Các quyền dân sự, chính trị là những quyền con người quan trọng được ghi nhận bởi pháp luật quốc tế và Hiến pháp, pháp luật ở Việt Nam. Trên cơ sở khái quát về các quyền dân sự, chính trị theo Hiến pháp năm 2013, bài viết phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện các quyền dân sự, chính trị theo Hiến pháp năm 2013, từ đó, đưa ra giải pháp bảo đảm thực hiện các quyền này trên thực tế.

Một phiên họp của Quốc hội. vietnamplus.vn

1. Khái quát về các quyền dân sự, chính trị theo Hiến pháp năm 2013
Ở góc độ pháp luật quốc tế, xét theo lĩnh vực điều chỉnh, có thể phân chia quyền con người thành hai nhóm, đó là: nhóm các quyền dân sự, chính trị2 và nhóm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa3. Phù hợp với pháp luật quốc tế, Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam cũng xác định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật". Như vậy, theo Hiến pháp năm 2013, quyền con người cũng được thể hiện trên các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội như pháp luật quốc tế. Điều đó thể hiện, Việt Nam là quốc gia thành viên tích cực đã hiến định hầu hết các quyền con người trong luật nhân quyền quốc tế và các điều ước quốc tế có liên quan đến quyền con người. Hiến pháp năm 2013 không quy định rõ quyền con người cụ thể ở từng lĩnh vực, tuy nhiên, căn cứ pháp luật quốc tế, có thể xác định các quyền dân sự, chính trị bao gồm: 
- Các quyền dân sự được hiểu là các quyền tự do cá nhân của con người và công dân, như: Quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử (Điều 16); Quyền sống (Điều 19); Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm, không bị truy bức, nhục hình (Điều 20); Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư (Điều 21); Quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22); Quyền tự do đi lại và cư trú (Điều 23); Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 24); Quyền bình đẳng giới (Điều 26); Quyền tư pháp (Điều 31); Quyền tự do kết hôn (Điều 36).
- Các quyền chính trị được hiểu là các quyền liên quan đến công việc nhà nước và xã hội, như: Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 25); Quyền bầu cử, ứng cử (Điều 27); Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28); Quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29); Quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 30).
Việc phân nhóm các quyền dân sự, chính trị cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối, bởi các quyền đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau.
Trong lý luận về quyền con người, các quyền dân sự và chính trị được xếp vào thế hệ quyền con người thứ nhất, là các quyền có thể thực hiện được ngay, ít bị phụ thuộc vào nguồn lực của quốc gia so với các thế hệ nhân quyền khác.4 Các quyền dân sự, chính trị hướng vào hai vấn đề chính, đó là tự do và sự tham gia vào đời sống chính trị của các cá nhân.5  Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện các quyền dân sự, chính trị. Hiến pháp năm 2013 đã hiến định các trách nhiệm của Nhà nước là công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người (Điều 3). Trong xã hội có rất nhiều chủ thể có trách nhiệm bảo đảm quyền con người, quyền công dân nhưng Nhà nước là chủ thể bảo đảm hiệu quả nhất, đầy đủ nhất các quyền con người, quyền công dân và cũng là chủ thể có trách nhiệm đầu tiên, trước hết trong tất cả các chủ thể. Trách nhiệm của Nhà nước trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013 được thể hiện chủ yếu trên ba phương diện: xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật và bảo vệ pháp luật.
2. Thực trạng thực hiện các quyền dân sự, chính trị theo Hiến pháp năm 2013
a) Về xây dựng pháp luật
Xây dựng pháp luật để thể chế hóa tinh thần, nội dung các quyền dân sự, chính trị theo Hiến pháp năm 2013 là biện pháp hàng đầu để thực hiện các quyền dân sự, chính trị trên thực tế. Xác định được tầm quan trọng và yêu cầu của việc cụ thể hóa các quy định và tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về các quyền dân sự, chính trị, trong chương trình xây dựng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thời gian qua đã dành tỷ lệ thích đáng cho các dự án pháp luật về các quyền dân sự, chính trị. Tính đến hết tháng 6/2019, Quốc hội đã ban hành 16 luật về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chủ yếu là các luật cụ thể hóa các quyền dân sự, chính trị theo Hiến pháp năm 2013 như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Báo chí, Luật Trưng cầu ý dân; Luật Tiếp cận thông tin; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam; Luật An toàn thông tin mạng; Luật Tố cáo; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo…6 Nhìn chung, các luật về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã thể chế hóa đúng tinh thần và nội dung của Hiến pháp mới và tương thích với pháp luật quốc tế. 
- Nội dung, phạm vi các quyền được mở rộng và được quy định chính xác hơn, đầy đủ hơn, cụ thể hơn so với các luật, bộ luật được ban hành trước Hiến pháp năm 2013. Chẳng hạn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tố cáo trước đây pháp luật chỉ dành cho công dân7, nhưng hiện nay thể chế hóa tinh thần Hiến pháp năm 2013 thì các quyền này không chỉ của công dân mà là của mọi người8...
- Quy định tăng cường trách nhiệm, bảo đảm sự đúng đắn, nghiêm minh, công bằng trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật của mọi chủ thể; trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi vi phạm để xảy ra thiệt hại cho con người, công dân.
- Nhiều đạo luật quy định khá cụ thể, toàn diện các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân, hạn chế tối đa các điều khoản ủy quyền quy định chi tiết thi hành luật, chẳng hạn như Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 ở các điều: Điều 33, Điều 34 và Điều 35...
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, so với các quy định mới của Hiến pháp năm 2013 thì công tác xây dựng pháp luật đang còn một số hạn chế, bất cập sau:
- Có tình trạng nội hàm một số quyền được quy định trong luật chưa được thể chế hóa đầy đủ, phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm 2013. Chẳng hạn như: Hiến pháp năm 2013 quy định mọi người có quyền tố cáo về những việc trái pháp luật, nhưng Luật Tố cáo năm 2018 lại thu hẹp phạm vi quyền tố cáo của mọi người khi chỉ quy định mọi người có quyền tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật; Hiến pháp năm 2013 quy định mọi người có quyền khiếu nại, nhưng Luật Khiếu nại năm 2011 quy định quyền khiếu nại chỉ dành cho công dân.
- Một số quyền, như quyền biểu tình, quyền lập hội... chưa có luật trực tiếp điều chỉnh. Trong bối cảnh Hiến pháp chỉ quy định chung về các quyền thì việc một số quyền chưa được pháp luật điều chỉnh rõ ràng sẽ dẫn đến tình trạng khó khăn trong thực hiện.
b) Về tổ chức thi hành pháp luật
Cùng với hoàn thiện pháp luật thì công tác tổ chức thi hành pháp luật về các quyền dân sự, chính trị ở nước ta thời gian qua được quan tâm chỉ đạo và đạt được nhiều kết quả tích cực, cụ thể: 
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nội dung và ý nghĩa của Hiến pháp năm 2013 được xác định là một trong các nhiệm vụ trọng tâm cần triển khai ngay sau khi Hiến pháp được thông qua và thu được nhiều kết quả nổi bật như9: tổ chức hội nghị toàn quốc giới thiệu, phổ biến về Hiến pháp dưới hình thức trực tuyến và truyền hình trực tiếp đến 63 tỉnh, thành phố; tổ chức tuyên truyền, giới thiệu, phổ biến nội dung, ý nghĩa của Hiến pháp với nhiều hình thức phong phú; tổ chức cuộc thi viết “Tìm hiểu Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” trên phạm vi cả nước và có 4.855.057 bài dự thi; tổ chức rà soát, biên soạn lại sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu, nghiên cứu giảng dạy về Hiến pháp và pháp luật...
- Công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết có nhiều chuyển biến rõ rệt, nhiều văn bản được ban hành có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của luật, chẳng hạn như Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015; Luật Tiếp cận thông tin năm 2016...
- Các cơ quan nhà nước đã quan tâm, đầu tư, tạo điều kiện vật chất, kỹ thuật cần thiết bảo đảm cho hoạt động tổ chức thi hành pháp luật có hiệu quả, cụ thể trên một số phương diện như sau:
+ Quyền bình đẳng giới đạt được nhiều kết quả to lớn, thực chất. Ví dụ, theo thống kê của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, trong nhiệm kỳ 2020-2025, ở cấp cơ sở, số phụ nữ tham gia cấp ủy đạt 21%, tăng 2%; cấp trên cơ sở đạt 17%, tăng 2%. Đối với các đảng bộ trực thuộc Trung ương, tỷ lệ nữ đạt 16%, tăng 3% so với nhiệm kỳ trước10.
+ Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thời gian qua, chính quyền các địa phương tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo mở các khóa đào tạo, bồi dưỡng thần học, giáo lý cho hơn 10.000 người mỗi năm; 20.000 (chiếm 80%) cơ sở thờ tự của các tôn giáo được sửa chữa, nhiều cơ sở thờ tự được xây mới, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo được thực hiện đúng pháp luật11;
+ Theo Báo cáo của Chính phủ nhiệm kỳ 2016 - 2021, các cơ quan nhà nước đã giải quyết 107.794 vụ việc khiếu nại, tố cáo (đạt 84,2%) góp phần bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của mọi người12.
+ Theo số liệu thống kê của Digital, tính tới tháng 6/2021, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Internet giờ đây đã có mặt ở mọi nơi, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, biên giới, hải đảo. Internet ứng dụng mọi lĩnh vực của đời sống, từ giáo dục, y tế, giao thông... tới cả xây dựng chính phủ điện tử. Mọi người dân ở Việt Nam đều có thể tự do chia sẻ, bày tỏ thông tin, quan điểm cá nhân thông qua Internet, nhất là qua mạng xã hội. Đó là những minh chứng sống động của việc Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo vệ quyền được tự do thông tin, tự do Internet13...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác tổ chức thi hành pháp luật bảo đảm một số quyền dân sự, chính trị vẫn còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Có nhiều yếu tố dẫn đến thực trạng này14 như đại dịch COVID-19 đã xuất hiện và bùng phát trên phạm vi toàn cầu, ảnh hưởng nặng nề đến tất cả các lĩnh vực; hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện; việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu về nội dung Hiến pháp tại một số nơi còn mang tính hình thức, chưa đến được đối tượng thực sự cần phổ biến; nguồn tài liệu còn chưa phong phú; năng lực của chủ thể tổ chức thi hành pháp luật còn hạn chế; trình độ phát triển của nền kinh tế đất nước, các nguồn lực và điều kiện vật chất, kỹ thuật chưa đảm bảo; ý thức pháp luật trong xã hội còn thấp...
c) Về bảo vệ các quyền dân sự, chính trị
Ở Việt Nam, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân nói chung, các quyền dân sự, chính trị nói riêng là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó, vai trò của tòa án là rất quan trọng. Theo Báo cáo công tác Tòa án nhiệm kỳ 2016-202115, Tòa án các cấp đã xét xử các vụ án hình sự đạt tỷ lệ 99,5%, trong đó các tội xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người chiếm tỷ lệ cao; xét xử các vụ án hành chính đạt tỷ lệ 89,3%. 
Tuy nhiên, thời gian qua hoạt động xét xử của tòa án còn bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc làm giảm hiệu quả bảo vệ quyền con người nói chung, quyền dân sự, chính trị nói riêng. Vẫn còn tình trạng bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan, điều này ảnh hưởng nhất định đến niềm tin của người dân đối với cơ quan duy nhất có chức năng xét xử, bảo vệ công lý. Tình trạng tồn đọng, án quá hạn luật định do các cơ quan tiến hành tố tụng chưa giải quyết kịp thời tương đối lớn. Dù đã rất nỗ lực với nhiều chủ trương, giải pháp và đã có những tiến bộ đáng kể song hệ thống tòa án cũng chưa thể đạt được chỉ tiêu giải quyết, xét xử 100% các vụ án thụ lí trong năm.
Ngoài các chủ thể “mang tính nhà nước”, trong cơ chế bảo vệ các quyền con người, quyền công dân hiến định không thể không kể đến vai trò của báo chí và các tổ chức, đoàn thể xã hội. Với các chức năng của mình (đặc biệt là chức năng thông tin của báo chí), các chủ thể này tham gia giám sát việc thực hiện các quyền hiến định, từ đó giúp phát hiện, ngăn ngừa và xử lý một cách kịp thời những sự vi phạm đến quyền con người, quyền công dân. Trong thời gian qua, vai trò giám sát và bảo vệ của các chủ thể này cho thấy những dấu hiệu tích cực. Ủy ban Mặt trận cấp tỉnh chủ trì và tham gia giám sát liên ngành được 4.093 cuộc; Ủy ban Mặt trận cấp huyện chủ trì giám sát 22.679 cuộc; Ủy ban Mặt trận cấp xã chủ trì giám sát 466.012 cuộc; hàng năm, góp ý trên 30 văn bản pháp luật.16 Tuy nhiên, do kết quả của hoạt động này chưa được thể hiện trong văn bản có giá trị pháp lý, không có chế tài ràng buộc việc thực hiện mà thường chỉ là nêu ý kiến tại các phiên họp của đối tượng giám sát dẫn đến tình trạng nhiều kiến nghị, đề xuất không được giải quyết hoặc giải quyết không kịp thời. Cho nên hiệu quả bảo vệ quyền con người, quyền công dân của những chủ thể này vẫn tương đối hạn chế.
3. Giải pháp bảo đảm thực hiện các quyền dân sự, chính trị theo Hiến pháp năm 2013
Để bảo đảm thực hiện các quyền dân sự, chính trị theo Hiến pháp năm 2013 cần thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định việc tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện pháp luật theo Hiến pháp năm 2013 là một trong những giải pháp đầu tiên để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân: “Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”17, và phải đảm bảo: “Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”18. Vì vậy, để bảo đảm thực hiện các quyền dân sự, chính trị theo Hiến pháp năm 2013 cần tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện pháp luật theo các hướng sau:
- Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp luật để cụ thể hóa đầy đủ, chính xác nội dung, quy định về các quyền dân sự, chính trị theo Hiến pháp năm 2013. Trước tiên là cần ban hành các đạo luật để lấp những khoảng trống pháp luật quy định cụ thể hóa mỗi quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, chẳng hạn: Luật Chuyển giới, Luật Chống phân biệt đối xử, Luật Khiếu nại (sửa đổi), Luật về Hội, Luật Biểu tình... 
- Khẩn trương xây dựng, ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của các văn bản luật, pháp lệnh quy định về các quyền dân sự, chính trị. 
Thứ hai, nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật.
- Đổi mới, nâng cao chất lượng tuyên truyền, phổ biến nội dung của Hiến pháp, có sự gắn kết chặt chẽ với công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Lôi cuốn, tạo điều kiện để nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động pháp luật thực tiễn; đa dạng hoá các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, các loại hình đào tạo pháp luật; tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại và các phương tiện thông tin đại chúng vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo đảm để người dân hiểu và tăng cường sử dụng quyền con người của mình.
- Thực hiện tốt công tác rà soát, loại bỏ những quy định chồng chéo, mâu thuẫn, không khả thi, tiến đến hệ thống hóa pháp luật về các quyền dân sự, chính trị. Về lâu dài, nghiên cứu tiến hành hài hòa hóa pháp luật quốc tế về quyền con người, có thể tiến hành dần từng bước như hài hòa hóa pháp luật quyền con người khu vực ASEAN... để tăng cường các công cụ pháp lý bảo đảm thực hiện quyền con người.
- Tăng cường thực hiện giám sát, kiểm tra, theo dõi tình hình thi hành Hiến pháp năm 2013 và pháp luật để kịp thời phát hiện, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với các văn bản quy định không hợp hiến, hợp pháp.
- Tăng cường giải thích Hiến pháp, pháp luật, nhất là trong các trường hợp có những cách hiểu chưa thống nhất về các quy định của Hiến pháp, pháp luật về quyền con người, chẳng hạn như nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Thứ ba, tăng cường bảo vệ pháp luật.
- Bảo vệ quyền con người, quyền công dân cũng có nghĩa là nếu người nào có những hành vi xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân thì phải gánh chịu các chế tài nghiêm khắc. Nói cách khác, để bảo vệ hữu hiệu các quyền dân sự, chính trị thì vấn đề quan trọng đặt ra là phải quy định rõ trách nhiệm của những người, từng cơ quan trong trường hợp họ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của mình. Chẳng hạn, một vụ án bị chậm trễ đưa ra xét xử, một quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn không hợp lí, không hợp pháp... thì những chủ thể liên quan phải chịu trách nhiệm gì, hình thức chế tài ra sao cần được xác định rõ trong pháp luật.
- Phát huy vai trò giám sát của hệ thống chính trị bao gồm giám sát của của tổ chức Đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên ở các cấp, của nhân dân và báo chí, phương tiện truyền thông đối với hoạt động thực hiện quyền con người.
 

ThS. Dương Văn Quý

Giảng viên Phân hiệu Trường Đại học Luật Hà Nội tại tỉnh Đắk Lắk

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 3/2022

-----

Tài liệu trích dẫn
(1) Bài báo được thực hiện trong khuôn khổ đề tài "Thực hiện quyền con người theo Hiến pháp năm 2013" của Trường Đại học Luật Hà Nội.
(2) Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966.
(3) Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966.
(4) Nguyễn Thanh Hải (2017), "Thực hiện các quyền dân sự, chính trị theo Hiến pháp năm 2013", Sách chuyên khảo: Thực hiện các quyền hiến định trong Hiến pháp năm 2013, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.149.
(5) Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Hỏi đáp về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 30.
(6) Báo cáo số 344/BC-CP ngày 22/8/2019 của Chính phủ sơ kết 05 năm triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 (2014 - 2019).
(7) Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004; Luật Tố cáo năm 2011.
(8) Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2018; Luật Tố cáo năm 2018.
(9) Báo cáo số 344/BC-CP ngày 22/8/2019 của Chính phủ sơ kết 05 năm triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 (2014 - 2019).
(10) Trần Quang Vinh, Bình đẳng giới thực chất tại Việt Nam: Từ chính sách tới thực tiễn, https://www.vietnamplus.vn/binh-dang-gioi-thuc-chat-tai-viet-nam-tu-chinh-sach-toi-thuc-tien/776709.vnp, truy cập ngày 02/4/2022.
(11) Thúy Hồng, Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân, https://baodantoc.vn/bao-dam-quyen-tu-do-tin-nguong-ton-giao-cua-nhan-dan-1627613119783.htm, truy cập ngày 30/3/2022.
(12) Báo cáo số 226/BC-CP ngày 10/7/2021 của Chính phủ Báo cáo tổng kết công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, tr. 9.
(13) Nguyễn Sơn, Một bản báo cáo thiếu khách quan, sai sự thật về tự do Internet ở Việt Nam, https://dangcongsan.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/mot-ban-bao-cao-thieu-khach-quan-sai-su-that-ve-tu-do-internet-o-viet-nam-592613.html, truy cập ngày 30/3/2022.
(14) Báo cáo số 344/BC-CP ngày 22/8/2019 của Chính phủ sơ kết 05 năm triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 (2014 - 2019).
(15) https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/tatc/chi-tiet-tin?dDocName=TAND165071, truy cập ngày 31/3/2022.
(16) Ngô Sách Thực, Bài 5: Mặt trân Tổ quốc Việt Nam thực hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân trong giai đoạn hiện nay, http://tapchimattran.vn/nghien-cuu/bai-5-mttq-viet-nam-thuc-hien-vai-tro-dai-dien-bao-ve-quyen-va-loi-ich-hop-phap-chinh-dang-cua-nhan-dan-trong-giai-doan-hien-nay-, truy cập ngày 31/3/2022.
(17) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII - Tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 172 - 173.
(18) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Tlđd, tr. 175.