Bài viết đánh giá ưu điểm, hạn chế về nội dung, phương pháp giáo dục quyền con người tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, phân tích các nguyên nhân của những hạn chế, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục quyền con người tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội nói riêng và các trường sư phạm trên toàn quốc nói chung.
Ảnh minh họa. Nguồn: vtv.vn
1. Thực trạng nội dung, phương pháp giáo dục quyền con người tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
a) Khái quát tình hình giáo dục quyền con người tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội là một trung tâm đào tạo đại học, sau đại học, nghiên cứu và ứng dụng khoa học giáo dục đa ngành chất lượng cao, là một trong những trường đại học trọng điểm của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Với tổng số cán bộ giảng viên, giáo viên, nhân viên của nhà trường là 1.069 người, ngoài tập trung đào tạo đại học và sau đại học, các trung tâm nghiên cứu và viện nghiên cứu, trường Đại học Sư phạm Hà Nội còn có 4 trường phổ thông thực nghiệp trực thuộc, gồm: Trường Mầm non Búp sen xanh; Trường Tiểu học Nguyễn Tất Thành; Trường THCS và THPT Nguyễn Tất Thành; Trường THPT chuyên Sư phạm.
Với truyền thống 70 năm ra đời và phát triển, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã luôn tiên phong trong việc ủng hộ và thực hiện tốt các chính sách đổi mới toàn diện của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như của toàn ngành giáo dục. Với triết lý giáo dục “Đào tạo nhà giáo xuất sắc có tinh thần nhân văn, tư duy hiện đại, hành động tích cực vì sự phát triển cộng đồng”, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã góp phần không nhỏ để quyền con người được thực hiện trong thực tế, từ việc ban hành các chính sách tuyển sinh đảm bảo sự công khai, minh bạch, công bằng và bình đẳng về cơ hội cho tất cả mọi người; xây dựng chương trình môn học và nội dung dạy học đảm bảo tính khoa học, tiến bộ, nhân văn (có một số khoa có những môn học chuyên sâu về giáo dục quyền con người như khoa Lý luận chính trị - Giáo dục công dân, Khoa Công tác xã hội, Khoa Giáo dục đặc biệt, Khoa Giáo dục mầm non, Khoa Giáo dục tiểu học, Khoa Quốc phòng an ninh); hình thức và phương pháp dạy học mang tính dân chủ, công bằng, lấy người học làm trung tâm; cơ chế tuyển dụng giảng viên và chuyên viên giáo dục của nhà trường cũng được công khai, minh bạch và dân chủ; đội ngũ giảng viên và nhân viên nhà trường không ngừng được cung cấp các cơ hội nâng cao nghiệp vụ, hoàn toàn được đảm bảo quyền tiếp cận các cơ hội học tập, nâng cao nghiệp vụ của bản thân và tiếp cận các nguồn lực khác của nhà trường một cách công bằng và bình đẳng.
Về nội dung giảng dạy giáo dục quyền con người
Thứ nhất, nội dung đào tạo đại học và sau đại học gắn với nội dung giáo dục quyền con người
Ở cấp đào tạo này, nhà trường có 24 khoa - chủ yếu đào tạo theo các môn học phục vụ việc cung cấp giáo viên cho phổ thông, giảng viên cho các trường đại học hoặc làm việc tại các trung tâm nghiên cứu, với 39 mã ngành (đào tạo cử nhân sư phạm và cử nhân ngoài sư phạm). Khảo sát khung chương trình các môn học của tất cả các mã ngành ở các khoa trong trường cho thấy, nhìn chung, trong khung chương trình các môn học của các khoa trong trường đều có những môn học liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nội dung giáo dục quyền con người. Đặc biệt, một số môn học được triển khai dạy chung cho sinh viên toàn trường như: Giáo dục pháp luật (Trong chương trình môn học này đặc biệt còn có chuyên đề: Các điều ước quốc tế về quyền con người và việc thực hiện ở Việt Nam. Mục đích giảng dạy cho các bạn sinh viên của tất cả các khoa về quyền con người và việc thực hiện quyền con người trong thực tiễn ở Việt Nam); Tâm lý học giáo dục; Giáo dục học; Nghệ thuật học đại cương; Lý luận dạy học và Phương pháp dạy học; Nhân học đại cương; Nhập môn khoa học xã hội và nhân văn.
Trong đó, các khoa có mã ngành đào tạo thể hiện nội dung giáo dục quyền con người rõ nét nhất, thậm chí là trực tiếp giảng dạy về quyền con người và quyền trẻ em, gồm một số môn học tại một số khoa điển hình như Khoa Lý luận chính trị - Giáo dục công dân; Khoa Công tác xã hội; Khoa Giáo dục đặc biệt; Khoa Giáo dục mầm non; Khoa Giáo dục tiểu học. Cụ thể:
Các khoa có môn học thể hiện rõ nét nội dung giáo dục quyền con người |
||
STT |
Các khoa |
Các môn thể hiện nội dung giáo dục quyền con người |
1 |
Khoa Lý luận chính trị - Giáo dục công dân |
1.1.Pháp luật về quyền con người và quyền trẻ em |
1.2.Chuyên đề Bình đẳng giới và giáo dục gia đình |
||
1.3.Hiến pháp và định chế chính trị ở Việt Nam |
||
1.4. Pháp luật học đại cương |
||
1.5. Giáo dục pháp luật 1 |
||
1.6. Giáo dục pháp luật 2 |
||
1.7. Dân chủ và pháp quyền |
||
2 |
Khoa Công tác xã hội |
2.1. Nhập môn công tác xã hội |
2.2. An sinh xã hội |
||
2.3. Chính sách xã hội |
||
2.4. Giới và phát triển |
||
2.5. Công bằng xã hội và tiến bộ xã hội |
||
2.6. CTXH với người khuyết tật và nạn nhân chiến tranh |
||
2.7……… |
Thứ hai, nội dung đào tạo của các trường phổ thông (từ mầm non đến THPT) thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội gắn với nội dung giáo dục quyền con người
Các trường phổ thông trực thuộc trường Đại học Sư phạm Hà Nội luôn là lực lượng tiên phong trong đổi mới giáo dục. Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (chương trình các môn học từ lớp 1 đến lớp 12) đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng và triển khai - là một bước ngoặt lớn trong những nỗ lực của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội trong đổi mới giáo dục của Việt Nam. Trong đó, mục tiêu hướng tới mang tính thực tiễn cao: các nhà giáo dục khi xây dựng chương trình hay khi bắt tay vào viết sách giáo khoa, đào tạo đội ngũ giáo viên để tiếp cận theo hướng mới, chuyển từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực thì luôn trăn trở với câu hỏi sau: học sinh của chúng ta (chính con em chúng ta) sau khi học xong chương trình phổ thông thì họ sẽ là ai? Họ sẽ làm được gì? Họ sẽ muốn trở thành người như thế nào? Họ có khả năng hoạch định và xây dựng chính cuộc đời của họ không?
Với tâm niệm đó, môn Giáo dục công dân ở phổ thông đã được định hướng về mặt nội dung rất rõ ràng, tường minh với 3 mạch nội dung chính: giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật và kinh tế, giáo dục kĩ năng sống. Từ các mạch nội dung này, giáo viên sẽ phải triển khai các đơn vị kiến thức đó theo hướng tổ chức hoạt động, lấy người học làm trung tâm, học sinh phải được tự trải nghiệm tri thức trong chính từng môn học của mình, được đắm mình trong những tình huống giả định để đưa ra nhận xét hoặc cách giải quyết tình huống đó, thông qua sản phẩm là ngôn ngữ nói (thuyết trình, hùng biện, tranh luận), ngôn ngữ viết (viết bài luận, viết thư, viết lời bình, viết thông điệp), sản phẩm hoạt động của học sinh còn có thể được biểu đạt qua các loại hình nghệ thuật (thơ, nhạc, họa, thiết kế thời trang, thiết kế và tổ chức sự kiện, kịch hoặc sân khấu hóa...)
Nội dung giáo dục quyền con người đã được trực tiếp thể hiện trong mạch nội dung về pháp luật và kinh tế1, cụ thể:
- Lớp 4: Quyền và bổn phận của trẻ em.
- Lớp 6: Quyền trẻ em.
- Lớp 7: Quyền và nghĩa vụ công dân trong gia đình.
- Lớp 8: Quyền và nghĩa vụ lao động của công dân.
- Lớp 9: Quyền tự do kinh doanh và nghĩa vụ đóng thuế.
- Lớp 11: Quyền bình đẳng của công dân; Một số quyền dân chủ cơ bản của công dân; Một số quyền tự do cơ bản của công dân.
- Lớp 12: Một số quyền và nghĩa vụ của công dân về kinh tế; Quyền và nghĩa vụ của công dân về văn hóa và xã hội.
Thứ ba, bồi dưỡng và tập huấn giáo viên phổ thông
Song song với đào tạo hệ cử nhân chính quy, trường Đại học Sư phạm Hà Nội thường xuyên có các chương trình bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ giáo viên. Trước đây, việc nâng cao trình độ chuyên môn của giáo viên phổ thông thường diễn ra theo đơn đặt hàng của các Sở Giáo dục ở các địa phương hoặc trực tiếp là đơn đặt hàng của các trường cụ thể. Việc bồi dưỡng này diễn ra lẻ tẻ và tự phát. Nhưng sau khi chương trình giáo dục phổ thông tổng thể ra đời thì giáo viên cả nước được tham gia bồi dưỡng và tập huấn một cách có hệ thống. Trong gần 02 năm triển khai bồi dưỡng cho giáo viên tiểu học, Trung học cơ sở và THPT (được sự trợ giúp của Chương trình Etep - sự liên kết của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngân hàng Thế giới, Đại học Giáo dục của Hồng Kông),Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đảm trách bồi dưỡng cho giáo viên sư phạm chủ chốt và cán bộ quản lý phổ thông cốt cán (đã triển khai bồi dưỡng khoảng 1000 giáo viên của miền Bắc). Chương trình tập huấn được triển khai mạnh mẽ (qua cả 2 kênh: tập huấn trực tiếp và trực tuyến). Điều này cho thấy quyền con người thật sự được đề cao trong giáo dục, một lần nữa các nhà giáo dục phải thật sự hướng tới tổ chức hoạt động dạy và học trong đó người học phải là trung tâm của hoạt động – được tôn trọng, được lắng nghe, được thấu hiểu, được thể hiện quan điểm và chính kiến cá nhân.
Thứ tư, hoạt động nghiên cứu của các trung tâm, các viện trực thuộc trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Trường có 10 trung tâm, 02 viện nghiên cứu, 01 nhà xuất bản; 01 tạp chí khoa học. Ngoài ra, Phòng Khoa học của trường cũng đã phát huy tích cực vai trò của mình trong việc triển khai các nghiên cứu khoa học của sinh viên, của giảng viên cấp trường và thực hiện các đề tài cấp Bộ, các đề tài phi chính phủ... Trong đó có nhiều đề tài nghiên cứu có giá trị cao, liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới nội dung giáo dục quyền con người như: Xây dựng trường học an toàn, trường học thân thiện; Xây dựng mô hình giáo dục bảo vệ môi trường ở cấp THCS; Xây dựng văn hóa nhà trường; Vai trò của xã hội công dân đối với quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam...
Về phương pháp giáo dục quyền con người
Thứ nhất, việc dạy và học về quyền được tích hợp trong từng môn học hoặc tích hợp liên môn
Giảng viên đào tạo ở bậc đại học của trường cũng như đội ngũ giáo viên của khối phổ thông trực thuộc trường luôn cố gắng sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học (Phương pháp thuyết trình, đàm thoại, làm mẫu, thực nghiệm, thảo luận, nghiên cứu trường hợp, xử lý tình huống, dạy học trực quan, đóng vai, trò chơi, dạy học dự án...) và kĩ thuật dạy học (động não, kĩ thuật phòng tranh, hỏi bằng phiếu, hỏi bằng bảng kiểm, kĩ thuật 321, kĩ thuật bể cá, khăn trải bàn, tia chớp, kĩ thuật ổ bi, sơ đồ tư duy, tranh biện...) khác nhau.
Quyền con người thường được các nhà giáo dục sử dụng thông qua việc đưa ví dụ minh họa vào bài học, các tình huống học tập cần nghiên cứu, các bài tập dự án cần triển khai sau khi kết thúc buổi học. Ví dụ, đối với bậc mầm non, tiểu học, việc sử dụng phương pháp kể chuyện, đặc biệt sử dụng truyện cổ tích vào dạy học sẽ có tác động mạnh mẽ vào cảm xúc của trẻ. Các nhân vật trong câu chuyện sẽ giúp trẻ phân định thiện ác, tốt xấu. Cụ thể hơn, như truyện “Cây tre trăm đốt” là một điển hình về giáo dục quyền con người. Ai cũng có quyền được sống, được hưởng hạnh phúc, dù giàu hay nghèo cũng bình đẳng với nhau, và tôn trọng những thỏa thuận, những giao ước với nhau.
Thứ hai, việc dạy và học về quyền được lồng ghép vào các hoạt trải nghiệm ở trường phổ thông
Hiện nay trong chương trình giáo dục phổ thông, hoạt động trải nghiệm được xem là một trong những hoạt động giáo dục cần thiết và bắt buộc ở các cấp học. Bản chất của hoạt động trải nghiệm là người học sẽ sử dụng tri thức vốn có của mình trong tất cả các môn học để tham gia vào các hoạt động, xử lý các tình huống mà giáo viên đã thiết kế. Qua quá trình tự mình trải nghiệm (trải nghiệm cá nhân, trải nghiệm nhóm, và trải nghiệm trong tập thể lớn hơn) sẽ giúp các em tự chiêm nghiệm và tích lũy những tri thức mà các em cảm thấy mới mẻ hoặc cần thiết cho cá nhân mình thông qua các hình thức trải nghiệm như: sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt lớp, sinh hoạt theo chủ đề.
Thứ ba, việc dạy và học về quyền được thể hiện thông qua hoạt động trực tiếp của học sinh, sinh viên vào các tổ chức, câu lạc bộ khác nhau
Câu lạc bộ là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm học sinh, sinh viên cùng sở thích, nhu cầu, năng khiếu,... dưới sự định hướng của những nhà giáo dục. Mục đích của những hoạt động này là nhằm tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa học sinh, sinh viên với nhau; giữa học sinh, sinh viên với giáo viên; nhà trường với cộng đồng; tạo cơ hội để học sinh, sinh viên chia sẻ kiến thức, hiểu biết của mình, qua đó phát triển các kĩ năng của học sinh, sinh viên. Các loại hình câu lạc bộ gồm: Câu lạc bộ văn hóa nghệ thuật; Câu lạc bộ thể dục thể thao; Câu lạc bộ học thuật; Câu lạc bộ võ thuật; Câu lạc bộ hoạt động thực tế; Câu lạc bộ trò chơi dân gian...
b) Đánh giá ưu điểm, hạn chế về nội dung, phương pháp giáo dục quyền con người tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và nguyên nhân
Ưu điểm
Một là, việc dạy và học về quyền con người đã được chú trọng và đưa vào những môn học chính thức cho sinh viên toàn trường như môn Giáo dục pháp luật hoặc được thể hiện rõ nét trong chương trình đào tạo của một số khoa như: Giáo dục công dân, Giáo dục chính trị, Giáo dục đặc biệt, Giáo dục mầm non, Giáo dục tiểu học, Công tác xã hội.
Hai là, nội dung giáo dục quyền con người đã được tích hợp lồng ghép linh hoạt trong hầu hết các môn đang giảng dạy của nhà trường thông qua các ví dụ minh họa, trường hợp nghiên cứu hoặc tình huống có vấn đề trong dạy học. Ngoài ra, nội dung này còn thường xuyên được đưa vào trong quá trình xây dựng nội dung dạy học tích hợp liên môn hoặc lồng ghép trong các hoạt động trải nghiệm, hoạt động câu lạc bộ của trường.
Ba là, việc sử dụng linh hoạt các phương pháp, kỹ năng dạy học của đội ngũ giảng viên của trường theo hướng phát triển năng lực của sinh viên đã giúp cho việc dạy và học về quyền con người không chỉ dừng lại ở lý thuyết, sách vở mà đã thể hiện việc giảng viên trao quyền cho sinh viên, tham gia hành động thể hiện quyền của mình trong chính từng tiết học hoặc trong các hoạt động hằng ngày của sinh viên tại trường. Sinh viên được trải nghiệm các quyền của mình trong thực tiễn, qua đó giúp họ cảm thấy tự tin trong việc sử dụng ngôn ngữ quyền để giải quyết các bất đồng và giải quyết các tình huống phức tạp trong cuộc sống.
Bốn là, không gian làm việc và học tập tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội là một không gian mở. Từ Ban Giám hiệu nhà trường, các phòng, ban của trường, các trung tâm nghiên cứu, viện nghiên cứu, đến các khoa giảng dạy trực tiếp… đều cởi mở hợp tác trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng, tôn trọng nhân phẩm, danh dự của nhau, không phân biệt đối xử giữa lãnh đạo với giảng viên, nhân viên nhà trường, giữa giảng viên và sinh viên. Thực sự trường đã trở thành một cộng đồng trường học thân thiện, tôn trọng và bảo vệ quyền của nhau.
Năm là, bước đầu sinh viên sư phạm đã hiểu được quyền của mình, bên cạnh đó còn chủ động tham gia hoạt động từ thiện và tham gia hỗ trợ thực hiện các quyền của người khác, đặc biệt là đối với trẻ em yếu thế trong xã hội. Cụ thể sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội đã thành lập và duy trì hoạt động động của câu lạc bộ dạy học tình nguyện cho làng trẻ SOS, tham gia hiến máu nhân đạo, tham gia thanh niên tình nguyện... Các em còn sớm ý thức được việc bảo vệ quyền con người của mình cũng chính là bảo vệ môi trường sống luôn xanh, sạch, đẹp - chia sẻ với nhau về cách tiêu dùng thông minh, giảm thiểu sử dụng đồ nhựa khó phân hủy hoặc nên sử dụng các đồ tái chế hoặc biến những đồ nhựa dùng một lần thành các đồ dùng học tập, thành các mô hình trực quan để dạy học, hoặc những vật trang trí xinh xắn, bắt mắt.
Hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù việc giáo dục quyền con người ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội bước đầu đã thực hiện được việc giảng dạy và tạo ra một môi trường đảm bảo quyền con người được tôn trọng và bảo vệ, song vẫn chưa thật sự tương xứng với nhiệm vụ trọng trách của trường trước xã hội, vẫn còn một số hạn chế nhất định.
Thứ nhất, hiện nay môn Giáo dục pháp luật dạy cho sinh viên toàn trường đã có nội dung về quyền con người nhưng trên thực tế thời lượng (5 tiết) dành cho chuyên đề này còn quá ít. Bên cạnh đó, trong 24 khoa của trường mới chỉ có khoa Lí luận Chính trị - Giáo dục công dân với mã ngành Giáo dục công dân là có môn học “Pháp luật về quyền con người và quyền trẻ em”, với thời lượng giảng dạy cũng chỉ 30 tiết.
Thứ hai, tài liệu giáo trình về quyền con người còn rất hạn chế. Kho học liệu về quyền con người mới chỉ dừng lại ở các quyển sách in các công ước quốc tế hoặc điều luật về quyền trẻ em mà chưa thực sự được viết dưới dạng một nội dung nghiên cứu và giảng dạy, có hệ thống câu hỏi gợi mở để giảng viên và sinh viên đều có thể tự nghiên cứu. Kho học liệu trực tuyến cũng còn nhiều hạn chế chủ yếu là kho học liệu của nước ngoài của các trường học hoặc các tổ chức phi chính phủ. Điều này làm cho việc phổ cập nội dung giáo dục quyền con người cũng bị hạn chế.
Thứ ba, vì thực tế giáo trình, tài liệu của nội dung quyền con người còn hạn chế nên việc sử dụng các phương pháp dạy học tối ưu phù hợp nhất với nội dung dạy học này vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Phương pháp đước sử dụng chủ yếu là trích luật, trích các điều khoản trong công ước làm cho việc giảng dạy nội dung này trở nên khô cứng, chưa tạo được tính hấp dẫn cho người học.
Thứ tư, các giảng viên giảng dạy nội dung này chưa được đào tạo chuyên sâu, hầu hết là các giảng viên được đào tạo từ Khoa Luật, Khoa Chính trị, Khoa Triết học, hoặc các giảng viên đang giảng dạy các môn lý luận chính trị tại các trường đại học... Do vậy, các thầy cô đang dạy nội dung quyền con người bằng nhiệt huyết của bản thân, bằng sự tìm tòi mày mò và bằng ý muốn chủ quan của cá nhân để xây dựng chương trình môn học và tự tổ chức cách thức giảng dạy. Điều đó cũng là một rào cản trong việc tìm kiếm những giảng viên kế cận hoặc tìm cách khai thác sâu trong các nội dung về quyền con người.
Thứ năm, các nguồn kinh phí của Nhà nước và nhà trường đầu tư cho việc tổ chức giảng dạy, tuyên truyền, giáo dục quyền con người còn hạn chế nên việc tổ chức các hội thảo, thực hiện các dự án nghiên cứu về nội dung này còn gặp nhiều khó khăn.
2. Giải pháp xác định nội dung, phương pháp giáo dục quyền con người tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
a) Giải pháp xác định nội dung giáo dục quyền con người
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về ý nghĩa của việc giáo dục quyền con người
Giảng viên cần xác định lợi ích của việc giáo dục quyền con người, quyền trẻ em cho bản thân trẻ ở các cấp học. Việc học và hiểu về quyền con người ngay từ các cấp học thấp như mầm non, tiểu học sẽ hình thành cho các em thói quen biết tự bảo vệ mình, biết bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình khi cần thiết, thậm chí biết lên án, đấu tranh phê phán những cái xấu, cái tiêu cực trong xã hội, biết giúp đỡ và hỗ trợ người khác bảo vệ quyền của họ. Các thế hệ mầm non đó chính là nền tảng để triển khai các giá trị dân chủ, phát triển xã hội công dân trong tương lai.
Vì thế, với tư cách là các nhà giáo dục, sinh viên sư phạm phải thật sự nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục quyền con người cho học sinh của họ càng sớm càng tốt, dù ở cấp học nào; cần tạo điều kiện cho học sinh của họ tham gia vào các môi trường tôn trọng quyền (trường học, cộng đồng) - nơi ý kiến và quyết định của các em được ghi nhận và tôn trọng; hỗ trợ các em hiểu về môi trường quốc gia và toàn cầu, trang bị kiến thức và kĩ năng để có thể hành động bảo vệ quyền của chính mình ở các cấp độ khác nhau.
Giảng viên cũng cần nhận thức đúng đắn lợi ích của việc giáo dục quyền con người, quyền trẻ em cho giáo viên và các nhà giáo dục. Bản thân các nhà giáo dục, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam về quyền con người cần có nhiều cuộc hội thảo để trao đổi, thảo luận để xây dựng khung chương trình phổ quát và có tính hệ thống đối với từng cấp học từ mầm non đến đại học. Điều đó sẽ khắc phục được những khác biệt trong quan điểm và tư tưởng về quyền con ngưởi từ trước đến nay; tránh tình trạng dạy chồng chéo giữa các cấp học; tránh việc giáo dục một cách tự phát, rời rạc, không có tính liên tục và thường xuyên.
Thứ hai, bản thân các giảng viên cần tự học tập và trang bị cho mình những tri thức, kĩ năng đầy đủ về quyền con người, các kĩ năng cần thiết để bảo vệ quyền con người khi bị xâm phạm
Khi chưa thể trông chờ một chương trình tổng thể về giáo dục quyền con người trong hệ thống giáo dục quốc dân thì mỗi nhà giáo dục đồng thời phải nhanh chóng lấp đầy tri thức về quyền con người cũng như cách thức đấu tranh, bảo vệ quyền con người. Từ đó mới có đủ sự thông tuệ, hiểu biết rõ nét tường minh, thuyết phục chính mình trước khi đi giảng giải và thuyết phục cho người khác. Hơn nữa, tri thức và kĩ năng về bảo vệ quyền con người mà mỗi thầy cô tích lũy được chính là cơ sở nền để định hướng cho trò, thậm chí giảng dạy theo phương pháp noi gương.
Việc hiểu càng rõ các nội dung về quyền con người càng giúp các thầy cô dễ dàng trong việc tìm các ví dụ minh họa gắn với thực tiễn, gần gũi trong đời sống thực của người học. Lý luận gắn liền với thực tiễn là bài học sống động nhất. Muốn có bài học như vậy buộc nhà giáo dục phải có hiểu biết đa chiều về cùng một vấn đề, phải nhìn thấy những nội dung nghiên cứu đó cùng những tình huống rất đời thường, có như vậy nhà giáo dục mới thực sự đưa những kiến thức suông thành những kiến thức bổ ích cần thiết cho cuộc sống của mỗi người học.
Thứ ba, hình thành các nhóm nghiên cứu để thường xuyên trao đổi, chia sẻ học hỏi lẫn nhau giữa các giáo viên
Việc hình thành các nhóm nghiên cứu là một việc làm cần thiết đối với bất cứ thầy cô đang giảng dạy và nghiên cứu lĩnh vực nào. Bởi các nhóm nghiên cứu này sẽ hỗ trợ và tương tác với nhau để tạo ra những sản phẩm nghiên cứu hữu ích. Một người nghiên cứu độc lập đôi khi dễ bị bế tắc trong chính suy nghĩ của mình nhưng có nhiều người cùng nghiên cứu một vấn đề thì chắc chắn vấn đề đó sẽ được xem xét một cách toàn diện. Quyền con người, giáo dục quyền con người lại là một vấn đề mới mẻ nên càng cần những nhóm nghiên cứu, để hỗ trợ và tương tác tranh luận thường xuyên, đảm bảo vấn đề chênh lệch trong nghiên cứu, góc nhìn trái ngược về học thuật sẽ được giải quyết và xích lại gần nhau để tìm tiếng nói đồng thuận.
b) Giải pháp xác định phương pháp giáo dục quyền con người tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Một là, khuyến khích và phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu của sinh viên, học viên
Việc học sẽ chỉ hiệu quả nếu giảng viên yêu cầu sinh viên tìm hiểu trước nội dung khi tham gia lớp học. Yêu cầu này từ trước đến giờ bất cứ thầy cô nào cũng làm nhưng ngày nay nhiệm vụ này cần được cụ thể hóa hơn bằng cách: giáo viên phải giao nhiệm vụ cụ thể và yêu cầu có sản phẩm cụ thể. Với thời đại công nghiệp 4.0 buộc giáo viên và sinh viên cũng phải chuyển mình theo công nghệ số. Vậy giáo viên cần tận dụng mạng xã hội để giao nhiệm vụ cụ thể, thậm chí giới thiệu các nguồn truy cập thông tin chính thống để sinh viên dễ dàng tìm kiếm và chuẩn bị đầy đủ trước khi tham gia buổi học.
Hai là, giảng viên cần tạo ra môi trường học tập cởi mở, tôn trọng thể hiện và biểu đạt ý kiến cá nhân, tránh áp đặt ý muốn của mình lên người khác
Bản thân giảng viên phải làm gương cho sinh viên trong quá trình dạy học của mình: (1) luôn lắng nghe, tôn trọng và kiên trì nghe hết các ý kiến của người học, (2) không được thể hiện thái độ thiên vị, phân biệt đối xử giữa các sinh viên giỏi, ngoan và các sinh viên kém, yếu. Việc của giảng viên là không được bỏ lại ai phía sau, mỗi người học là một công trình nghiên cứu độc lập của nhà giáo dục, nếu từ bỏ trường hợp nào tức là nhà giáo dục đó đã chấp nhận đầu hàng và thất bại, (3) công bằng trong đánh giá và nhận xét các kết quả phấn đấu của học trò, (4) luôn thể hiện việc giải quyết mâu thuẫn của bản thân thầy cô bằng cách thương lượng, thỏa thuận để đạt mục đích của mình thay bằng dùng quyền lực để bắt người khác phải phục tùng mình. Môi trường học thân thiện, cởi mở, bình bẳng, dân chủ, công bằng, tôn trọng quyền của nhau luôn là một môi trường học lý tưởng và ở đó rất cần những người thầy lý tưởng.
Ba là, giảng viên nên sử dụng các phương pháp dạy học mang tính tương tác cao
Các phương pháp dạy học mang tính tương tác cao như: thảo luận, tranh biện, dạy học dự án, nêu và giải quyết vấn đề, sơ đồ tư duy, hoặc sử dụng phương pháp trực quan, đóng vai... có như vậy sinh viên, học viên mới có thể lĩnh hội tri thức mới về quyền con người, nhận diện, phân biệt được các hành vi biểu hiện các quyền cơ bản của mình, biết phê phán, lên án với những hành vi vi phạm quyền con người, quyền trẻ em. Thông qua hoạt động, thông qua những trải nghiệm mạnh mẽ về cảm xúc sẽ làm cho người học có ấn tượng sâu sắc về những cái mình đã trải qua và những tri thức đó sẽ thẩm thấu một cách tự nhiên vào trong trí óc của người học.
Bốn là, khuyến khích sinh viên, học viên tham gia vào đánh giá quá trình học tập của bản thân để tìm hiểu mục tiêu cần cải thiện và cách đạt được chúng
Việc kiểm tra đánh giá ngày nay cần phải thay đổi rất nhiều, thay vì cho điểm và so sánh điểm của người học với nhau thì ngày nay giảng viên cần có các cách kiểm tra đánh giá thường xuyên cả quá trình và đánh giá định kì. Khuyến khích người học tham gia đánh giá lẫn nhau trong quá trình làm việc nhóm, khuyến khích người học có nhật kí để ghi lại những tiến bộ hoặc những khó khăn của bản thân. Việc học tập và rèn luyện các kĩ năng bảo vệ quyền con người không phải là một sớm một chiều mà thành công. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực rất nhiều của người học, nhưng bên cạnh đó không thể thiếu vai trò định hướng, hỗ trợ của giảng viên trong quá trình chinh phục những tri thức mới.
TS. Trần Thị Thu Huyền
Khoa Lý luận chính trị - Giáo dục công dân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 2/2022
----
Tài liệu tham khảo
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng, Nghị Quyết 29-NQ/TW Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, ngày 4 tháng 11 năm 2013.
2. Vũ Ngọc Bình, Sách bỏ túi về nhân quyền, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình giáo dục phổ thông - chương trình tổng thể 2018 (Ban hành kèm thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018).
4. Hệ thống các văn kiện quốc tế về nhân quyền (tiếng Anh, tại website Văn phòng Cao uỷ Liên hợp quốc về nhân quyền, http://www.unhcr.ch).
5. Khoa Luật đại học Quốc gia Hà Nội, Luật nhân quyền quốc tế - Những vấn đề cơ bản, NXB Lao động xã hội, 2010.
6. Chu Hồng Thanh, Vũ Công Giao, Tường Duy Kiên, Pháp luật quốc gia và quốc tế về bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007.
7. UNICEF Hà Nội và Trung tâm nghiên cứu nhân quyền thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Tài liệu tập huấn về quyền trẻ em, 2002.