Bài viết giới thiệu nội dung, phương pháp giảng dạy môn học quyền con người tại khoa Luật, trường Đại học Cần Thơ.Trên cơ sở đó, tác giả đánh giá ưu điểm, hạn chế khi giảng dạy học phần này tại cơ sở đào tạo và đưa ra những kiến nghị để khắc phục những hạn chế.

1. Khái quát chung về giáo dục quyền con người tại khoa Luật, trường Đại học Cần Thơ

Ngày 19 tháng 12 năm 2011 Liên Hiệp Quốc thông qua Tuyên bố về Giáo dục và Đào tạo Nhân quyền với phương châm “giáo dục và đào tạo về nhân quyền cần thiết cho việc thúc đẩy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu tất cả các quyền con nguời và tự do căn bản cho tất cả mọi người”[1]. Giáo dục về quyền con người đã trở thành một xu thế tất yếu trên toàn thế giới và vấn đề nhân quyền ngày càng được quan tâm bởi các tầng lớp trong xã hội, điều đó dẫn đến một lối tư duy và hành động mới về nhân quyền trong đó nhu cầu tìm hiểu về nhân quyền cũng như nhu cầu bảo vệ nhân quyền ngày càng có xu hướng gia tăng ở cấp độ cá nhân, tổ chức và toàn xã hội [2]. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và chú trọng đến việc giáo dục quyền con người. Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1309/QĐ – TTg ngày 05/09/2017 về thực hiện Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. Ngày 21/12/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 34/CT-TTg về việc tăng cường thực hiện Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Trường Đại học Cần Thơ là trường đại học trọng điểm của khu vực đồng bằng song Cửu Long, được thành lập ngày 31/3/1966 với tên gọi ban đầu là Viện Đại học Cần Thơ, là trường công lập đa ngành và trọng điểm trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, là thành viên của tổ chức Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học Đông Nam Á (ASEAN University Network - AUN) từ tháng 07/2013. Từ một số ít ngành đào tạo ban đầu, đến nay, theo số liệu thống kê đến Quý 1 năm 2021, Trường có 109 CTĐT (99 CTĐT đại trà, 02 CTĐT tiên tiến và 08 CTĐT chất lượng cao); 48 CTĐT trình độ thạc sĩ (trong đó, 4 CTĐT liên kết với nước ngoài đào tạo bằng tiếng Anh) và 19 CTĐT trình độ tiến sĩ. Về quy mô người học, hiện có 44.827 người đang theo học. Trong số đó, 41.606 đại học, 2.390 sau đại học, 45 người học nước ngoài, 876 đối tượng khác [3].

Xuất phát từ nhu cầu nguồn nhân lực pháp luật nhằm đáp ứng công cuộc xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, tháng 9 năm 1998 Bộ môn Luật trực thuộc trường Đại học Cần Thơ được thành lập. Bộ môn bắt đầu tuyển sinh và đào tạo ngành luật ở bậc đại học khóa đầu tiên từ năm học 1999-2000 (khóa 25 của trường Đại học Cần Thơ) với ba chuyên ngành là Luật hành chính, Luật thương mại và Luật tư pháp. Đến tháng 2 năm 2000 Khoa Luật được thành lập trên cơ sở Bộ môn Luật. Sau một thời gian chuẩn bị các điều kiện theo quy định, đầu năm học 2011-2012 trường Đại học Cần Thơ được phép đào tạo cao học ngành Luật kinh tế. Tính đến thời điểm hiện tại, Khoa Luật được nhà trường giao phụ trách đào tạo chuyên môn đối với 01 ngành thạc sĩ là Luật kinh tế và 01 ngành đào tạo bậc đại học là ngành luật. Khoa đã dần xây dựng, tích lũy uy tín trong hoạt động đào tạo luật ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói chung[4].

Khoa Luật trường Đại học Cần Thơ nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của giáo dục quyền con người nên đã tách nội dung liên quan đến quyền con người thành một môn học độc lập trong chương trình đào tạo để giảng dạy cho sinh viên chuyên ngành luật. Điều này góp phần không nhỏ vào việc triển khai các quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục quyền con người trong hệ thống giáo dục quốc dân mà cụ thể là ở bậc đại học.

Thực tế đã chứng minh rằng, nếu sinh viên luật được trang bị kiến thức về quyền con người sớm thì các bạn biết và hiểu được quyền của mình và đồng thời nhằm thúc đẩy sự tôn trọng quyền con người và tránh vi phạm quyền con người của người khác. Hơn nữa, sinh viên luật sau khi tốt nghiệp với tấm bằng cử nhân luật có thể làm nhiều nghề khác nhau như thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên…. Mục đích cao cả của những ngành nghề này đều hướng đến mục tiêu chung là bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý. Do đó khi sinh viên được trang bị kiến thức về quyền con người ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường thì sinh viên sẽ có được kiến thức vững chắc để thực hiện tốt hoạt động nghề nghiệp trong tương lai, có thể bảo vệ được quyền con người cho chính mình và bảo vệ được quyền con người cho người khác.

Tóm lại, “Ý nghĩa cốt lõi của giáo dục quyền con người là giúp mọi người hiểu về quyền con người, coi trọng quyền con người và có năng lực chịu trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền con người.[5]

Vòng chung kết cuộc thi Olympic Luật học lần thứ VI năm 2022 do Khoa Luật – Trường Đại học Cần Thơ

phối hợp cùng Đoàn Luật sư Tp.HCM đồng tổ chức. Nguồn: sl.ctu.edu.vn.

2. Nội dung và phương pháp giảng dạy môn học quyền con người

a) Nội dung

Học phần quyền con người cung cấp cho người học “những kiến thức toàn diện về lý luận và pháp lý về quyền con người, bao gồm:

  • Khái niệm, nguồn gốc, tính chất, đặc điểm, phân loại và lịch sử phát triển của tư tưởng về quyền con người;
  • Khái quát luật quốc tế về quyền con người cũng như mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con người;
  • Các quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị cũng như kinh tế, văn hóa, xã hội theo quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam;
  • Quyền con người của nhóm người dễ bị tổn thương theo quy định của pháp luật quốc tế và Việt Nam;
  • Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người;
  • Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền con người.

Với những nội dung trên môn học quyền con người được thiết kế thành 30 tiết học giảng dạy trong 15 tuần học cho sinh viên ở học kỳ hai của năm học thứ nhất hoặc kỳ đầu của năm học thứ hai tùy theo kế hoạch học tập mà sinh viên tự xây dựng. Sinh viên sẽ được trang bị kiến thức lý luận cũng như pháp lý về quyền con người và có khả năng xử lý đúng đắn các vấn đề, những tình huống liên quan đến quyền con người trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong hoạt động nghề nghiệp sau này. Bên cạnh kiến thức, sinh viên cũng được rèn luyện các kỹ năng thuyết trình, phản biện, làm việc nhóm, sử dụng công cụ tra cứu và phải có thái độ tích cực trong việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.

b) Phương pháp giảng dạy môn học quyền con người

Đặc thù nội dung giảng dạy về quyền con người khá rộng bao trùm trên tất cả các lĩnh vực, do đó, để đảm bảo việc giảng dạy quyền con người một cách có hiệu quả đặc biệt trong môi trường giáo dục đại học với phương châm “lấy người học làm trung tâm” và tăng cường khả năng “tự học, tự nghiên cứu” của sinh viên, khoa Luật, trường Đại học Cần Thơ đã áp dụng một số phương pháp giảng dạy cho học phần quyền con người cụ thể như sau:

Phương pháp thuyết giảng kết hợp với minh họa, đặt câu hỏi

Phương pháp này được sử dụng trong quá trình giảng dạy tất cả các nội dung học phần nhằm mục đích cung cấp những kiến thức mang tính chất lý luận của mỗi bài học cho sinh viên. Để đảm bảo khả năng tự nghiên cứu, học tập của sinh viên cần phải cung cấp cho các sinh viên các kiến thức nền liên quan đến lý luận cũng như pháp lý về quyền con người để sinh viên dễ tiếp thu và phát triển. Bên cạnh đó giảng viên cũng thường nêu câu hỏi để yêu cầu sinh viên trả lời từ đó làm cho sinh viên tập trung hơn vào bài học chẳng hạn như sự khác biệt giữa quyền pháp lý và đạo đức? Bạn có thể nêu một quyền nào đó là quyền hợp pháp nhưng lại vi phạm đạo đức hay không?...

Phương pháp nghiên cứu tình huống – tranh luận

Trên cơ sở nắm bắt được các kiến thức nền thông qua phương pháp giảng dạy ở trên, sinh viên sẽ được tiếp cận các tình huống và vấn đề cụ thể để nghiên cứu và thảo luận. Trong quá trình nghiên cứu tình huống, giảng viên sẽ mời những sinh viên khác nhau đọc sự kiện và sau đó nhận ra vấn đề hoặc vấn đề liên quan đặc biệt là dưới góc độ pháp lý. Các nghiên cứu tình huống thường có thể được thực hiện bằng cách chia người tham gia thành hai hoặc ba nhóm và mời các nhóm xem xét các lập luận hoặc giải pháp phù hợp. Phương pháp nghiên cứu tình huống thường dựa trên các trường hợp thực tế, nhưng cũng có thể dựa trên các giả thuyết. Ưu điểm của nghiên cứu tình huống là giúp sinh viên phát triển logic, kỹ năng tư duy phản biện và ra quyết định. Chẳng hạn như liên quan đến quyền sống có thể đặt vấn đề liên quan như có nên bỏ hình phạt tử hình hay không? Việc phá thai có phải là vi phạm quyền sống hay không? Vấn đề hợp pháp mại dâm…Tuỳ theo nội dung từng bài sẽ cho thảo luận từng nhóm nhỏ hay thảo luận chung cả lớp. Phương pháp này một mặt giúp sinh viên năng động hơn đồng thời có thể phát huy khả năng tự học của sinh viên.

Phương pháp thuyết trình nhóm

Phương pháp này được thực hiện bằng cách đưa ra cho sinh viên một loạt các chủ đề có liên quan đến quyền con người để chuẩn bị trình bày. Sinh viên được yêu cầu nghiên cứu chủ đề bằng cách tham khảo sách, tạp chí hoặc các bài báo về chủ đề này. Sau đó, sinh viên sẽ trình bày một bài thuyết trình trước cả lớp, và các bài thuyết trình có thể được thảo luận bởi các thành viên trong lớp. Phương pháp này nhằm phát huy khả năng làm việc tập thể và khả năng trình bày, tranh luận của sinh viên. Hơn nữa, đối với phương pháp thuyết trình nhóm sẽ thúc đẩy sinh viên tự nghiên cứu, tìm tòi và nắm được vấn đề một cách đầy đủ và chắc chắn.

Bên cạnh đó nội dung về quyền con người còn được lồng ghép trong những học phần khác như Luật hiến pháp, Tố tụng hình sự, Tố tụng hành chính… khi đó phương pháp giảng dạy quyền con người còn có thể được thực hiện với hình thức phiên toà giả định.

3. Đánh giá ưu điểm, hạn chế về giảng dạy môn học quyền con người tại khoa Luật, trường Đại học Cần Thơ

a) Ưu điểm

Thứ nhất, môn học quyền con người đã được đưa vào khung chương trình đào tạo cử nhân luật ở cả ba chuyên ngành mà khoa luật đào tạo từ rất sớm ( năm 2015). Quyền con người là môn học độc lập và bắt buộc cho sinh viên cả ba chuyên ngành Luật tư pháp, Luật hành chính, Luật thương mại.Vì thế cho nên, sinh viên luật ở bất kỳ chuyên ngành nào cũng được tiếp cận một cách bình đẳng như nhau về giáo dục quyền con người tại khoa Luật, trường Đại học Cần Thơ.

Thứ hai, nội dung giảng dạy về quyền con người không chỉ bó hẹp trong môn quyền con người mà còn được giảng dạy lồng ghép trong các học phần khác và việc giảng dạy sử dụng đa dạng, linh hoạt các phương pháp khác nhau.

Thứ ba, đội ngũ giảng viên được đào tạo bài bản về quyền con người, thường xuyên tham gia các lớp tập huấn nâng cao kiến thức về quyền.

Thứ tư, cơ sở vật chất và trang thiết bị của trường đầy đủ và hiện đại nên tạo điều kiện rất tốt cho sinh viên có thể nghiên cứu về quyền con người bằng nguồn tài liệu tham khảo truyền thống tại thư viện trường, thư viện khoa và có cả nguồn tài liệu online để đáp ứng việc tra cứu tài liệu trong thời đại công nghệ 4.0.

b) Hạn chế

Thứ nhất, một số lớp học phần hiện nay có số lượng sinh viên khá đông dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng đa dạng các phương pháp giảng dạy quyền con người.

Thứ hai, khoa Luật trường Đại học Cần Thơ chưa có giáo trình hay tập bài giảng riêng cho học phần quyền con người mặc dù môn học này đã trở thành một môn học độc lập từ năm 2015. Hiện nay ở khoa vẫn sử dụng Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người của khoa Luật, đại học quốc gia Hà Nội.

Thứ ba, khi giảng dạy về quyền con người thì nhiều nội dung có liên quan đến luật quốc tế nhưng sinh viên lại học môn học này vào học kỳ hai của năm nhất hoặc học kỳ một của năm hai, khi đó sinh viên chưa hề có bất kỳ kiến thức nào của luật quốc tế nên đôi khi sẽ khó tiếp thu những nội dung liên quan đến luật quốc tế.

4. Kiến nghị

Thứ nhất, cần giảm số lượng sinh viên mỗi lớp để thuận lợi cho việc áp dụng đa dạng các phương pháp giảng dạy. Có thể linh hoạt áp dụng các phương pháp giảng dạy về quyền con người đã và đang áp dụng hiện nay trên thế giới như:

Sử dụng các nguồn lực của cộng đồng (Use of community resource persons) mang lại trải nghiệm thực tế và phù hợp cho sinh viên. Giảng viên nên xác định những người được đào tạo hoặc chuyên gia trong lĩnh vực cụ thể đang thảo luận (Ví dụ: thẩm phán, luật sư, công an, công chức, lãnh đạo cơ quan nhà nước...). Trước khi trình bày, những người này được thông báo ngắn gọn về những việc cần làm, và những người tham gia về những điều cần hỏi và quan sát. Giảng viên có thể cùng giảng dạy với người hướng dẫn và điều này rất có giá trị vì với tư cách là chuyên gia trong lĩnh vực của họ, họ có nhiều khả năng được lắng nghe hơn giảng viên. Một phương pháp hữu ích khác là mời những người này đóng vai trò của chính mình trong một mô phỏng, hoặc yêu cầu sinh viên đóng vai và sau đó cho những người này nhận xét về hiệu suất của họ. Ví dụ có thể là cho phép một sĩ quan cảnh sát quan sát các sinh viên mô phỏng một vụ bắt giữ và sau đó yêu cầu sĩ quan đó trả lời phỏng vấn về bài tập. Những người làm công tác thực tiễn là nguồn nhân lực rất có giá trị vì họ có thể cung cấp kinh nghiệm và kiến ​​thức không có trong sách vở.
Đi thực tế (field trips): Các chuyến đi thực tế rất hữu ích vì giảng viên có thể chọn những địa điểm thú vị và phù hợp để sinh viên đến thăm (ví dụ: trại giam, trại trẻ mồ côi, bệnh viện, vùng sâu, vùng xa, nông thôn…). Sinh viên được chuẩn bị trước chuyến thăm và được yêu cầu để tìm ra những vấn đề cụ thể liên quan đến quyền con người. Giảng viên cũng có thể yêu cầu sinh viên ghi lại phản ứng của mình vào một phiếu quan sát đã được chuẩn bị trước, để các phiếu này có thể tạo cơ sở cho cuộc thảo luận khi sinh viên trở về sau chuyến đi thực tế như khi đi đến trại giam hoặc nông thôn thì có thể phát hiện vấn đề gì liên quan đến quyền con người còn hạn chế? [6]

Thứ hai, cần gấp rút biên soạn giáo trình hoặc tập bài giảng riêng của khoa Luật cho học phần quyền con người.

Thứ ba, giảng viên phải tự mình bồi dưỡng, nâng cao kiến thức về quyền con người cũng như các kỹ năng, kiến thức về sư phạm để có thể giảng dạy cho sinh viên về pháp luật quốc tế có liên quan đến quyền con người một cách dễ tiếp cận nhất.

Cuối cùng, cần lồng ghép nội dung về quyền con người thông qua các buổi sinh hoạt đầu khoá, tổ chức các Phiên toà giả định qua đó nhấn mạnh đến góc độ quyền con người. Bên cạnh đó, có thể kết hợp việc tăng cường thực hành, đưa nội dung quyền con người lồng ghép trong các hoạt động cho sinh viên như triển khai các hoạt động của Trung tâm Luật so sánh, giảng dạy pháp luật cộng đồng, tư vấn pháp luật…

Võ Thị Phương Uyên

Nguyễn Nam Phương

Bộ môn Luật Hành Chính, Khoa Luật, trường Đại học Cần Thơ


[1] Điều 1 Tuyên bố của Liên Hiệp Quốc về Giáo dục và đào tạo nhân quyền năm 2011

[2] Vũ Thị Phượng: Nội dung, phương pháp giáo dục quyền con người tại khoa Luật, trường Đại học Công Đoàn, Tạp chí điện tử Pháp luật về quyền con người, http://qcn.ciks.vn/Content/noi-dung-phuong-phap-giao-duc-quyen-con-nguoi-tai-khoa-luat-truong-dai-hoc-cong-doan-584216, [ ngày truy cập 15-09-2022]

[3] Giới thiệu tổng quan về trường đại học Cần Thơ, https://www.ctu.edu.vn/gioithieu/tong-quan.html, [ngày truy cập 14-09-2022]

[4] Báo cáo tự đánh giá chương trình đào tạo chuyên ngành luật, khoa Luật, trường Đại học Cần Thơ

[5] Chu Thi Thúy Hằng, Giáo dục quyền con người hướng đến các mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc, Tạp chí pháp luật về quyền con người, số 2 năm 2022, tr.76-77

[6] David Mc Quoid-Mason, Method of teaching human rights, http://health-rights.org/index.php/cop/item/methods-of-teaching-human-rights, [ngày truy cập 17-09-2022]