Trên cơ sở làm rõ các vấn đề lý luận về phát huy giá trị quyền con người trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bài viết đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng, nêu bật những thành tựu đã đạt được trong việc tạo lập môi trường pháp lý bảo đảm quyền tài sản, sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đồng thời chỉ rõ những hạn chế, tồn tại. Từ đó, đề xuất hệ thống giải pháp đồng bộ, khả thi nhằm tiếp tục phát huy tốt hơn giá trị quyền con người trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc
Ảnh minh họa. Nguồn: qdnd.vn
1. Một số vấn đề lý luận về phát huy giá trị quyền con người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
a) Một số khái niệm cơ bản
Quyền con người và giá trị quyền con người
- Quyền con người có thể hiểu đó “là những đặc quyền tự nhiên thuộc về tất cả mọi người, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào dựa trên cơ sở chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, dòng dõi, địa vị xã hội...; tất cả mọi người đều có quyền con người, vì đơn giản chúng ta là con người; các quyền con người đều xuất phát từ những nhu cầu, khát vọng tự nhiên, bắt nguồn từ nhân phẩm vốn có, được tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ bằng pháp luật quốc gia và quốc tế”1. Trong bản Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người năm 1948 của Liên hợp quốc khẳng định: “Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền”. Các quyền này bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống từ dân sự, chính trị đến kinh tế, xã hội và văn hóa.
- Giá trị quyền con người là khẳng định ý nghĩa và tầm quan trọng của các quyền con người đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội. Giá trị này được thể hiện ở hai khía cạnh chính, đó là:
(i) giá trị tự thân (nội tại): thể hiện sự tôn trọng phẩm giá vốn có của con người. Con người được xem là mục tiêu cuối cùng của mọi nỗ lực phát triển, không phải là phương tiện để đạt được các mục tiêu khác và
(ii) là giá trị công cụ (phương tiện): Việc bảo đảm quyền con người là một phương tiện hữu hiệu để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững như hòa bình, an ninh, dân chủ và tăng trưởng kinh tế. Một xã hội tôn trọng quyền con người sẽ là một xã hội ổn định, sáng tạo và thịnh vượng hơn.
- Các giá trị nền tảng, cốt lõi của quyền con người được xác định bao gồm: Nhân phẩm (Dignity): Sự tôn trọng giá trị nội tại và quyền tự quyết của mỗi cá nhân; Tự do (Freedom): Bao gồm tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do biểu đạt, tự do tín ngưỡng, và các quyền tự do dân sự, chính trị khác; Bình đẳng (Equality): Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ như nhau, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào; Công bằng (Justice): Đảm bảo mọi người đều có cơ hội tiếp cận công lý, được xét xử công bằng và được hưởng thành quả từ sự phát triển của xã hội và Đoàn kết (Solidarity): Thể hiện trách nhiệm chung trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu và hỗ trợ những người dễ bị tổn thương nhất.
Các giá trị này tạo thành một khung khổ đạo đức và pháp lý toàn diện, là nền tảng cho luật nhân quyền quốc tế và pháp luật của các quốc gia tiến bộ. Hiểu được giá trị quyền con người có ý nghĩa rất quan trọng, vì giá trị quyền con người đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành nên nhân cách và hướng dẫn hành vi của mỗi cá nhân.
Kinh tế thị trường và đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam
Theo Đại từ điển kinh tế thị trường, kinh tế thị trường (KTTT) “là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hóa làm phân phối tài nguyên chủ yếu, lấy lợi ích vật chất, cung cầu thị trường và mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế và phương thức vận hành kinh tế”2.
Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được chính thức sử dụng từ Đại hội IX (2001). Đây là một mô hình kinh tế đặc thù của Việt Nam, vừa mang những đặc tính chung của KTTT, vừa có những đặc trưng riêng phù hợp với điều kiện Việt Nam. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, “đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước”3.
Định hướng XHCN chính là sự khác biệt về chất so với các mô hình KTTT khác. Nó thể hiện ở việc sở hữu nhiều hình thức, nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển; và quan trọng nhất, phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo đảm quyền con người, lấy con người làm trung tâm của mọi chiến lược phát triển.
Phát huy giá trị quyền con người trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Phát huy giá trị quyền con người trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là toàn bộ các hoạt động có mục đích, có định hướng và chủ động của các chủ thể (nhà nước, các tổ chức xã hội, và mỗi cá nhân, công dân), nhưng trước hết và chủ yếu là Nhà nước, nhằm công nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người một cách thực chất và hiệu quả trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Quá trình này không chỉ dừng lại ở việc tuyên bố hay ghi nhận các quyền trong Hiến pháp và pháp luật, mà phải được hiện thực hóa thông qua các cơ chế, chính sách và hành động cụ thể, như: (1) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế đồng bộ, minh bạch, công bằng, tạo không gian pháp lý an toàn cho mọi người dân và doanh nghiệp thực hiện quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh. (2) Sử dụng các công cụ điều tiết của Nhà nước (thuế, chính sách an sinh xã hội, đầu tư công) để khắc phục các mặt trái của thị trường, giảm bất bình đẳng, đảm bảo mọi người dân được hưởng thành quả của tăng trưởng kinh tế. (3) Thúc đẩy dân chủ hóa đời sống kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để người dân tham gia vào quá trình hoạch định và giám sát việc thực thi chính sách kinh tế. (4) Coi việc đầu tư cho con người (giáo dục, y tế, văn hóa) là đầu tư cho phát triển, nhằm nâng cao năng lực và tạo cơ hội phát triển toàn diện cho mỗi cá nhân.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
Quyền con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế
Trong mô hình KTTT định hướng XHCN, phát triển kinh tế không phải là mục đích tự thân. Tăng trưởng GDP, kim ngạch xuất khẩu hay thu hút đầu tư chỉ là phương tiện để đạt đến một mục tiêu cao cả hơn: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và phát triển toàn diện. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh: “Chúng ta không ‘hy sinh’ tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần”4. Mục tiêu cuối cùng của mọi chính sách kinh tế là để phục vụ con người, nâng cao chỉ số phát triển con người (HDI). Do đó, quyền con người chính là hệ giá trị cốt lõi, là cái đích mà quá trình phát triển kinh tế phải hướng tới.
Đồng thời, quyền con người còn là động lực nội sinh mạnh mẽ nhất cho sự phát triển. Khi quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ vững chắc, người dân sẽ yên tâm đầu tư, sản xuất, sáng tạo. Khi quyền được thông tin, quyền tham gia quản lý nhà nước được đảm bảo, các chính sách kinh tế sẽ trở nên minh bạch hơn, hợp lòng dân hơn, giảm thiểu tham nhũng, lãng phí. Khi quyền được học tập, quyền được chăm sóc sức khỏe được thực thi tốt, chất lượng nguồn nhân lực - yếu tố quyết định sự cạnh tranh của nền kinh tế - sẽ được nâng cao. Một xã hội dân chủ, công bằng, nơi mọi người đều có cơ hội phát triển sẽ giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo, tạo ra sức mạnh tổng hợp để đưa đất nước tiến lên.
Phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để đảm bảo và thúc đẩy quyền con người
Mối quan hệ này mang tính hai chiều. Sẽ là duy tâm và phi thực tế nếu chỉ nói đến quyền con người một cách trừu tượng mà không có nền tảng kinh tế vững chắc. Quyền sống, quyền có việc làm, quyền được hưởng an sinh xã hội, quyền được giáo dục, y tế... không thể được đảm bảo nếu đất nước nghèo nàn, lạc hậu. Phát triển kinh tế tạo ra nguồn lực vật chất – kỹ thuật (ngân sách nhà nước, cơ sở hạ tầng, công nghệ) để Nhà nước và xã hội thực hiện các chính sách xã hội, xây dựng trường học, bệnh viện, hệ thống an sinh, phúc lợi.
Quá trình Đổi mới ở Việt Nam là một minh chứng sống động. Nhờ những thành tựu vượt bậc trong phát triển kinh tế, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Theo kết quả công bố rà soát tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tỷ lệ nghèo đa chiều (gồm tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo) có xu hướng giảm liên tục, từ 7,52% vào năm 2022; giảm còn 5,71% vào năm 2023, và 4,06% vào năm 20245.
Tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên, các chỉ số về giáo dục và y tế ngày càng được cải thiện. Chính những thành tựu kinh tế này đã tạo ra “không gian” và “nguồn lực” để Việt Nam ngày càng làm tốt hơn việc bảo đảm các quyền con người, đặc biệt là các quyền kinh tế - xã hội.
Tính đặc thù trong mối quan hệ giữa quyền con người và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Tính đặc thù này thể hiện ở vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN. Khác với mô hình KTTT tư bản chủ nghĩa nơi lợi nhuận là tối thượng và sự can thiệp của nhà nước có thể bị hạn chế, ở Việt Nam, Nhà nước không phải là “người gác đêm” mà là một chủ thể kiến tạo phát triển. Nhà nước sử dụng các nguồn lực, công cụ pháp luật và chính sách để điều tiết nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và xã hội, giữa tăng trưởng và công bằng, ngăn chặn xu hướng “thị trường hóa” các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế một cách cực đoan.
Sự lãnh đạo của Đảng đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế không chệch hướng XHCN, luôn đặt lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc lên trên hết. Các chủ trương, đường lối của Đảng là kim chỉ nam cho việc xây dựng chính sách, pháp luật, đảm bảo rằng việc phát huy các yếu tố của kinh tế thị trường không làm xói mòn các giá trị nhân văn, đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đây chính là sự kết hợp giữa tính phổ biến của các quy luật thị trường và các giá trị nhân quyền với tính đặc thù của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
c) Nội dung và vai trò của các chủ thể trong việc phát huy giá trị quyền con người
Nội dung phát huy giá trị các nhóm quyền: Trong lĩnh vực kinh tế, việc phát huy giá trị quyền con người tập trung vào hai nhóm quyền chính.
Thứ nhất, nhóm quyền dân sự, chính trị liên quan đến kinh tế. Điển hình là quyền tự do kinh doanh (Điều 33, Hiến pháp năm 2013)6, quyền sở hữu tư nhân về tài sản hợp pháp (Điều 32), quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Việc đảm bảo các quyền này tạo ra một môi trường đầu tư-kinh doanh minh bạch, công bằng, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh và đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, các quyền như quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, quyền khiếu nại, tố cáo cũng giúp người dân và doanh nghiệp giám sát hoạt động của cơ quan công quyền, chống lại các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực.
Thứ hai, nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Đây là nhóm quyền thể hiện rõ nhất bản chất ưu việt của định hướng XHCN. Nó bao gồm quyền có việc làm, lựa chọn nghề nghiệp (Điều 35); quyền được đảm bảo an sinh xã hội (Điều 34); quyền được chăm sóc sức khỏe (Điều 38); quyền được tiếp cận giáo dục (Điều 39)7. Việc thực thi các quyền này đòi hỏi sự đầu tư lớn từ Nhà nước và xã hội, nhằm xây dựng một mạng lưới an sinh vững chắc, đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau, đặc biệt là các nhóm yếu thế.
Vai trò của các chủ thể chính có trách nhiệm phát huy giá trị quyền con người trong nền KTTT
- Nhà nước pháp quyền XHCN đóng vai trò trung tâm, có trách nhiệm cao nhất trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người. Vai trò này thể hiện qua việc: (1) Thể chế hóa quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về quyền con người và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người con người, quyền công dân; (2) Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ nhân dân; (3) Phân bổ nguồn lực quốc gia một cách hợp lý để thực hiện các chính sách xã hội; (4) Thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quyền con người.
- Doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh vừa là đối tượng thụ hưởng quyền tự do kinh doanh, vừa có trách nhiệm xã hội trong việc tôn trọng quyền con người. Trách nhiệm này không chỉ là tuân thủ pháp luật lao động, trả lương công bằng, đảm bảo điều kiện làm việc an toàn, mà còn bao gồm việc bảo vệ môi trường, sản xuất kinh doanh có đạo đức, đóng góp cho cộng đồng.
- Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và cộng đồng (như Mặt trận Tổ quốc, Tổng Liên đoàn Lao động, Hội Nông dân, các hiệp hội ngành nghề...) có vai trò quan trọng trong việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên; tham gia giám sát và phản biện xã hội đối với các chính sách kinh tế; tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về quyền con người.
- Bản thân người dân vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của quyền con người. Mỗi người dân cần chủ động học hỏi để nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ của mình, tích cực lao động sản xuất, tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội, đồng thời thực hiện quyền dân chủ của mình để giám sát hoạt động của Nhà nước và doanh nghiệp, góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh.
2. Thực trạng phát huy giá trị quyền con người trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
a) Quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước
Quá trình hình thành và phát triển quan điểm của Đảng
Quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và quyền con người đã có một quá trình phát triển liên tục, ngày càng sâu sắc và toàn diện. Ngay từ khi khởi xướng Đổi mới, Đảng đã xác định mục tiêu của phát triển kinh tế là vì con người. Đại hội VII (1991) với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định con người là trung tâm của chiến lược phát triển.
Đến các kỳ Đại hội sau, quan điểm này ngày càng được làm rõ. Đại hội X (2006) nhấn mạnh: “Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”8. Đại hội XI (2011) và XII (2016) tiếp tục khẳng định mạnh mẽ hơn nữa việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, gắn quyền con người với quyền của dân tộc. Đặc biệt, Văn kiện Đại hội XIII (2021) đã đưa ra một định hướng chiến lược toàn diện: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”9. Từ cách tiếp cận này, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đặt ra yêu cầu “Đảng và nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân”10. Quan điểm này thể hiện sự nhất quán và tầm nhìn chiến lược của Đảng, coi việc bảo đảm và phát huy giá trị quyền con người là một thuộc tính bản chất của chế độ XHCN ở Việt Nam.
Bước vào thời kỷ nguyên mới, với tầm nhìn chiến lược đưa đất nước phát triển nhanh, mạnh, bền vững, phồn vinh, hạnh phúc, Bộ Chính trị đã ban hành 04 nghị quyết, gồm: “Nghị quyết 57 của Bộ chính trị về thúc đẩy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; Nghị quyết 59 về chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng; Nghị quyết 68 về phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân; và Nghị quyết 66 về đổi mới toàn diện công tác xây dựng, thi hành pháp luật, trong đó Nghị quyết 68 đặt ra các yêu cầu cải cách mạnh mẽ, bao gồm: Hoàn thiện thể chế: Bảo vệ quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, tạo dựng môi trường đầu tư - kinh doanh công bằng, minh bạch, ổn định. Khơi thông nguồn lực”11.
Hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước
Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã không ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, đặc biệt là các quyền liên quan đến lĩnh vực kinh tế. Dấu ấn quan trọng nhất là Hiến pháp năm 2013, với một chương riêng (Chương II) quy định về "Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân". Hiến pháp đã khẳng định nguyên tắc “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14)12.
Trên cơ sở Hiến pháp, hàng loạt các bộ luật, luật quan trọng đã được ban hành và sửa đổi, tạo hành lang pháp lý ngày càng hoàn thiện cho việc thực thi các quyền. Có thể kể đến Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Đầu tư năm 2020 đã tạo ra một môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng hơn. Bộ luật Lao động năm 2019 đã có nhiều sửa đổi tiến bộ, tiệm cận với các tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người lao động13. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo... cũng là những công cụ pháp lý quan trọng để người dân thực thi quyền của mình trong lĩnh vực kinh tế - xã hội.
b) Những thành tựu và hạn chế trong thực tiễn
Thành tựu nổi bật
Thứ nhất, thành tựu trong việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh và tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng. Việt Nam đã đạt được những bước tiến vượt bậc trong cải thiện môi trường kinh doanh, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) và Chỉ số Môi trường kinh doanh (Doing Business) của Ngân hàng Thế giới trong nhiều năm đã xếp hạng Việt Nam ở vị trí ngày càng cao. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới liên tục tăng, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng đóng vai trò quan trọng. Với gần một triệu doanh nghiệp, khoảng 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 51% GDP14. Điều này cho thấy quyền tự do kinh doanh của người dân đã thực sự được giải phóng, tạo ra động lực to lớn cho tăng trưởng.
Thứ hai, thành tựu trong đảm bảo quyền lao động, việc làm và an sinh xã hội là điểm sáng được thế giới công nhận. Nhờ tăng trưởng kinh tế ổn định, mỗi năm Việt Nam tạo ra hàng triệu việc làm mới. Tỷ lệ thất nghiệp được duy trì ở mức thấp, kể cả trong giai đoạn khó khăn của đại dịch COVID-19. Hệ thống an sinh xã hội ngày càng được mở rộng, bao phủ nhiều đối tượng hơn. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp ngày càng tăng. Đặc biệt, trong đại dịch, Chính phủ đã có những gói hỗ trợ an sinh xã hội chưa từng có tiền lệ để hỗ trợ người lao động và người dân gặp khó khăn15.
Thứ ba, quyền tiếp cận các dịch vụ công cơ bản như giáo dục và y tế được cải thiện đáng kể. Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố, bao phủ đến tận xã, phường. Chương trình tiêm chủng mở rộng đã thanh toán được nhiều bệnh dịch nguy hiểm. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 93,35% vào năm 2023, giúp giảm gánh nặng chi phí khám chữa bệnh cho người dân16.
Thứ tư, vai trò tham gia, giám sát của người dân vào các vấn đề kinh tế - xã hội ngày càng được nâng cao. Các cơ chế dân chủ ở cơ sở như "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" ngày càng đi vào thực chất. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trong việc giám sát, phản biện xã hội được phát huy. Người dân ngày càng chủ động hơn trong việc sử dụng các kênh như tiếp xúc cử tri, khiếu nại, tố cáo, và cả mạng xã hội để bày tỏ ý kiến, bảo vệ quyền lợi của mình.
Những hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những thành tựu to lớn, việc phát huy giá trị quyền con người trong phát triển kinh tế ở Việt Nam vẫn còn đối mặt với nhiều hạn chế.
Một là, sự chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng trong tiếp cận cơ hội phát triển có xu hướng gia tăng. Quá trình phát triển KTTT tất yếu dẫn đến sự phân hóa xã hội. Khoảng cách về thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền còn khá lớn. Một bộ phận người dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực phát triển như vốn, đất đai, công nghệ và các dịch vụ xã hội chất lượng cao.
Hai là, vấn đề ô nhiễm môi trường do phát triển kinh tế tác động tiêu cực đến quyền được sống trong môi trường trong lành. Tăng trưởng kinh tế ở một số nơi vẫn còn dựa vào mô hình thâm dụng tài nguyên, công nghệ lạc hậu, gây ra những hậu quả nghiêm trọng về môi trường. Sự cố môi trường biển do Formosa gây ra năm 2016 là một bài học đắt giá. Ô nhiễm không khí ở các thành phố lớn, ô nhiễm nguồn nước sông, ô nhiễm do rác thải nhựa... đang là những thách thức nhức nhối, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người dân.
Ba là, một số quyền của người lao động chưa được đảm bảo đầy đủ. Mặc dù Bộ luật Lao động đã có nhiều tiến bộ, nhưng tình trạng doanh nghiệp vi phạm pháp luật lao động vẫn còn xảy ra, như nợ lương, trốn đóng bảo hiểm xã hội, không đảm bảo an toàn lao động. Quan hệ lao động ở một số nơi còn căng thẳng, dẫn đến các cuộc đình công, lãn công tự phát. Vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động ở một số doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài nhà nước, còn mờ nhạt.
Bốn là, hiệu quả thực thi pháp luật và chính sách còn hạn chế. Hệ thống pháp luật đã tương đối đầy đủ nhưng khâu tổ chức thực hiện vẫn là một điểm yếu. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu kém, thậm chí có hành vi tham nhũng, "lợi ích nhóm", gây khó khăn, phiền hà cho người dân và doanh nghiệp, làm xói mòn lòng tin và cản trở việc thụ hưởng các quyền.
c) Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế
Nguyên nhân của thành tựu
Nguyên nhân bao trùm và quyết định nhất là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối Đổi mới toàn diện, lấy con người làm trung tâm. Cùng với đó là sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị trong việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối. Sự quản lý, điều hành năng động, sáng tạo của Chính phủ, sự giám sát hiệu quả của Quốc hội; sự đồng thuận, ủng hộ và tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Cuối cùng, việc chủ động hội nhập quốc tế đã giúp Việt Nam tiếp thu kinh nghiệm, tri thức và nguồn lực từ bên ngoài để phát triển đất nước.
Nguyên nhân của hạn chế
Nguyên nhân khách quan đến từ chính những mặt trái của KTTT, từ quá trình toàn cầu hóa với cả cơ hội và thách thức. Nền kinh tế Việt Nam có điểm xuất phát thấp, quy mô còn nhỏ, sức cạnh tranh chưa cao, dễ bị tổn thương trước các biến động của kinh tế thế giới. Các thách thức an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh cũng tác động tiêu cực.
Nguyên nhân chủ quan: Đó là nhận thức về quyền con người và mối quan hệ giữa kinh tế và quyền con người ở một số cấp, một số ngành, thậm chí trong một bộ phận người dân chưa thực sự đầy đủ và sâu sắc. Hệ thống pháp luật vẫn còn những điểm chồng chéo, thiếu đồng bộ, chưa theo kịp thực tiễn. Năng lực thể chế hóa và tổ chức thực thi chính sách còn yếu. Đặc biệt, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã làm giảm hiệu quả của các chính sách và gây bức xúc trong nhân dân17.
3. Giải pháp tăng cường phát huy giá trị quyền con người trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới
a) Hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về quyền con người
Đây là giải pháp nền tảng. Cần tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật kinh tế (Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, các luật về thuế...) để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, minh bạch và khả thi, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp. Đặc biệt, cần nội luật hóa đầy đủ, phù hợp với điều kiện Việt Nam các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Xây dựng các cơ chế pháp lý hữu hiệu để người dân có thể bảo vệ quyền của mình khi bị vi phạm, như hoàn thiện cơ chế tòa án hành chính, các cơ chế tài phán ngoài tòa án.
b) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước
Tập trung xây dựng một nền hành chính phục vụ, kiến tạo. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử tiến tới Chính phủ số. Nâng cao năng lực dự báo, hoạch định và phản ứng chính sách. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật. Đặc biệt, phải quyết liệt hơn nữa trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, xử lý nghiêm mọi cán bộ vi phạm, làm trong sạch bộ máy nhà nước.
c) Phát triển kinh tế nhanh, bền vững tạo nguồn lực bảo đảm quyền con người
Ưu tiên đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu, dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn để giải quyết bài toán môi trường. Nhà nước cần có chính sách phân phối lại hợp lý hơn thông qua hệ thống thuế và phúc lợi xã hội để giảm bất bình đẳng, đầu tư nhiều hơn cho các vùng khó khăn, cho các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa và khoa học.
d) Nâng cao vai trò và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Khuyến khích và thúc đẩy văn hóa kinh doanh có trách nhiệm. Xây dựng và nhân rộng các mô hình doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội (CSR), tôn trọng quyền của người lao động, bảo vệ môi trường, đóng góp cho cộng đồng. Phát huy vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp trong việc xây dựng các bộ quy tắc ứng xử, giám sát lẫn nhau trong việc tuân thủ pháp luật và các chuẩn mực về quyền con người.
e) Đẩy mạnh công tác giáo dục, truyền thông nâng cao nhận thức về quyền con người
Đưa nội dung giáo dục về quyền con người, quyền công dân vào hệ thống giáo dục quốc dân một cách phù hợp. Các cơ quan truyền thông cần tăng cường các chương trình, bài viết tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giới thiệu các mô hình tốt, đồng thời phê phán các hành vi vi phạm, giúp người dân hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình, từ đó sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
f) Tăng cường hợp tác quốc tế và phát huy vai trò của các tổ chức xã hội
Chủ động tham gia và đóng góp tích cực tại các diễn đàn đa phương về quyền con người, đặc biệt là tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Tăng cường đối thoại, hợp tác với các quốc gia, các tổ chức quốc tế để chia sẻ kinh nghiệm, tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi và phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội trong việc tham gia xây dựng, giám sát và phản biện chính sách, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đoàn viên, hội viên và nhân dân.
Kết luận
Phát huy giá trị quyền con người trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một chủ trương lớn, nhất quán, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ và là một yêu cầu tất yếu khách quan cho sự phát triển bền vững của đất nước. Quá trình này không phải là một con đường thẳng tắp mà là một quá trình biện chứng, kết hợp hài hòa giữa việc tuân thủ các quy luật khách quan của kinh tế thị trường với việc đảm bảo mục tiêu và bản chất XHCN, trong đó con người luôn ở vị trí trung tâm. Sau 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong việc kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quyền con người, được nhân dân và cộng đồng quốc tế ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế, thách thức đòi hỏi phải có những nỗ lực lớn hơn nữa trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
PGS.TS. Tường Duy Kiên
Viện trưởng Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 46 (6/2024)
---
Tài liệu trích dẫn
(1) Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2024), PGS. TS Tường Duy Kiên (Chủ biên), Lý luận về quyền con người và giáo dục quyền con người, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, tr.17.
(2) TS Phạm Minh Điền, TS Hoàng Xuân Hòa, GS. TS Đỗ Đức Bình, TS Phạm Ngọc Thắng, TS Trịnh Mai Vân (Đồng chủ biên), Xây dựng khung tiêu chí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam (Sách chuyên khảo). ST Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.10.
(3) Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I (2021), Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, tr.28.
(4) Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật. Hà Nội. Tr.39.
(5) Một số vấn đề giảm nghèo gắn với tăng trưởng xanh tại Việt Nam. Tại trang [https://www.giz.de/en/downloads_els/250523-Paper-Poverty%20reduction-VIE%202.pdf]. Truy cập ngày 07/5/2025.
(6) Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp năm 2013,
(7) Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp năm 2013.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.81.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tr.28.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tr.173.
(11) Đảng ban hành “4 trụ cột” quan trọng để đưa đất nước vươn mình. Tại trang [https://vov.vn/chinh-tri/dang-ban-hanh-4-tru-cot-quan-trong-de-dua-dat-nuoc-vuon-minh-post1200305.vov].Truy cập ngày 07/5/2025.
(12) Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp năm 2013.
(13) Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Lao động năm 2019, Hà Nội.
(14) Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng. Tại trang [https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thong-tin-khac.aspx?ItemID=4509]. Truy cập ngày 07/5/2025.
(15) Chính phủ (2021), Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2021 về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19, Hà Nội.
(16) Bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh và bền vững. Tại trang [https://moh.gov.vn/tin-lien-quan/-/asset_publisher/vjYyM7O9aWnX/content/bao-phu-bao-hiem-y-te-tang-nhanh-va-ben-vung]. Truy cập ngày 07/5/2025.
(17) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, trang 93.