Bài viết phân tích làm rõ về sự tham gia tích cực của Việt Nam vào các Điều ước quốc tế về quyền con người và quyền của người lao động. Đồng thời, bài viết phân tích bối cảnh và những yêu cầu mới đặt ra trong việc tiếp tục tham gia vào các Điều ước quốc tế về quyền con người và quyền của người lao động.Từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động ký kết, phê chuẩn, gia nhập và thực thi các điều ước quốc tế về quyền con người cho Việt Nam trong giai đoạn tới

1. Sự tham gia tích cực của Việt Nam vào các Điều ước quốc tế về quyền con người và quyền của người lao động

Việc coi trọng con người và tôn trọng các giá trị cốt lõi của quyền con người như: nhân phẩm, tự do, bình đẳng và không phân biệt đối xử, để giải phóng toàn diện con người là những mục tiêu cao đẹp mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới. Chính vì vậy, việc Việt Nam tham gia vào các điều ước quốc tế về quyền con người không chỉ là sự cam kết của nước ta với các vấn đề toàn cầu mà còn là phương thức hiệu quả để hiện thực hoá các quyền con người một cách tốt nhất, đảm bảo để người dân được thụ hưởng đầy đủ một cách tốt nhất các quyền con người của chính mình.

Là thành viên của Liên hợp quốc từ năm 1977, Việt Nam đã ký kết và phê chuẩn nhiều điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người, bao gồm 7/9 Công ước quốc tế quan trọng:  “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) – phê chuẩn năm 1982; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) – phê chuẩn năm 1982; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) – phê chuẩn năm 1982; Công ước về quyền trẻ em (CRC) – phê chuẩn năm 1990; Công ước về xóa bỏ phân biệt chủng tộc (ICERD) – phê chuẩn năm 1982; Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD) – phê chuẩn năm 2015; Công ước chống tra tấn (CAT) – phê chuẩn năm 2015”[1]

 Việt Nam là thành viên của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) từ năm 1992 và đã phê chuẩn nhiều công ước của ILO với tổng số 25 Công ước [2], trong đó có 9/10 công ước cốt lõi và hiện còn 54 công ước chưa được phê chuẩn. Trong những năm qua, một mặt thể hiện rõ sự tận tâm với việc thực hiện các cam kết quốc tế, mặt khác để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người nói chung và quyền của người lao động ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn tích cực, chủ động trong việc nội luật hóa các cam kết quốc tế về quyền con người và hiện thực hoá trong thực tiễn.

Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người. Việc ban hành Hiến pháp 2013 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý về quyền con người tại Việt Nam, trong đó đặc biệt là việc hoàn chỉnh Chương II: Quyền con người và quyền công dân. Trên tinh thần đó, nhiều văn bản pháp luật quan trọng đã được sửa đổi bổ sung tiếp tục cụ thể hóa và bảo đảm việc thực thi các quyền này trong thực tiễn.Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định:“1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.

Trên tinh thần của Hiến pháp năm 2013 cho thấy, hệ thống pháp luật Việt Nam đã không ngừng được xây dựng và hoàn thiện để bảo vệ ngày càng tốt hơn các quyền con người với sự ra đời và sửa đổi bổ sung nhiều văn bản pháp luật quan trọng trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá. Cụ thể,  luật quy định về các quyền dân sự, chính trị có những văn bản quan trọng như Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Luật Hộ tịch năm 2014, Luật Quốc tịch Việt Nam sửa đổi năm 2014, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022, Luật bình đẳng giới năm 2006, Luật Tiếp công dân năm 2013, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016…

Pháp luật Việt Nam tiếp tục củng cố việc bảo vệ các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá thông qua nhiều văn bản pháp luật quan trọng. Điển hình là Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Giáo dục năm 2019, Luật Giáo dục nghề nghiệp 2019 và Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân năm 1989.Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đặc biệt chú trọng bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương hay còn gọi là những đối tượng bị tổn thương "kép", như người cao tuổi, trẻ em, phụ nữ. Sự quan tâm này còn được thể hiện rõ nét trong các luật chuyên biệt như Luật Trẻ em năm 2016, Luật Người cao tuổi năm 2009, Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2022, Luật Bình đẳng giới năm 2006. Những văn bản này góp phần tạo lập một khuôn khổ pháp lý toàn diện, đảm bảo mọi công dân đều được thụ hưởng đầy đủ các quyền của mình.

Hai là, ban hành nhiều chính sách để các quyền con người được thực hiện trong các lĩnh vực dân sự, kinh tế, xã hội, văn hoá. Trong thời gian gần đây, ngoài việc hoàn thiện khung pháp luật, Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách quan trọng để hiện thực hóa quyền con người trong các lĩnh vực dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa. Gần đây, Nhà nước đặc biệt chú trọng bảo vệ và thúc đẩy quyền con người thông qua nhiều chính sách cụ thể, đặc biệt ưu tiên các nhóm dễ bị tổn thương. Trong đó nổi bật như: (1) Chiến lược quốc gia về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2020-2030; (2)Chiến lược quốc gia về chống biến đổi khí hậu đến năm 2050...(3) Chính sách xoá đói giảm nghèo qua một số giai đoạn , gần đây từ 2016-2020 Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững với nhiều dự án như Chương trình 30a, Chương trình 135 và các dự sán hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hoá sinh kế, đào tạo nghề; giai đoạn 2021- 2025 chính sách xoá đói giảm nghèo tiếp tục thực hiện mục tiêu Giảm nghèo bền vững với kinh phí tối thiểu 75.000 tỉ đồng; 4/Chính sách xoá nhà tạm nhà dột nát được đưa ra theo Quyết định 1234/QĐ-TTg ngày 9/4/2024 và sẽ cơ bản hoàn thành vào 31/10/2025; (4)Chính sách trợ giúp pháp lý cho các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương đã được triển khai mạnh mẽ, bảo đảm quyền tiếp cận công lý; (5)Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 gồm 10 dự án lớn như quy hoạch dân cư, tạo sinh tế ổn định, phát triển nguồn nhân lực và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá...

Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc giáo dục nâng cao nhận thức về quyền con người, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định 1309/QĐ-TTg ngày 05-09-2017 phê duyệt Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân.Tiếp nối nỗ lực này, ngày 14/9/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1079/QĐ-TTg về triển khai Đề án truyền thông về quyền con người ở Việt Nam với 3 nội dung chính là phổ biến, giáo dục kiến thức về quyền con người; tuyên truyền về các nỗ lực và thành tựu bảo đảm quyền con người; giải thích, làm rõ, phản bác các thông tin sai lệch, xuyên tạc về tình hình quyền con người ở Việt Nam. Những quyết định này khẳng định cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc xây dựng một xã hội đề cao và thực thi quyền con người thông qua giáo dục và truyền thông hiệu quả.

Ba là, triển khai các khuyến nghị của Cơ chế UPR mà Việt Nam chấp thuận. Tại chu kỳ II của Cơ chế UPR năm 2014, Việt Nam đã chấp thuận 182/227 khuyến nghị; chu kỳ III năm 2019, Việt Nam chấp thuận 241/291 khuyến nghị và đang ký Kế hoạch chấp thuận 271/320 khuyến nghị chu kỳ các nước đưa ra. “Hiện Việt Nam đang đảm nhiệm vị trí thành viên Hội đồng nhân quyền nhiệm kỳ 2023 – 2025 với 8 ưu tiên lớn trong các lĩnh vực: (i) Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân quyền gắn với đề cao luật pháp quốc tế; (ii) Quyền con người trong bối cảnh biến đổi khí hậu; (iii) Chống bạo lực và phân biệt đối xử, tăng cường bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương; (iv) Thúc đẩy bình đẳng giới; (v) Quyền con người trong bối cảnh chuyển đổi số; (vi) Quyền sức khỏe; (vii) Quyền việc làm; (viii) Quyền tiếp cận giáo dục chất lượng và giáo dục quyền con người”[3]Bên cạnh đó, "ở cấp độ song phương, Việt Nam tiếp tục tiến hành các cuộc trao đổi, đối thoại, tham vấn về nhân quyền, lao động với các đối tác nhằm chia sẻ quan điểm, lập trường, tìm kiếm cơ hội hợp tác trong các lĩnh vực cùng quan tâm"[4]

Mặc dù có nhiều thành tựu to lớn, song việc thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người ở Việt Nam vẫn còn có những hạn chế nhất định như việc thiếu một hệ thống pháp luật toàn diện về quyền con người có sự tương thích với pháp luật quốc tế; thiếu bộ máy chuyên trách hoạt động hiệu quả trong việc bảo đảm các quyền con người, thiếu hệ thống cơ sở vật chất, tài chính để thực thi quyền trên thực tiễn, đặc biệt là quyền của nhóm người khuyết tật, người cao tuổi, người dân tộc thiểu số... Chẳng hạn như vấn đề việc làm của người cao tuổi trong bối cảnh già hoá dân số [5], việc làm của người khuyết tật trong bối cảnh kỹ thuật số [6]; và những đòi hỏi về xây dựng một văn bản luật thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa sự đa dạng của dân tộc thiểu số ở Việt Nam[7]

2. Bối cảnh mới những yêu cầu mới trong việc tiếp tục tham gia vào các Điều ước quốc tế về quyền con người và quyền của người lao động

a) Bối cảnh thế giới

Về chính trị, hòa bình, hợp tác, phát triển là vấn đề quan trọng của hầu hết quốc gia trên thế giới. Liên hợp quốc khẳng định mục tiêu cao cả “Peace, dignity and equaltity on a healthy planet”- hoà bình, phẩm giá và bình đẳng trên một hành tinh khoẻ mạnh[8]. Mặc dù đây là xu thế chung của nhân loại, song thế giới vẫn đang đối mặt với nhiều vấn đề tiềm ẩn nguy cơ tác động tiêu cực đến môi trường kinh tế, chính trị, an ninh như tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, tài nguyên, xung đột tôn giáo, sắc tộc, hoạt động khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng… đe dọa nền hòa bình của các quốc gia, dân tộc.

Về kinh tế: nền kinh tế thế giới hiện đang đối mặt với nhiều bất ổn, dùđược đánh giá là tăng trưởng ổn định nhưng với tốc độ yếu [9]. Các nguy cơ đáng kể bao gồm gián đoạn chuỗi cung ứng, biến động trênthị trường năng lượng toàn cầu và nguy cơ xung đột thương mại có thể trở thành chiến tranh thương mại trên phạm vi toàn cầu.

Về an ninh con người: từ đầu thế kỷ 21 đến nay, các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đã gặp phải nhiều vấn đề toàn cầu phức tạp về an ninh con người như khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, phổ biến vũ khí hủy diệt, thảm họa thiên tai, thảm họa môi trường sinh thái, đói nghèo, dịch bệnh, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh mạng. Đặc biệt là sự cạn kiệt tài nguyên, nhất là năng lượng và nguồn nước đang là thách thức rất nghiêm trọng đến an ninh và phát triển của nhiều quốc gia, nhiều khu vực.

Về tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Một mặt, những ứng dụng của cuộc Cách mạng công nghiệp này là các công cụ giúp cho việc mở rộng ghi nhận, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người... trong đó có những quyền như quyền chăm sóc sức khoẻ, quyền lao động, quyền học tập... Mặt khác, những ứng dụng mới của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra hàng loạt thách thức mới đối với việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trên nhiều lĩnh vực"[10], trong đó có những lĩnh vực như việc làm, quyền riêng tư.

Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. ít nhiều đang trực tiếp ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền việc làm của người lao động ở Việt Nam.

Nguồn: TTXVN

 b) Bối cảnh trong nước

Trong thời gian qua, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều đột phá căn bản.

Trước hết là cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy đã và đang diễn ra hướng tới mục tiêu hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đồng thời cũng đặt ra nhiều yêu cầu mới trong việc thực thi các quyền con người trên thực tế phải được thực hiện nhanh gọn hơn, đồng bộ hơn với khối lượng nhân sự ít hơnThứ hai là, chuyển đổi số là yêu cầu tiếp theo được đặt ra, để theo kịp bước phát triển công nghệ toàn cầu, Nghị quyết Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã được ban hành. Tiếp theo đó, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân thể hiện tư duy đổi mới mạnh mẽ và cơ hội thúc đẩy vai trò vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân và khẳng định quan điểm không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế lên một tầm cao mới. Quán triệt Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng “thương trường là chiến trường", cần tạo động lực, truyền cảm hứng cho các thương nhân - chiến sĩ trên mặt trận kinh tế và phát động phong trào toàn dân thi đua làm giàu trên phạm vi cả nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"[11]

Trong việc tiếp tục tham gia vào các Điều ước quốc tế về quyền con người và quyền của người lao động, cần chú ý vào 3 nguyên tắc lớn: Một là, tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ độc lập dân tộc, không thể đánh đổi độc lập dân tộc để lấy bất cứ giá trị lợi ích nào khác. Các tổ chức khủng bố, bạo động ẩn danh dưới các tổ chức "công đoàn độc lập", ẩn danh tổ chức tôn giáo, có những hoạt động xâm phạm đến an ninh quốc gia thì cần phải xử lý và không thể cho phép hoạt động. Hai là, thay đổi nhận thức và tư duy về tiếp cận dựa trên quyền đối với các chủ thể quyền con người. Cần chuyển đổi tư duy tiếp cận đối với người khuyết tật: thay vì chỉ dựa vào góc độtừ thiện hay y tế chúng ta cần  mạnh mẽ hơntrong việc tiếp cận dựa trên quyền. Điều này khẳng định người khuyết tật là chủ thể của quyền, họ cũng là những người bình thường trong cộng đồng, có khả năng tham gia độc lập vào đời sống như những người khác. Cần thay đổi tư duy về quyền của người cao tuổi, đặc biệt là vấn đề quyền được làm việc của họ, không giữ tư duy đóng là người cao tuổi thì chỉ cần nghỉ ngơi trong khi Việt Nam đang đối mặtvới bối cảnh già hoá dân số. Cần thay đổi tư duy về sự tôn trọng và cởi mở với nhóm LGBT+ ở Việt Nam, để tương thích với quan điểm pháp luật quốc tế và pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới về sự thừa nhận nhóm LGBT+ là nhóm dễ bị tổn thương [12], xoá bỏ nhận thức LGBT+ là tình trạng bệnh lý.Qua đó hướng tới sự bình đẳng, không phân biệt đối xử với mọi thành viên trong cộng đồng, phát huy mọi nguồn lực trong đó có nguồn lực con người một cách mạnh mẽ để đưa đất nước vào kỷ nguyên  mới.

3. Một số đề xuất trong hoạt động ký kết, phê chuẩn, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người của Việt Nam

Trước bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thuận lợi, thách thức mới, việc nhận diện các yêu cầu và xu hướng mới cần được xem xét trong hoạt động ký kết, phê chuẩn, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người là yêu cầu tất yếu khách quan được đặt ra.

Một là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật và chính sách, nâng cao năng lực thể chế để thực thi quyền con người.

Hoàn thiện pháp luật xoá bỏ toàn diện mọi sự phân biệt đối xử, phát huy sức mạnh của tất cả các nhóm chủ thể trong đó có nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, tạo cơ hội để thúc đẩy quyền và khả năng tham gia thị trường lao động, phát triển kinh tế tư nhân. Điều đó một mặt là nhằm phát huy nội lực quốc gia dựa trên nguồn nhân lực, mặt khác là tiếp tục thực thi các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia. Đồng thời cần hoàn thiện các văn bản pháp luật hiện hành: hướng tới cụ thể hoá, làm rõ các hành vi phân biệt đối xử về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp trong thực hiện quyền, nghĩa vụ của con người trong Luật Người cao tuổi 2009, Luật trẻ em 2016, Luật Thanh niên 2020. Với nhóm LGBT +: ban hành hướng dẫn Điều 37, 38 trong Bộ Luật Dân sự 2015, xây dựng và thông qua Luật chuyển đổi giới tính. Tiếp tục xem xét xây dựng Luật Dân tộc trong đó cần lưu ý đến nhóm dễ bị tổn thương kép là phụ nữ dân tộc thiểu số, trẻ em dân tộc thiểu số, người cao tuổi là người dân tộc thiểu số, người khuyết tật là người dân tộc thiểu số trong các chính sách phát triển của quốc gia [13]

Hoàn thiện pháp luật liên quan đến phát triển công nghệ có tiếp cận dựa trên quyền con người với các nhóm dễ bị tổn thương, trong đó có các quy định về quyền tiếp cận thông tin, quyền riêng tư, quyền sở hữu, quyền làm việc để bảo đảm những nhóm dễ bị tổn thương có khả năng và cơ hội phát triển trong kinh tế số. Bên cạnh đó, cần tiếp tục quan tâm đến việc thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia, thúc đẩy giáo dục quyền con người cho cán bộ tư pháp, công an, cán bộ công chức, chủ doanh nghiệp về quyền con người và kinh doanh có trách nhiệm đồng thời tăng cường cơ chế thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm.

Hai là, đề xuất ý tưởng xây dựng hoặc thúc đẩy ý tưởng cho sự ra đời của 1 công ước quốc tế mới. Theo cơ chế hoạt động của Liên hợp quốc, các quốc gia thành viên có quyền đề xuất các sáng kiến mới; tham gia nhóm làm việc hoặc liên minh khu vực để vận động hình thành một công ước quốc tế mới; trình dự thảo nghị quyết hoặc kiến nghị lên Đại hội đồng hoặc Ủy ban Pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc. Bên cạnh đó, với tư cách là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (HRC), Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ của thành viên Hội đồng, trong đó có nhiệm vụ khuyến nghị về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Vì vậy, Việt Nam hoàn toàn có thể đề xuất hoặc thúc đẩy những ý tưởng mới nhằm phát triển các công ước quốc tế.

Một số văn kiện về quyền con người mà Việt Nam có thể đóng góp ý kiến xây dựng:

Công ước quốc tế về quyền của người cao tuổi: Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn “già hoá dân số” từ năm 2011. Theo số liệu của Cơ sở dữ liệu dân cư, Bộ Công an, năm 2023, Việt Nam có hơn 16,1 triệu người cao tuổi (từ đủ 60 tuổi trở lên), chiếm khoảng 16% tổng dân số. Dự báo đến năm 2036, nước ta sẽ kết thúc quá trình già hoá dân số, chính thức trở thành nước có dân số già. Người cao tuổi sẽ chiếm 20% tổng dân số, với khoảng 22 triệu người. Trước đó, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến chính sách về người cao tuổi thể hiện ở sự ra đời của nhiều văn bản: Ban Bí thư (khoá VII) ban hành Chỉ thị số 59-CT/TƯ, ngày 27/9/1995 về chăm sóc người cao tuổi, văn bản này đang được xem xét ban hành mới phù hợp với thực tế. Quốc hội ban hành Luật Người cao tuổi năm 2009, luật này cũng đang được nghiên cứu sửa đổi bổ sung. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1781/QĐ-TTg, ngày 22/11/2012 phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi, giai đoạn 2012-2020; Quyết định 2156/QĐ-TTg, ngày 21/12/2021 phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi, giai đoạn 2021-2030; Quyết định 1579/QĐ-TTg, ngày 13/10/2020 phê duyệt Chương trình chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi đến năm 2030... Việt Nam chủ động hoàn thiện khung pháp lý và chính sách để ứng phó với quá trình già hoá dân số nhanh chóng. Cụ thể, Nhà nước đang quan tâm tới việc bổ sung, sửa đổi Luật Việc làm 2014, nghiên cứu ban hành Luật Dân số và xem xét tới việc nghiên cứu xây dựng chiến lược Chiến lược Quốc gia Người cao tuổiVới năng lực hiện có vànhu cầu thực tiễn trong nước và cùng với xu hướng chung của nhiều quốc gia, việc Việt Nam  lên tiếng để thúc đẩy ý tưởng về việc ra đời Công ước quốc tế về quyền của người cao tuổi là một hoạt động cần thiết và hoàn toàn khả thi.

Công ước về quyền của người thuộc cộng đồng LGBT+: Việt Nam đã có nhiều nỗ lực và thể hiện khả năng tích cực trong việc thúc đẩy quyền của nhóm người đồng tính, song tính, chuyển giới và các nhóm đa dạng giới (LGBT+). Trong nước, các quy định pháp luật của Việt Nam đã có những bước tiến trong việc bảo vệ quyền của người thuộc cộng đồng LGBT+. Cụ thể là Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi năm 2014 đã chính thức bỏ điều cấm hôn nhân đồng giới, dù chưa công nhận. Bộ luật Dân sự năm 2015 mở đường cho quyền của người chuyển giới bằng việc ghi nhận quyền xác định lại giới tính tại Điều 37,38. Luật chuyển đổi giới tính được Quốc hội đưa vào chương trình xây dựng luật. Điều đó, cho thấy Việt Nam sẵn sàng đối thoại và xây dựng khung pháp lý đảm bảo quyền của người thuộc cộng đồng LGBT+. Với năng lực, nhu cầu và thực tiễn Việt Nam, việc lên tiếng để đề xuất ý tưởng cho sự ra đời Công ước quốc tế về quyền của người thuộc cộng đồng LGBT+ là một hoạt động cần thiết và khả thi.  

Ba là, gia nhập các công ước quốc tế về quyền con người và quyền của người lao động không chỉ là nghĩa vụ quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế mà còn là việc thực hiện các mục tiêu quốc gia quan trọng để bảo vệ quyền của người dân, quyền của người lao động.

Xem xét gia nhập Công ước số 87 (1948) của ILO: Hiện nay, gia nhập Công ước số 87 là yêu cầu để đáp ứng được điều kiện của các FTA thế hệ mới (EVFTA, CPTPP), theo đó, Việt Nam sẽ nhận được nhiều cơi hội ưu đãi để phát triển kinh tế. Đồng thời đó cũng là xu hướng tất yếu phải hoàn thiện và hội nhập theo hướng đảm bảo quyền lợi cho chính người lao động Việt Nam. Trên thực tế, mặc dù chưa gia nhập nhưng Bộ luật Lao động 2019 đã ghi nhận những nội dung của Công ước số 87, trong đó có sự ra đời của tổ chức đại diện cho người lao động tại cơ sở. Một thách thức cần giải quyết là nguy cơ hoạt động của các tổ chức này có thể biến tướng gây ra bất ổn về chính trị, tác động tới an ninh quốc gia. Vì vậy, đòi hỏi phải chuẩn bị nền tảng vững chắc cho việc tham gia công ước với nhiều phương hướng, giải pháp, trong đó có việc nâng cao nhận thức về quyền và trách nhiệm của người lao động cũng như nghĩa vụ của người sử dụng lao động; nâng cao hiệu quả hoạt động của Công đoàn Việt Nam với tư cách là người bảo vệ quyền lợi của người lao động và cũng là tổ chức chính trị - xã hội quan trọng; hoàn thiện pháp luật trong đó có quy định cụ thể và rõ ràng về điều kiện thành lập, hoạt động, giải thể của các tổ chức đại diện cho người lao động tại cơ sở đồng thời thực hiện cơ chế giám sát 2 chiều từ người lao động và nhà nước.

Xem xét gia nhập Công ước số 190 về chấm dứt bạo lực và quấy rối trong môi trường làm việc (2019) của ILO. Nhận diện rõ vai trò của việc xoá bỏ bạo lực và quấy rối trong môi trường làm việc, Bộ luật Lao động 2019 đã có những quy định tương thích với Công ước số 190 này. Việc gia nhập Công ước này sẽ đáp ứng những điều khoản về lao động của các hiệp định thương mại thế hệ mới, đồng thời bảo đảm lợi ích lâu dài của quốc gia cũng như của người lao động. Nền tảng mà Việt Nam cần chuẩn bị để đáp ứng khả năng phê chuẩn Công ước này trước hết là thay đổi tư duy của doanh nghiệp, theo đó xây dựng doanh nghiệp đáp ứng theo Hướng dẫn Liên hợp quốc về kinh doanh và quyền con người (UNGP), theo đó bên cạnh vai trò nhà nước là chủ thể có “nghĩa vụ” (duty) chính trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người thì doanh nghiệp có “trách nhiệm” (responsiblity) là tôn trọng quyền con người. Điều này đòi hỏi phải nâng cao năng lực của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc phát triển kinh tế tư nhân không chỉ đòi hỏi nguồn lực tư liệu sản xuất như đất đai hay nguồn vốn mà còn đòi hỏi sự nhận thức về quyền con người của doanh nghiệp, văn hoá của cộng đồng đối với vấn đề bạo lực và quấy rối trong môi trường làm việc. Do đó, để đáp ứng việc gia nhập Công ước số 190 về bạo lực và quấy rối trong môi trường làm việc đồng thời để mọi thành phần kinh tế có khả năng phát triển, đóng góp vào xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay, cần có sự hỗ trợ nâng cao năng lực và nhận thức từ Nhà nước đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân.

TS. Trần Thị Hồng Hạnh

Viện Quyền con người, HVCTQG Hồ Chí Minh

---

Tài liệu trích dẫn

  1. https://tbinternet.ohchr.org/layouts/15/TreatyBodyExternal/countries.aspx?CountryCode=VNM&Lang=EN

    2. https://normlex.ilo.org/dyn/nrmlx_en/f?p=NORMLEXPUB:11200:0::NO::p11200_country_id:103004

    3. Báo cáo UPR chu kỳ IV năm 2024, Đoạn 37

    4. Báo cáo UPR chu kỳ IV năm 2024

    5. Phạm Việt Dũng, Tạo việc làm cho người cao tuổi trong bối cảnh hiện; https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/870902/tao-viec-lam-cho-nguoi-cao-tuoi-trong-boi-canh-hien-nay.aspx

    6. Trần Thị Hồng Hạnh, Quyền của người khuyết tật trong phát triển kinh tế số ở Việt Nam, Tạp chí Luật học ISSN 0868 - 3522 Số 12(283), tháng 12/2023 Năm thứ XXIX

    7 Một số khó khăn, bất cập trong thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Kon Tum - Đề xuất giải pháp khắc phục, https://www.sodantocvatongiao.kontum.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/Mot-so-kho-khan,-bat-cap-trong-thuc-hien-chinh-sach-dan-toc-tren-dia-ban-tinh-Kon-Tum--De-xuat-giai-phap-khac-phuc-2669

    8. Peace, dignity and equaltity on a healthy planet, Tài liệu có tại: https://www.un.org/en/? Truy cập ngày 20/5/2025

    9. Báo cáo: Growth Stabilizing But at a Weak Pace, Tài liệu có tại: https://www.worldbank.org/en/news/video/2024/06/11/global-growth-economic-prospects-expert-answers, truy cập ngày 20/5/2025.

    10. Nguyễn Thị Thanh Hải, Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến bảo đảm quyền con người, Tài liệu có tại: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/815807/tac-dong-cua-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-den-bao-dam-quyen-con-nguoi.aspx

    11. Hà Văn, Thủ tướng: Thương trường là chiến trường, cần tạo động lực, truyền cảm hứng cho doanh nhân và phát động toàn dân thi đua làm giàu, Tài liệu có tại: https://baochinhphu.vn/thu-tuong-thuong-truong-la-chien-truong-can-tao-dong-luc-truyen-cam-hung-cho-doanh-nhan-va-phat-dong-toan-dan-thi-dua-lam-giau-102250518104428303.htm

    12. LGBT+ Free and equal NOT Criminalized, Tài liệu có tại: https://www.un.org/en/fight-racism/vulnerable-groups/lgbtqi-plus, truy cập ngày 20/5/2025

    13. Tài liệu có tại dự thảo Luật Hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi; Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 (Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019)..