ số, internet... góp phần hỗ trợ NKT khắc phục các rào cản về môi trường để có thể tiếp cận thông tin học nghề, tìm kiếm việc làm và làm việc trên nền tảng số... dù đã có nhiều cải thiện so với các năm trước nhưng so với người không khuyết tật thì vẫn còn khoảng cách khá xa. Điều này thể hiện ở các tỷ lệ NKT có sử dụng điện thoại thông minh, có kết nối sử dụng internet và sử dụng thiết bị kỹ thuật số trong đời sống hàng ngày. Tỷ lệ NKT có truy cập internet năm 2023 là 33,6% cao hơn nhiều so với năm 2016 chỉ 6,7%. Tuy nhiên, so với tỷ lệ người không khuyết tật truy cập internet (năm 2023 là 83,7% và năm 2016 42,9%). Đồng thời, có sự chênh lệch về tỷ lệ truy cập internet của NKT ở thành thị so với nông thôn (40,1% với 31,0%) và chia theo giới tính (29,6% ở nam và 39,3% ở nữ). Tỷ lệ NKT có điện thoại di động năm 2023 là 53,7% cao hơn so với năm 2016 là 38,9%. Tuy nhiên, có sự chênh lệch lớn về tỷ lệ có điện thoại di động giữa NKT và không khuyết tật (năm 2023 là 53,7% so với 89,2% và năm 2016 là 38,9% so với 73,1%)4. Như vậy, tỷ lệ NKT có truy cập internet và sử dụng điện thoại di động mặc dù đã tăng so với năm 2016 nhưng so với người không khuyết tật vẫn còn khoảng cách khá xa; và sự chênh lệch khá lớn giữa nông thôn và thành thị, giữa nữ và nam.
- Nhận thức về NKT và cơ hội tiếp cận việc làm của NKT:
Về nhận thức, ở Việt Nam còn tồn tại quan điểm cho rằng, NKT không có khả năng lao động, phải sống dựa vào gia đình, vào quỹ an sinh xã hội và các hoạt động từ thiện; NKT nên ở nhà cho an toàn, để NKT đi làm là đày đoạ, không có lương tâm; NKT có làm việc thì hiệu suất thấp, tiền kiếm được không đáng bao nhiêu mất công đưa đón. Bên cạnh đó, nhiều gia đình có NKT còn cảm thấy xấu hổ, mặc cảm vì có con là NKT, nên họ để NKT sống khép kín, tách biệt với xã hội... Những điều này càng khiến NKT gặp khó khăn trong hòa nhập xã hội, đặc biệt là tìm kiếm các cơ hội việc làm. Các số liệu điều tra cho thấy, có sự chênh lệch lớn về tỷ lệ có việc làm giữa NKT với người không khuyết tật. Số đông NKT chưa từng đi học, hoặc có trình độ văn hoá thấp, không đáp ứng được điều kiện về chứng chỉ tay nghề/bằng cấp của các nhà tuyển dụng... Bên cạnh đó, một số gia đình không muốn cho con/em mình là NKT đi làm vì sợ con bị tổn thương, bị ngược đãi, bị đàm tiếu... Những điều này cản trở cơ hội có việc làm và khẳng định bản thân của NKT, khả năng hòa nhập. Báo cáo quốc gia về NKT năm 2023 cũng chỉ ra rằng, tỷ lệ NKT được đào tạo nghề thấp hơn nhiều so với người không khuyết tật (8,8% so với 25,4%). Tỷ lệ NKT trong độ tuổi lao động đang làm việc trong nền kinh tế năm 2023 là 23,5%, của người không khuyết tật là 76,3%. Chênh lệch này năm 2016 là 31,7% so với 82,4%5. Bên cạnh đó, đa số NKT làm việc ở khu vực phi chính thức, có thu nhập thấp, điều kiện làm việc không đảm bảo an toàn và bị hạn chế về cơ hội nâng cao tay nghề. NKT trong độ tuổi lao động đang làm việc có tỷ lệ rất khác nhau giữa các dạng khuyết tật. Tỷ lệ có việc làm cao thuộc các nhóm khuyết tật vận động thân dưới, khuyết tật nghe và khuyết tật nhận thức. Nhóm có việc làm thấp chỉ từ 10% trở xuống là khuyết tật nhìn, khuyết tật giao tiếp, khuyết tật vận động thân trên và thần kinh, tâm thần.
Theo kết quả điều tra về NKT năm 2023, NKT vận động thân dưới có ảnh hưởng lớn hơn đối với những lao động trẻ, trong khi NKT giao tiếp và thần kinh, tâm thần có ít ảnh hưởng tới lao động trẻ hơn so với các nhóm NKT tuổi cao hơn. Thực tế, một số dạng khuyết tật, tỷ lệ có việc làm giảm khi tuổi cao lên, trong khi một số dạng khuyết tật khác tỷ lệ có việc làm lại tăng theo tuổi. Điều đó chỉ ra rằng, ảnh hưởng của khuyết tật đến việc làm là không giống nhau mà phụ thuộc vào yêu cầu và môi trường làm việc cụ thể6.
- Tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi tự tạo việc làm, duy trì và mở rộng hoạt động doanh nghiệp. Theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), giai đoạn 2011-2020, doanh số vốn cho NKT vay, cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng nhiều lao động là NKT đạt 296 tỷ đồng với hơn 15.000 khách hàng được vay vốn. Tổng dư nợ đạt 90 tỷ đồng với hơn 3.800 khách hàng còn dư nợ của NHCSXH7. Từ nguồn vốn vay ưu đãi, nhiều NKT đã phát triển kinh tế với nhiều mô hình khác nhau, xuất hiện nhiều doanh nghiệp của/dành cho NKT... Điều này góp phần tăng tỷ lệ NKT có việc làm, có thu nhập, ổn định kinh tế gia đình và giúp NKT tự tin hoà nhập cộng đồng. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, bất cập: Tỷ lệ NKT được vay vốn từ NHCSXH còn thấp, chỉ chiếm dưới 1% so với tổng số người được vay; dư nợ cho vay đối với NKT, doanh nghiệp sử dụng lao động khuyết tật chỉ chiếm 0,07 % trên tổng số dư nợ lẫn số hộ còn dư nợ các chương trình tín dụng của ngân hàng8. Do đó, thực tế mới đáp ứng một phần nhu cầu vốn tự tạo việc làm của NKT. Và, mức vốn cho vay trên một hộ gia đình NKT còn thấp. Mặc dù mức vốn cho vay, thời hạn cho vay đã được được tăng lên so với giai đoạn trước nhưng đây là mức “tối đa”, nghĩa là không phải mọi trường hợp NKT được vay ở mức 100 triệu đồng với thời hạn 10 năm mà có thể thấp hơn rất nhiều căn cứ vào qui mô, chu kỳ và loại hình sản xuất, kinh doanh, khả năng trả nợ. Bên cạnh đó, cơ cấu cho vay không đồng đều khi mà NKT vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm chủ yếu qua nguồn vốn ủy thác Hội Người mù quản lý với dư nợ gần 50 tỷ đồng và gần 3 nghìn hộ vay còn dư nợ9.
Có thể nói, việc thừa nhận quyền tiếp cận của NKT trong pháp luật thể hiện một cách nhìn mới mang tính nhân văn sâu sắc về quyền con người nói chung, quyền của NKT nói riêng. “Tiếp cận” là vấn đề cốt lõi trong thụ hưởng và bảo đảm, thúc đẩy quyền của NKT trong đó có quyền tiếp cận việc làm. Đây là điều kiện cơ bản, là “chìa khoá” để tăng khả năng thụ hưởng các quyền của NKT, cũng là cơ hội để NKT thực hiện nghĩa vụ của mình với gia đình và xã hội một cách bình đẳng. Việc bảo đảm quyền tiếp cận của NKT chính là thực hiện nguyên tắc chống kỳ thị, phân biệt đối xử để NKT có cơ hội bình đẳng trong thực thi các quyền của NKT, để không ai bị bỏ lại phía sau.
3. Một số vấn đề đặt ra trong tiếp cận quyền việc làm của người khuyết tật từ góc nhìn phát triển con người
Đối với NKT, việc coi “tiếp cận” là một quyền con người có vai trò hết sức quan trọng. Trong tiếp cận việc làm của NKT cần chú trọng vào bốn khía cạnh:
- Công bằng: Được xem xét dưới hai góc độ. Công bằng theo chiều dọc, thể hiện sự công bằng về giới trong tiếp cận dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục; loại trừ khỏi việc tham gia vào đời sống chính trị, xã hội và quá trình ra quyết định. Và, công bằng theo chiều ngang, được xem xét qua cơ hội tiếp cận với giáo dục - kiến thức, sức khỏe, trong giảm nghèo và phát triển kinh tế, trong việc đối mặt với những bất ổn xã hội. Công bằng trong tiếp cận việc làm của NKT còn nhằm bảo đảm quyền con người gắn với phẩm giá của NKT cần được đề cao.
- Hiệu quả: thể hiện sự tăng trưởng GDP, NKT tham gia thị trường lao động giúp tăng năng suất lao động; nâng cao năng lực cho NKT và sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực. NKT được bảo đảm quyền tiếp cận việc làm sẽ góp phần thúc đẩy GDP, đồng thời người lao động khuyết tật có thêm cơ hội được nâng cao năng lực và mở rộng cơ hội lựa chọn khi tham gia các hoạt động xã hội trong quá trình làm việc. NKT được làm việc, được tham gia vào các mặt của đời sống xã hội sẽ giảm gánh nặng chi tiêu từ quỹ an sinh xã hội, có điều kiện để phát triển kinh tế đất nước.
- Trao quyền: tất cả các nhóm xã hội, các dạng khuyết tật và không khuyết tật đều được đảm bảo quyền con người một cách bình đẳng. Tất cả mọi người, trong đó có NKT được quyền tham gia vào quá trình ra quyết định của cộng đồng; quyền kiểm soát tài sản kinh tế hợp pháp và công việc của mình; quyền tiếp cận với nguồn vốn từ các ngân hàng, trong đó có NHCSXH để tự tạo việc làm, học nghề, phát triển sản xuất...
- Tham gia: Được xem xét ở góc độ tất cả mọi người đều có quyền được tham gia và không bị loại trừ (bao gồm loại trừ về kinh tế, loại trừ do địa lý, loại trừ do yếu tố khuyết tật - các yếu tố kỳ thị và phân biệt xã hội, quyết định chính thức, loại trừ do các vấn đề giáo dục và sức khoẻ).
Có thể nói, với cách tiếp cận phát triển con người, coi con người là mục tiêu, là động lực và trung tâm của sự phát triển, các nhà kinh tế học đã coi phát triển con người là sự mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn để con người có cơ hội được hưởng thụ một cuộc sống đảm bảo về kinh tế, hạnh phúc, phát triển bền vững. Theo cách tiếp cận này, phát triển con người không chỉ là sự gia tăng về thu nhập và của cải vật chất, quan trọng hơn là sự mở rộng các khả năng của con người, tạo cho con người có cơ hội tiếp cận tới nền giáo dục tốt hơn, các dịch vụ y tế tốt hơn, có chỗ ở tiện nghi hơn cũng như có việc làm ý nghĩa hơn... Bên cạnh đó, phát triển con người còn là tăng cường năng lực, trước hết là nâng cao kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm làm việc tất cả vì mục tiêu nâng cao chất lượng sống; con người được sống thọ, sống khỏe, hạnh phúc và được học hành, có việc làm, được tham gia các hoạt động xã hội và hòa nhập cộng đồng. Cách tiếp cận này không phân biệt NKT hay không khuyết tật, tất cả đều bình đẳng về quyền, nghĩa vụ và cơ hội, khi người lao động khuyết tật cũng được trao cơ hội bình đẳng với người không khuyết tật.
Nếu “tiếp cận” không được thừa nhận là một quyền con người và không được bảo đảm trên thực tiễn, thì quyền tiếp cận việc làm của NKT sẽ khó đi vào thực tiễn. Người lao động khuyết tật sẽ bị tổn thương kép vì bị bất bình đẳng so với người không khuyết tật và các quyền của họ không được bảo đảm thực hiện. Điều này không chỉ gây thiệt hại đối với NKT và gia đình họ và còn ảnh hưởng đến sự phát triển chung của xã hội, đến an sinh xã hội với dự báo của WB về GDP của Việt Nam có thể mất từ 3-5% nếu NKT không được tham gia vào thị trường lao động. Do đó, quyền tiếp cận việc làm của người lao động khuyết tật cần sớm được bảo đảm thực hiện trên thực tiễn vì mục tiêu phát triển con người bền vững ở Việt Nam.
TS. Phạm Thị Tính
Viện Nghiên cứu Con người, Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 46 (6/2024)
---
Tài liệu trích dẫn
(1) UNDESA (2018), Báo cáo về khuyết tật và phát triển, hiện thực hóa các mục tiêu phát triển bền vững của và vì người khuyết tật. https://www.un.org/development/desa/disabilities/wp-content/uploads/sites/15/2019/07/disability-report-chap ter2.pdf, cập nhật ngày 15/9/2019.
(2) Đan Thanh (2023), Thiệt hại 5 - 7% GDP nếu người khuyết tật không thể tham gia thị trường lao động, https://daibieunhandan.vn/doi-song/thiet-hai-5---7-gdp-neu-nguoi-khuyet-tat-khong-the-tham-gia-thi-truong-lao-dong-i320226/, cập nhật 26/03/2023.
(4);(5);(6) Tổng cục Thống kê (2023), Thông cáo Báo chí về kết quả điều tra Người khuyết tật năm 2023. https://www.gso.gov.vn/tin-tuc-thong-ke/2024/11/thong-cao-bao-chi-ve-ket-qua-dieu-tra-nguoi-khuyet-tat-nam-2023/
(3) UNDP (2020), Mở rộng cơ hội việc làm cho người khuyết tật, tháng 6/2020.
(7);(9) Ngân hàng chính sách xã hội (2021), Báo cáo đánh giá 10 năm thực hiện Luật Người khuyết tật từ năm 2011-2020 ngày 14/06/2021.
(8) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2020), Báo cáo kết quả thực hiện Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020, tr.14.