Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những thành quả quan trọng. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân thụ hưởng” đã được thể chế hóa thành những quy định có tính pháp lý, quy định nghĩa vụ của Nhà nước trước nhân dân và của nhân dân trước Nhà nước, trước xã hội. Từ thực tế cho thấy, việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân vừa là yêu cầu vừa là điều kiện cho việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

1. Một số khái niệm liên quan
Muốn phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, trước hết, chúng ta phải hiểu dân chủ là gì? Về mặt học thuật, lần đầu tiên “dân chủ” được nhắc đến như một thuật ngữ chính trị và được biểu hiện dưới một chế độ chính trị là thời Hy Lạp cổ đại tại thành bang Athens, “dân chủ” tiếng Anh là Democratic xuất phát từ tiếng Hy Lạp tức “quyền lực thuộc về nhân dân”, được thể hiện qua mô hình dân chủ Athens với việc nhân dân tham gia biểu quyết các vấn đề của nhà nước, các quyết định đưa ra trên cơ sở số đông. Dân chủ là một phạm trù lịch sử, biến đổi và phát triển không ngừng cả về nhận thức và thực hành qua các giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người. Dân chủ quyết định mọi hình thái ý thức xã hội, dân chủ do tồn tại xã hội và phương thức sản xuất vật chất của xã hội quyết định. Ở đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng, tự do và quyền con người. Và do đó, dân chủ ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, là một phương thức tồn tại của con người ngay cả khi nhà nước biến mất. 
Ở phương Đông, Nho giáo nguyên thủy sớm đưa ra tư tưởng: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là quý nhất, rồi đến đất nước, cuối cùng mới là vua), đây là tư tưởng rất gần gũi với tư tưởng dân chủ, coi trọng vai trò, vị trí của nhân dân, đưa nhân dân vào vị trí trung tâm của quyền lực chính trị. Tuy nhiên, tư tưởng này dần dần bị tha hóa, biến đổi để phù hợp với quyền lợi của giai cấp thống trị.
Theo Từ điển Tiếng Anh Oxford, “dân chủ” cũng để chỉ một hình thức nhà nước, trong đó mọi thành viên đều tham gia vào việc ra quyết định về các vấn đề của mình, thường bằng cách bỏ phiếu để bầu người đại diện trong quốc hội hoặc thể chế tương tự.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin sử dụng khái niệm dân chủ trên nhiều phương diện khác nhau của xã hội, và thường coi dân chủ là một phương diện tất yếu để con người đạt tới tự do, giải phóng toàn diện những năng lực vốn có của mỗi cá nhân, tức quyền con người được bảo đảm và thực hiện đầy đủ trong thực tế. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhân dân là chủ thể sáng tạo nên lịch sử và cách mạng là sự nghiệp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Quyền lực nhân dân là quyền lực tối cao, là quyền lực gốc trong các xã hội dân chủ. C.Mác viết: “Chủ quyền của nhân dân không phải là cái phát sinh từ chủ quyền của nhà vua, mà ngược lại, chủ quyền của nhà vua dựa trên chủ quyền của nhân dân”1. Chủ quyền nhân dân cũng chính là cơ sở để nhận diện bản chất và nội dung mối quan hệ giữa nhân dân và các thiết chế chính trị được ủy quyền đại diện cho quyền lực của nhân dân trong xã hội dân chủ. Quyền lực nhân dân quyết định phạm vi, mục đích, phương thức sử dụng quyền của các chủ thể đại diện và chịu sự giám sát, kiểm soát của quyền lực nhân dân. Tư cách chủ thể cùng với quyền lực của nhân dân được ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện bằng các hình thức, phương thức phù hợp với đặc điểm của mỗi thể chế. Trong điều kiện thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin đã cảnh báo những người cộng sản và chính đảng của mình rằng: “Một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”2. 
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cách mạng Việt Nam, giá trị cốt lõi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trong hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước kiểu mới tiếp tục là kim chỉ nam của quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở về tư tưởng dân là gốc: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”3.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Thường thức chính trị” (1953), đã viết “dân chủ tức là dân là chủ”. Người chỉ rõ: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ... Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”. Với cách tiếp cận về dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên hai nội dung quan trọng của “dân chủ”. Thứ nhất, dân chủ tồn tại với tư cách là quyền của nhân dân, quyền được làm chủ chính quyền, làm chủ nhà nước, làm chủ chế độ, quyền lựa chọn, xây dựng nên cơ quan dân cử. Thứ hai, dân chủ là một chế độ chính trị, một hình thức nhà nước khi có sự tham gia của tất cả quần chúng nhân dân trong việc xây dựng, điều hành hoạt động của nhà nước, nhà nước đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Như vậy, về mặt khái niệm, giữa “dân chủ” và “quyền làm chủ của nhân dân” có nhiều nội dung tương đồng, song về mặt nội hàm cần làm rõ khái niệm “quyền làm chủ của nhân dân”, từ đó có cách sử dụng chuẩn xác. Dân chủ là một khái niệm rất rộng, vừa để chỉ một quyền của công dân, vừa chỉ một thể chế chính trị, vừa mang ý nghĩa xã hội, văn hóa, dân chủ trong đời sống chính trị, dân chủ trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. “Quyền làm chủ của nhân dân” là một khái niệm rất cụ thể, nội hàm rõ ràng, quyền làm chủ là làm chủ chính quyền nhà nước, quyền tham gia vào các công việc của nhà nước, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước, nhân dân làm chủ vận mệnh của bản thân, làm chủ vận mệnh của đất nước, dân tộc. “Quyền làm chủ của nhân dân” là một khái niệm gắn liền với sự ra đời của nhà nước dân chủ nhân dân. Và trong khuôn khổ bài viết này, sẽ tiếp cận dân chủ dưới góc độ là “quyền làm chủ của nhân dân”. Vậy, trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, cần phải phát huy như thế nào quyền làm chủ của người dân để đóng góp vào quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền? 
Bên cạnh những nhận thức về dân chủ, về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, cần phải hiểu khái niệm về nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền, theo quan điểm của các nhà tư tưởng trong lịch sử nhân loại, là nhà nước bảo đảm tính tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội, trong đó pháp luật phải phản ánh ý chí chung, lợi ích chung của Nhân dân; thực hiện và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của Nhân dân; chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình và yêu cầu công dân thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội; có hình thức tổ chức quyền lực nhà nước thích hợp bảo đảm chủ quyền thuộc về Nhân dân. Tiếp thu các giá trị tích cực, tiến bộ, khoa học về nhà nước pháp quyền trong lịch sử, đồng thời quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật kiểu mới, chúng ta đã vận dụng phù hợp với thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về Nhân dân - là lực lượng chiếm số đông trong xã hội.
Cùng với quá trình phát triển nhận thức lý luận, tổng kết kinh nghiệm xây dựng nhà nước, quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nhĩa ở Việt Nam đã được hình thành và phát triển. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã dành riêng mục XIII  “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” với nội dung: tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực là thống nhất; xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định; Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đảm bảo Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân; Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức, thi hành pháp luật...
Đại hội XIII của Đảng kế thừa và tiếp tục phát triển quan điểm về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN từ các kỳ đại hội trước với đặc trưng vốn có gắn với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Nghị quyết 27, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, một lần nữa đã khẳng định “nhận thức, lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng thống nhất, đầy đủ và sâu sắc hơn”4, và “thống nhất nhận thức về các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.”5.

Đồng bào dân tộc thiểu sốphát huy quyền làm chủ trong kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2021-2026. Nguồn: baodantoc.vn.


2. Thực trạng phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền
Trong thời gian qua, việc thực hiện dân chủ nói chung và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân nói riêng, nhất là trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân đã có những thành quả nhất định. Trước hết, các chủ trương của Đảng đã được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Cụ thể như Hiến pháp năm 2013 - văn bản luật có giá trị pháp lý cao nhất của Việt Nam đã khẳng định rất rõ công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Khoản 2, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh hai nội dung quan trọng: thứ nhất, nhà nước ta do nhân dân làm chủ; thứ hai, với việc thừa nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Hiến pháp đã nhấn mạnh vị trí của nhân dân là người nắm giữ quyền lực nhà nước. Quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước được thực hiện thông qua các nội dung sau:
Thứ nhất, nhân dân tham gia xây dựng chính quyền nhà nước thông qua dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Thứ hai, nhân dân tham gia xây dựng pháp luật và thực hiện các chủ trương, chính sách của nhà nước.
Thứ ba, nhân dân tham gia quyết định các vấn đề lớn của đất nước.  
Thứ tư, nhân dân giám sát hoạt động quản lý nhà nước và phản biện xã hội.
Mặt khác, Hiến pháp năm 2013 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý để ban hành các đạo luật quan trọng về mở rộng và phát huy dân chủ trực tiếp. Đặc biệt, sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, nhiều văn bản quy phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực đã được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới, trong đó bao gồm các nội dung về quyền con người, quyền công dân. Chỉ tính từ tháng 1/2014 đến nay, đã có khoảng hơn 100 luật, pháp lệnh được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, trong đó có nhiều luật quan trọng về quyền con người, chẳng hạn như: Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Bộ luật Dân sự năm 2015; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015; Luật Tiếp cận thông tin năm 2016; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016; Luật Báo chí năm 2016; Luật Trưng cầu ý dân (được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015 gồm 8 chương, 52 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016; đã thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của Nhà nước; đồng thời, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta,...); Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017; Luật An ninh mạng năm 2018; Luật Tố cáo năm 2018; Luật Đặc xá năm 2018... Các đạo luật này đã quy định đầy đủ, rõ ràng hầu hết các quyền dân sự và chính trị; các cơ chế bảo đảm và phát huy các quyền này tại Việt Nam; tạo ra bước tiến mới trong đảm bảo quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, sản xuất, mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm...
Mới đây, tại kỳ họp thứ 3 khóa XV, Quốc hội đã bàn thảo, góp ý Dự án Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm kịp thời thể chế hóa chủ trương “thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân”. Ðây được coi như một bước tiến mới, góp phần đẩy mạnh hiệu quả và chi tiết hóa Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 8/2/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Các cơ sở pháp lý về phát huy quyền làm chủ của người dân đã từng bước được xác lập cụ thể, rõ ràng hơn hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hành quyền làm chủ của mình trong xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, thời gian qua, việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân còn gặp nhiều bất cập và hạn chế. Trước hết, nhận thức của một bộ phận cán bộ và nhân dân về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn chưa đầy đủ, một bộ phận người dân còn nhận thức mơ hồ, phiến diện về dân chủ. Một bộ phận khác do chưa hiểu được mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật, kỷ cương, dẫn tới coi thường pháp luật, có tư tưởng “dân chủ quá trớn”, coi dân chủ là có quyền tự do nói và làm bất cứ điều gì, từ đó đưa ra những yêu sách, đòi hỏi phi lý. Một số quan điểm coi dân chủ như là phương tiện để đạt tới sự tập trung, đồng nhất khoa học với chính trị, không coi trọng quan điểm cá nhân; nhưng lại có bộ phận tách rời dân chủ với tập trung, tách rời quan điểm cá nhân với việc giữ gìn kỷ luật và sự đoàn kết, thống nhất trong Ðảng, trong cộng đồng... Ðiều này ảnh hưởng đến việc thực thi dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong nhiều lĩnh vực.
Một bộ phận người dân ở không ít địa phương thiếu hiểu biết, nắm bắt nội dung các văn bản, chính sách pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở còn yếu. Theo một nghiên cứu, có tới 27,5% người dân được hỏi cho biết họ chỉ nắm bắt được một số nội dung mà nhân dân được bàn, quyết định, tham gia ý kiến hoặc được giám sát; 13,54% chỉ nắm được một số ít nội dung mà nhân dân được bàn, quyết định trực tiếp; 3,38% hầu như không nắm được nội dung của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Ngay cả một số cán bộ, công chức cũng thiếu hiểu biết pháp luật trong thực hiện dân chủ ở cơ sở, hoặc chưa gương mẫu chấp hành những quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Theo một điều tra, có tới 23,1% số cán bộ, công chức được hỏi cho biết họ chỉ biết sơ qua về quy chế dân chủ của cơ quan, đơn vị mình6.
Một số văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý để phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, để nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình trong những vấn đề quan trọng của đất nước... nhưng một số quy định vẫn còn thiếu, hoặc chưa lan tỏa rộng rãi đến mọi người dân. Chẳng hạn, Luật Giám sát và phản biện xã hội chưa được ban hành kịp thời, mà mới chỉ là Quy chế; Luật Trưng cầu ý dân có hiệu lực từ ngày 01/7/2016, nhưng đến nay vẫn chưa được triển khai rộng rãi... Các nghị định, pháp lệnh về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại một số địa phương được thực hiện chưa tốt.
Việc phát huy vai trò của nhân dân khi tham gia giám sát, góp ý xây dựng Ðảng, chính quyền, hoặc bàn và quyết định các vấn đề của địa phương ở một số nơi còn hạn chế... Thực hiện dân chủ trong nhiều cơ quan, đơn vị còn mang tính hình thức, chưa thực chất. Vẫn còn tình trạng dân chủ không gắn liền với kỷ luật, kỷ cương. Trách nhiệm của người đứng đầu thực hiện còn chưa nghiêm, chưa có quy định rõ ràng, đôi khi còn chồng chéo dẫn đến tình trạng “được thì tranh công, thua thì đổ lỗi”... Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân, nhất là ý kiến của đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học khi xây dựng một số văn bản pháp luật, đề án, dự án quan trọng còn chưa thực sự hiệu quả, chưa đi vào thực chất, làm cho chất lượng văn bản pháp luật chưa cao, thậm chí có những dự án, quy định gây bức xúc dư luận, dẫn tới tình trạng khiếu kiện kéo dài lên các cơ quan chức năng, thậm chí khiếu kiện vượt cấp vì không đủ tin tưởng vào cơ quan công quyền ở địa phương. Thời gian xử lý đơn, thư còn chậm; đối thoại là một phương thức rất tốt để phát huy quyền làm chủ của nhân dân nhưng một số người đứng đầu chưa thực sự quan tâm đúng mức, chưa lắng nghe ý kiến, giải quyết khiếu nại, phản ánh của người dân, dẫn tới làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và những người ra quyết định. 
3. Giải pháp phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thực hiện mục tiêu cụ thể đến năm 2030 hoàn thiện cơ bản các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ: “bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta cần phải tập trung vào thực hiện những giải pháp căn bản sau đây:
Một là, thể chế hóa đầy đủ và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Tổng kết việc thực hiện và nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của Nhân dân; có cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của Nhân dân tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết, phản hồi ý kiến, kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của Nhân dân. Ðổi mới cơ chế bầu cử để lựa chọn được những người xứng đáng đại diện cho Nhân dân. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế, đề cao đạo đức xã hội và trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức; xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Hai là, tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa kịp thời, đầy đủ quan điểm, chủ trương của Ðảng và quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; nội luật hóa các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia; xác định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thực hiện tốt nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm; quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân, việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Ba là, cần xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân để tăng cường và nâng cao quyền giám sát của người dân. Có cơ chế, nội dung, hình thức giám sát cũng như cơ chế phản hồi, phản ánh... một cách rõ ràng mới có thể nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Bốn là, cần tiếp tục tăng cường công tác truyền thông để nâng cao nhận thức, cập nhật thông tin về chính sách, luật pháp, giúp người dân phát huy tốt quyền dân chủ và thực hiện hiệu quả dân chủ ở cơ sở. Chú trọng tuyên truyền, nhân rộng các điển hình tiên tiến, các mô hình hay, cách làm tốt về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia công việc của Nhà nước một cách thiết thực, phù hợp, giúp cho việc thực hành dân chủ ngày càng thấm sâu vào mọi hoạt động của đời sống xã hội; kịp thời ngăn chặn các hiện tượng vi phạm dân chủ...
Đối với các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể các cấp nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề dân chủ và phải đảm bảo “dân làm chủ” theo đúng quy định của phát luật. Thực tế cho thấy, nếu thực hiện đúng phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” thì những khó khăn sẽ được giải quyết, những sai phạm sẽ không xảy ra và khơi dậy được tinh thần đồng thuận, ủng hộ của Nhân dân. Thường xuyên gần gũi, nắm bắt tâm tư, nguyên vọng của các tầng lớp nhân dân, kịp thời phản ánh, kiến nghị, đề xuất cấp ủy, chính quyền quan tâm tạo điều kiện thuận lợi để Nhân dân tham gia góp ý xây dựng đảng, xây dựng chính quyền; làm tròn vai trò đại diện và là cầu nối giữa Nhân dân với đảng, chính quyền.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân nói chung, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước nói riêng đã trở thành một nội dung bắt buộc, được thừa nhận và đảm bảo thực hiện, được quy định rõ ràng, cụ thể trong các văn bản pháp luật. Có thể nói, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước vừa củng cố, mở rộng quyền dân chủ của nhân dân vừa góp phần to lớn vào quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay./.
 

TS. Trần Thị Hồng Thúy

Khoa Lý luận chính trị, Đại học Luật Hà Nội

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 3/2023

-----

Tài liệu trích dẫn
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr.347.
(2) V.I.Lênin, Toàn tập, t.44, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.426.
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 232.
(4) Nghị quyết số 27, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
(5) Nghị quyết số 27, tlđd.
(6) Trần Thị Thơ, Thực trạng về thực hiện dân chủ cơ sở ở cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập của nước ta hiện nay (Qua số liệu điều tra xã hội học), Trang thông tin điện tử của Viện Khoa học tổ chức nhà nước-Bộ nội vụ, http://isos.gov.vn, ngày 20/3/2020.