Việt Nam là đất nước có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo. Việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Trên cơ sở phân tích những thành tựu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, bài viết làm nổi bật sự phát triển vượt bậc của Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thời kỳ đổi mới.
Ảnh minh họa. Nguồn: hdll.vn
Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những nội dung căn bản và quan trọng trong đảm bảo quyền con người và được Đảng, Nhà nước thể hiện bằng chủ trương, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, được hiến định trong các Hiến pháp và gần nhất tại Điều 24, Hiến pháp năm 2013 “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”1. Trên cơ sở đó, quyền con người tiếp tục được luật hóa và thực thi trong toàn xã hội.
Sau hơn 35 tiến hành đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong bảo đảm và thúc đẩy quyền con người nói chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng.
1. Tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân là chủ trương, chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta
Năm 1986, Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới đất nước. Chỉ 4 năm sau đó, năm 1990, công tác tôn giáo bắt đầu đổi mới và được ghi dấu bằng Nghị quyết số 24/NQ-TW, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”. Sự ra đời của Nghị quyết đã đánh dấu một thời kỳ quan trọng trong việc thay đổi nhận thức về tôn giáo và công tác tôn giáo; thể hiện rõ quan điểm đảm bảo quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo khi coi đây là nhu cầu tinh thần và bình thường của nhân dân, đồng thời khẳng định người dân có quyền lựa chọn, tin theo bất kỳ tín ngưỡng, tôn giáo nào. Bên cạnh đó, để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Nghị quyết yêu cầu các cơ quan thực thi pháp luật có liên quan “phải đồng thời quan tâm giải quyết một cách hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng”2. Đây là những quan điểm rất quan trọng đặt tiền đề cho việc thúc đẩy việc thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân trong đời sống xã hội.
Sau khi Nghị quyết 24 được ban hành, công tác thể chế hoá các quan điểm của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục nhận được sự quan tâm lớn và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần làm cho giai đoạn sau luôn hoàn thiện và tốt hơn giai đoạn trước cả về nội dung và giá trị pháp lý. Cụ thể, thể chế hóa các quan điểm của Đảng trong Nghị quyết số 24, Nhà nước đã ban hành Nghị định số 69/HĐBT, ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng quy định về các hoạt động tôn giáo tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tôn giáo và quản lý các hoạt động tôn giáo trong giai đoạn đầu những năm đổi mới; 9 năm sau Chính phủ ban hành Nghị định số 26/1999/NĐ-CP về các hoạt động tôn giáo thay thế Nghị định số 69. Các nội dung trong Nghị định vừa là cơ sở pháp lý để các cá nhân, tổ chức tôn giáo tổ chức các hoạt động theo quy định vừa là căn cứ để cơ quan chức năng hướng dẫn và quản lý các hoạt động tôn giáo thống nhất trong toàn quốc.
Sau 13 năm thực hiện Nghị quyết số 24 và trên đà của thành quả đổi mới đất nước, tại Hội nghị Trung ương lần thứ VII khoá IX, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/2003/TW, ngày 12/3/2003 về công tác tôn giáo thay thế Nghị quyết số 24. Tinh thần của Nghị quyết số 25 là tiếp tục nâng cao, hoàn thiện các quan điểm về đảm bảo quyền con người trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo khi nhắc lại và làm sâu sắc hơn quan điểm: “tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”3. Với quan điểm này, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được nâng lên nhận thức mới khi khẳng định quyền đó tiếp tục được đảm bảo cùng với sự trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam.
Việc ban hành Nghị quyết số 25 đã giúp cho việc thể chế hóa được nâng lên một bước. Ngày 18/6/2004, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. Pháp lệnh không chỉ đã nâng lên một bước về mặt pháp lý, mà còn bao quát, mở rộng các hoạt động tôn giáo. Trên cơ sở Pháp lệnh, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/NĐ-CP, ngày 01/3/2005 về hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, sau đó được thay thế bằng Nghị định số 92/2012/NQ-CP, ngày 8/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và một số biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. Các quy định trên tiếp tục tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động tôn giáo theo quy định pháp luật, đáp ứng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, góp phần quan trọng đảm bảo quyền con người ở Việt Nam.
Không chỉ dừng lại ở đó, việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được ghi nhận trong các bản hiến pháp, mới nhất là Hiến pháp năm 2013, thể hiện các bước tiến mới của Việt Nam trong việc mở rộng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Việc thay thế các cụm từ như “quyền công dân” được thay bằng “quyền con người”; “Công dân” (Điều 70 Hiến pháp năm 1992) được thay bằng “Mọi người” (Điều 24 Hiến pháp năm 2013); “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ” được thay bằng “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ” đã khẳng định quyền con người là quyền tự nhiên, Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo đảm theo công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 và cần thiết phải điều chỉnh pháp luật về tôn giáo trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đảm bảo ngày một tốt hơn quyền con người trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, ngày 18/11/2016, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo thay thế Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, theo đó ngày 30/12/2017 Chính phủ ban hành Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Luật và Nghị định đồng thời có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018, tiếp tục tạo hành pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền của các tổ chức và cá nhân trong các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
Như vậy, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất từ trước đến nay điều chỉnh trực tiếp hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; là văn bản pháp luật tiếp tục cụ thể hóa chủ trương, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo theo Nghị quyết số 25, tình hình thực tế của đất nước và cụ thể hóa quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 - đó là quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người.
2. Thành tựu bảo đảm công tác tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Việc hoàn thiện về mặt chủ trương, chính sách đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho công tác tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng, qua đó bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, cụ thể:
Thứ nhất, trong công tác cấp đăng ký hoạt động và công nhận tổ chức tôn giáo
Việt Nam là quốc gia đa dạng về tín ngưỡng, tôn giáo, theo ước tính có khoảng 95% dân số Việt Nam có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo. Để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các tôn giáo, trong giai đổi mới đất nước Việt Nam đã thực hiện việc cấp đăng ký hoạt động và công nhận tổ chức cho các tôn giáo đủ điều kiện. Đến tháng 11/2023, Việt Nam đã có 40 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động gồm hai khối chính.
Khối du nhập từ nước ngoài gồm 9 tôn giáo: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo (Islam), Bà La môn, Baha’i, Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam, Giáo hội Các Thánh hữu ngày sau của Chúa Giê-su Kytô, Minh Sư đạo.
Khối nội sinh gồm 7 tôn giáo: Cao Đài, Phật giáo Hòa hảo, Phật hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Minh Lý đạo Tam Tông miếu.
Tổng số tín đồ các tôn giáo hiện nay khoảng 26,5 triệu, chiếm 27% dân số; trên 54 ngàn chức sắc; trên 135 ngàn chức việc; hơn 29 ngàn cơ sở thờ tự; hàng nghìn điểm, nhóm được cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động xây dựng và thực hiện đường hướng hành đạo đậm chất nhân văn tôn giáo và trách nhiệm với đất nước. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tôn giáo hướng dẫn tín đồ tu tập và thực hiện tốt chính sách, pháp luật.
Cùng với việc chấp thuận tổ chức và đăng ký hoạt động chính quyền đã chấp thuận cho các tổ chức tôn giáo thành lập trường, mở lớp đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo có đủ nhân sự quản lý và tổ chức các hoạt động tôn giáo, đáp ứng nhu cầu tôn giáo của tín đồ. Cả nước hiện có 62 cơ sở đào tạo tôn giáo đặt tại 38 tỉnh, thành phố. Trong 3 năm thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo các tổ chức tôn giáo, tổ chức trực thuộc đã mở 477 lớp bồi dưỡng cho những người chuyên hoạt động tôn giáo, 230 lớp cho những người không chuyên hoạt động tôn giáo. Tính đến tháng 12/2022, cả nước có trên 54 nghìn chức sắc, trên 135 nghìn chức việc, đáp ứng ngày một tốt nhu cầu tôn giáo của tín đồ và lựa chọn nhân sự lãnh đạo giáo hội qua việc tổ chức thành công các đại hội nhiệm kỳ.
Như vậy, việc cấp đăng ký hoạt động, công nhận tổ chức đối với các tôn giáo đủ điều kiện vừa phản ánh sự quan tâm của Việt Nam trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền tự do lựa chọn đức tin, tổ chức tôn giáo hợp pháp, đảm bảo quyền bình đẳng giữa các tôn giáo trong một đất nước đa tôn giáo, vừa tạo thuận lợi trong xác lập quan hệ giữa các tôn giáo và công tác quản lý hoạt động tôn giáo.
Thứ hai, trong công tác hướng dẫn, quản lý hoạt động tôn giáo
Hoạt động tôn giáo được chính quyền các cấp quan tâm hướng dẫn thực hiện theo quy định của pháp luật, phù hợp với hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo. Nhiều hoạt động tôn giáo được tổ chức với quy mô lớn, trang trọng, thu hút đông đảo chức sắc, tín đồ trong và ngoài nước tham gia như: Lễ Phật Đản, Lễ Vu Lan, Lễ Giáng Sinh, Lễ Phục Sinh, Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, lễ kỷ niệm ngày khai đạo của các tôn giáo, Lễ Hội Kate, Tháng Ramadan... Nhiều hoạt động tôn giáo mang tính quốc tế như: Đại lễ Vesak Liên Hợp quốc của Phật giáo mà Việt Nam đã 3 lần đăng cai tổ chức thành công (2008, 2014, 2019), Năm Thánh 2010 của Giáo hội Công giáo, Hội nghị toàn thể Liên Hội đồng Giám mục Á châu lần thứ X (năm 2012), các kỳ Đại hội hành hương La Vang (Quảng Trị)... Tin lành tổ chức Đại lễ Kỷ niệm 100 năm Tin lành truyền đến Việt Nam (năm 2011), 500 năm cải chánh Tin lành; Cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam tổ chức lễ kỷ niệm 200 năm Giáng sinh Giáo chủ Baha’u’llah... Các lễ hội, sự kiện tôn giáo không chỉ thu hút chức sắc, nhà tu hành trong, ngoài nước mà còn các học giả, chính khách các nước tham gia và được dư luận trong, ngoài nước quan tâm đánh giá cao.
Việc hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo tổ chức thành công các sự kiện tôn giáo quốc tế không chỉ khẳng định Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách tự do tôn giáo, quan tâm đến sinh hoạt tôn giáo của người dân mà còn góp phần quảng bá hình ảnh một nước Việt Nam đủ năng lực đăng cai, tổ chức các sự kiện quốc tế, khẳng định môi trường an ninh tốt, một môi trường văn hóa - tâm linh lành mạnh và điểm đến hấp dẫn cả trong đầu tư và du lịch tâm linh, cũng là cơ sở để đấu tranh bảo vệ nhân quyền của Việt Nam.
Thứ ba, trong hoạt động quan hệ quốc tế liên quan đến tôn giáo
Hoạt động quan hệ quốc tế là một trong những hoạt động quan trọng và thường xuyên của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam, cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác hướng dẫn, quản lý nhà nước về tôn giáo. Các hoạt động đối ngoại diễn ra ở nhiều lĩnh vực, từ đào tạo, hội nghị, hội thảo đến việc chia sẻ kinh nghiệm cũng như vấn đề truyền giáo... Số lượng đoàn ra, đoàn vào nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo luôn tăng và được đảm bảo theo quy định. Trong 6 tháng đầu năm 2023, Ban Tôn giáo Chính phủ đã giải quyết cho 18 đoàn ra với số lượng là 72 người, 28 đoàn (138 người) vào Việt Nam hoạt động tôn giáo, 26 khách nước ngoài gia hạn visa để hoạt động tôn giáo4. Các tổ chức tôn giáo tích cực tham gia các hội nghị diễn đàn tôn giáo khu vực và quốc tế như: đối thoại liên tín ngưỡng Á - Âu (Asem), đối thoại liên tín ngưỡng khu vực Châu Á - Thái Bình Dương...
Công tác đối ngoại của ngành quản lý nhà nước về tôn giáo cũng đã góp phần quan trọng trong công tác tôn giáo và công tác đảm bảo nhân quyền của Việt Nam. Hằng năm, Bộ Nội vụ (Ban Tôn giáo Chính phủ) đã chủ động tiếp xúc với các đoàn khách, tổ chức quốc tế, Đại sứ quán các nước đến tìm hiểu về tình hình, chính sách pháp luật của Nhà nước về tôn giáo; duy trì quan hệ đối thoại với Mỹ, một số nước phương Tây, khối Ả Rập về công tác đối với Hồi giáo phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế; thúc đẩy quan hệ hợp tác với Lào và Campuchia trong lĩnh vực tôn giáo; duy trì, phát triển và nâng cấp quan hệ Việt Nam - Tòa thánh Vatican, thông qua các chuyến thăm và làm việc giữa hai bên. Năm 2023, Ban Tôn giáo Chính phủ đã công bố “Sách trắng”; cung cấp thông tin về thành tựu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam; phản bác thông tin không đúng về tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Trong 6 tháng đầu năm 2023 Lãnh đạo Bộ Nội vụ tiếp 10 đoàn đến tìm hiểu về tình hình tôn giáo, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo.
Hoạt động đối ngoại liên quan đến tôn giáo của cá nhân, tổ chức tôn giáo và cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo của Việt Nam vừa đáp ứng nhu cầu mở rộng quan hệ quốc tế, vừa tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức tôn giáo nâng cao vai trò, vị thế trong hoạt động quốc tế. Hoạt động trên còn tạo điều kiện để các tổ chức nước ngoài hiểu hơn về tình hình tôn giáo, đất nước con người Việt Nam, góp phần thúc đẩy công tác đảm bảo nhân quyền của Việt Nam. Đồng thời hạn chế những luận điệu xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các đối tượng cực đoan, chống đối trong và ngoài nước.
Thứ tư, trong công tác vận động cá nhân, tổ chức tôn giáo tham gia đóng góp vào các hoạt động xã hội
Thành tựu đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam đã thúc đẩy và tạo đà cho chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tổ chức tôn giáo xây dựng và thực hiện đường hướng hành đạo gắn bó đồng hành cùng dân tộc. Tạo lập mối quan hệ gắn bó giữa Nhà nước và các tổ chức tôn giáo, tạo sự hiểu biết, tin tưởng lẫn nhau giữa cán bộ các cấp và chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn giáo, tạo sự đồng thuận trong thực hiện chính sách tôn giáo và chính sách xã hội. Phát huy giá trị đạo đức, văn hóa và nguồn lực của tôn giáo vào việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời đấu tranh với các hoạt động lợi dụng tôn giáo chia rẽ đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc, xử lý những hoạt động tôn giáo mang màu sắc mê tín, trục lợi.
Thông qua công tác tôn giáo đã vận động cá nhân, tổ chức tôn giáo tích cực tham gia vào các cuộc vận động thi đua yêu nước ở địa phương, thực hiện tốt các hoạt động an sinh xã hội, góp phần cùng chính quyền địa phương chăm lo cho một bộ phận người dân có hoàn cảnh khó khăn, trực tiếp góp phần giảm tải gánh nặng cho đất nước, cụ thể:
(1) Trong lĩnh vực giáo dục, cả nước có 270 trường mầm non, khoảng 2000 nhóm, lớp mầm non độc lập do các cá nhân tôn giáo thành lập, huy động khoảng 125.594 trẻ đến trường/lớp, chiếm 3,06% so với tổng số trẻ đến trường mầm non trên toàn quốc. Các tổ chức tôn giáo đã thành lập 12 cơ sở dạy nghề trong cả nước, đào tạo hệ cao đẳng, trung cấp và dạy nghề ngắn hạn cho hàng nghìn người.
(2) Trong lĩnh vực y tế và bảo trợ xã hội, với tinh thần bác ái, các tôn giáo thể hiện rõ ảnh hưởng thông qua việc khám chữa bệnh và phát thuốc miễn phí, mở phòng khám từ thiện, xây dựng hệ thống xe cứu thương chuyên chở người bệnh. Nâng cao nhận thức cho tín đồ trong việc tổ chức cuộc sống hợp vệ sinh, phòng tránh bệnh tật, đến bệnh viện khi bị bệnh, dùng thuốc thay vì thực hành các hoạt động mê tín, khuyên bảo người dân loại bỏ các hủ tục ảnh hưởng đến sức khỏe. Nhiều tổ chức tôn giáo đã phối hợp tổ chức các đoàn khám chữa bệnh lưu động, phát thuốc miễn phí cho người nghèo, người dân vùng dân tộc thiểu số. Cả nước hiện có 113 cơ sở trợ giúp xã hội thuộc các tổ chức tôn giáo đã được chính quyền cấp giấy phép hoạt động đang chăm sóc, nuôi dưỡng 11.800 người có hoàn cảnh khó khăn. Trong cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, “Quỹ vì người nghèo”, các tôn giáo đã rất tích cực tham gia với tổng kinh phí hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm, đặc biệt là trong những năm đại dịch Covid - 19. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tổ chức tôn giáo tích cực tham gia đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, thành viên của các tổ chức chính trị - xã hội, qua đó phát huy vai trò của khối tôn giáo trong xây dựng và phát triển đất nước, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh trong vùng đồng bào có đạo, ngăn chặn việc lợi dụng, kích động tôn giáo để chia rẽ dân tộc, tôn giáo của các thế lực xấu.
Thành quả đổi mới đất nước của Việt Nam luôn gắn với việc bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Quyền này không những được quy định trong các văn bản quan trọng của Đảng, Nhà nước mà còn được thể hiện sống động trong đời sống tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo được bảo đảm hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ, xây dựng đường hướng hành đạo tích cực; được tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động an sinh xã hội. Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo đang có nhiều biến đổi sâu sắc, các tôn giáo đều tăng về số lượng và quy mô hoạt động cả trong nước và quốc tế. Đại bộ phận chức sắc, tín đồ các tôn giáo tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ủng hộ sự nghiệp đổi mới của đất nước, đóng góp quan trọng vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, để việc bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo tốt hơn đòi hỏi sự tham gia tích cực, nghiêm túc của mọi người, của cá nhân, tổ chức tôn giáo, cơ quan quản lý các cấp. Việc chủ động tiềm hiểu và nghiên cứu để có nhận thức đầy đủ từ chủ trương, chính sách đến thực tiễn và chủ động thực hiện đúng, nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là hết sức cần thiết trong tình hình hiện nay.
TS. Vũ Chiến Thắng
Thứ trưởng Bộ Nội vụ
TS. Lê Thị Liên
Viện trưởng Viện nghiên cứu chính sách tôn giáo, Ban Tôn giáo Chính phủ
Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 6 (35) - 2023
---
Tài liệu trích dẫn
(1) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
(2) Nghị quyết số 24/NQ-TW, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”.
(3) Nghị quyết số 25-NQ/2003/TW, ngày 12/3/2003 “Về công tác tôn giáo”.
(4) Tổng hợp số liệu của Ban Tôn giáo Chính phủ 6 tháng đầu năm 2023.