Trong điều kiện một Đảng cầm quyền, quyền lực tất yếu phải được kiểm soát, giám sát từ phía nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và truyền thông. Vai trò kiểm soát, giám sát của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và truyền thông cần được nhận thức rõ và thực hiện tốt để góp phần đấu tranh, phòng chống những hiện tượng tiêu cực trong thực thi quyền lực.
Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ X
1. Tính tất yếu của việc nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và truyền thông kiểm soát, giám sát quyền lực trong điều kiện một Đảng cầm quyền ở Việt Nam
Một là, kiểm soát, giám sát quyền lực trong điều kiện một Đảng cầm quyền ở Việt Nam là tất yếu nhằm ngăn chặn sự tha hóa của quyền lực.
Thực tiễn chính trị cho thấy quyền lực luôn có xu hướng bị tha hóa. Do đó, tất yếu phải kiểm soát quyền lực. Quyền lực chỉ có thể kiểm soát bằng quyền lực, có thể là quyền lực trong hệ thống hoặc quyền lực ngoài hệ thống. Trong điều kiện một Đảng cầm quyền, cần có cơ chế kiểm soát quyền lực đủ mạnh để ngăn chặn tình trạng lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, tham ô, tham nhũng, sử dụng quyền lực phục vụ lợi ích cá nhân, lộng quyền, lạm quyền…
Hai là, nhân dân ủy quyền cho Đảng, nhân dân có quyền kiểm soát, giám sát Đảng nhằm làm cho Đảng thực hiện đúng sự ủy quyền và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Trong xã hội hiện đại, mọi nhà nước dân chủ đều khẳng định, thừa nhận giá trị phổ biến: Nhân dân là chủ, Nhân dân làm chủ, quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Để thực hiện quyền làm chủ của mình, Nhân dân ủy quyền cho đại diện chính trị của mình là đảng chính trị quyền thiết lập, sử dụng bộ máy nhà nước phục vụ lợi ích của Nhân dân. Đại diện chính trị của Nhân dân chỉ được thực hiện những quyền mà Nhân dân ủy quyền cho. Tuy nhiên, thực tiễn chính trị cho thấy, các chủ thể được ủy quyền khi nắm được quyền lực trong tay thì luôn có xu hướng bị tha hóa với các biểu hiện như lạm quyền, lộng quyền, tiếm quyền và họ mặc nhiên sử dụng quyền đến khi nào gặp phải giới hạn.
Ba là, nhân dân là chủ, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân có quyền kiểm soát, giám sát các cơ quan nhà nước trong quá trình thực thi quyền lực.
Kiểm soát quyền lực nhà nước của Nhân dân là phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài nhằm mục đích kiểm soát phạm vi, giới hạn hoạt động của nhà nước theo quy định của Hiến pháp, pháp luật. Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm tăng trách nhiệm và hiệu quả thực thi quyền lực nhà nước, bảo đảm các quyền tự do cơ bản của công dân.
Kiểm soát quyền lực nhà nước của Nhân dân mang tính khách quan, độc lập, công khai bởi Nhân dân đứng bên ngoài tổ chức bộ máy nhà nước, xem xét một cách toàn diện, đánh giá, nhận xét, kết luận một cách khách quan đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước. Kiểm soát quyền lực nhà nước của Nhân dân không mang tính quyền lực nhà nước, không mang tính bắt buộc, thực hiện chủ yếu dưới các hình thức: theo dõi, phát hiện, đánh giá, nhận xét, phản biện, kiến nghị, đề nghị. Bên cạnh đó, kiểm soát quyền lực nhà nước của Nhân dân có tính linh hoạt, hiệu quả cao, có khả năng quy tụ được nhiều chuyên gia của các lĩnh vực, đại biểu của các tầng lớp nhân dân với hình thức kiểm soát vừa đa dạng, phong phú, linh hoạt và vừa ít tốn kém hơn so với hệ thống kiểm soát quyền lực của nhà nước. Hơn nữa, kiểm soát quyền lực nhà nước của Nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cho hoạt động kiểm soát trong bộ máy nhà nước.
Nhân dân có quyền năng đặc biệt trong kiểm soát quyền lực nhà nước, ngăn ngừa sự lạm quyền bởi Nhân dân là chủ thể ủy quyền nên tất yếu có quyền kiểm soát quyền lực mà họ đã ủy quyền cho các đại diện chính trị của mình. Do đó, Nhân dân tất yếu phải kiểm soát quyền lực mà mình đã ủy nhiệm. Quyền lực mà Nhân dân kiểm soát chủ yếu và trước hết là quyền lực nhà nước. Nhân dân ủy thác cho nhà nước những quyền lực nhất định để thực hiện những mục tiêu chung của cộng đồng. Vì Nhân dân ủy quyền cho nhà nước nên Nhân dân kiểm soát nhà nước, trong mối quan hệ này nhân dân là chủ thể, Nhà nước có quyền thực thi quyền lực đã được Nhân dân ủy cho.
Xuất phát từ thực tiễn: “Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của Nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ”[1] nên cần tăng cường vai trò nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và truyền thông kiểm soát, giám sát quyền lực trong điều kiện một Đảng cầm quyền ở Việt Nam.
Bốn là, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội thông qua việc thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội để kiểm soát, giám sát quyền lực.
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội kiểm soát, giám sát quyền lực theo Quyết định 217-QĐ/TW ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Giám sát và phản biện xã hội là chức năng cơ bản của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được ghi nhận trong các văn kiện Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước.
Giám sát xã hội nhằm góp phần xây dựng và thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Phản biện xã hội nhằm phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ quan Đảng, Nhà nước; kiến nghị những nội dung thiết thực, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả trong việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân; phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội.
Năm là, truyền thông có chức năng định hướng dư luận xã hội, tham gia kiểm soát, giám sát quyền lực.
Trong các chủ thể kiểm soát, giám sát quyền lực, truyền thông là chủ thể có quyền năng đặc biệt, là một mắt xích quan trọng của quá trình kiểm soát quyền lực. Truyền thông có năng lực tham gia phối hợp linh hoạt, mềm dẻo với các chủ thể khác nhằm tăng hiệu quả kiểm soát, giám sát trong điều kiện một Đảng cầm quyền. Truyền thông là diễn đàn của Nhân dân, giám sát và phản biện xã hội, phản ánh và hướng dẫn dư luận, đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật, các hiện tượng tiêu cực trong xã hội…
Truyền thông có vai trò rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, có trách nhiệm tham gia vào kiểm soát quyền lực. Gần đây, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII nêu rõ: “Phát huy vai trò, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí trong công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”[2].
2. Nội dung nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và truyền thông kiểm soát, giám sát quyền lực trong điều kiện một Đảng cầm quyền ở Việt Nam
Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và truyền thông kiểm soát, giám sát quyền lực trong điều kiện một Đảng cầm quyền ở Việt Nam là một hệ thống những cơ chế, phương thức kiểm soát quyền lực nhằm giữ cho việc thực thi quyền lực đúng mục đích, có hiệu quả.
Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và truyền thông kiểm soát, giám sát phạm vi sử dụng quyền lực của nhà nước, kiểm soát quá trình sửa đổi và thông qua Hiến pháp, kiểm soát tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và truyền thông kiểm soát, giám sát bằng bầu cử và bãi miễn đại biểu, thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, hực hiện giám sát và phản biện xã hội…
Bầu cử ở Việt Nam được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín nhằm bảo đảm cho cuộc bầu cử khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn. Các nguyên tắc bầu cử còn quy định quyền và trách nhiệm của cử tri trong khi bầu cử, trách nhiệm của Nhà nước phải đảm bảo những quy định về bầu cử.
Khiếu nại, tố cáo là các phương thức thể hiện quyền dân chủ của Nhân dân và là một trong những phương thức thực hiện quyền giám sát của Nhân dân đối với bộ máy Nhà nước. Thông qua khiếu nại, tố cáo, Nhân dân cung cấp cho các cơ quan nhà nước những thông tin, phát hiện về những việc làm vi phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Khi Nhân dân khiếu nại, tố cáo, Nhà nước có trách nhiệm, nghĩa vụ kiểm tra các hoạt động, hành vi của các cơ quan và các cán bộ, kịp thời chấn chỉnh, xử lý sai phạm, thậm chí loại trừ ra khỏi bộ máy nhà nước những người không xứng đáng.
Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và truyền thông tham gia công tác phòng, chống tham nhũng, qua đó thực hiện việc kiểm soát, giám sát quyền lực.
3. Giải pháp phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và truyền thông kiểm soát, giám sát quyền lực trong điều kiện một Đảng cầm quyền ở Việt Nam
a) Phát huy vai trò của nhân dân kiểm soát, giám sát quyền lực trong điều kiện một Đảng cầm quyền ở Việt Nam
Hoàn thiện pháp luật bầu cử theo định hướng: tăng số lượng ứng cử viên cho một đơn vị bầu cử nhằm mở rộng phạm vi lựa chọn của cử tri, hoàn thiện các quy định về giới thiệu ứng cử viên, hiệp thương, vận động tranh cử, thông tin về các ứng cử viên... Mở rộng phạm vi cơ quan, chức danh được thành lập bằng con đường bầu cử. Quy định tiêu chuẩn đại biểu và cơ cấu đại biểu sao cho bảo đảm sự hài hoà giữa yêu cầu về tiêu chuẩn đại biểu với yêu cầu về cơ cấu, thành phần đại biểu. Đại biểu phải là những người do cử tri giới thiệu và biết rõ về họ; khi được bầu phải hết sức phấn đấu cho lợi ích của Nhân dân, trước hết là cử tri nơi đã bầu ra mình. Sau bầu cử, cử tri tiếp tục giám sát hoạt động của đại biểu, có cơ chế thực hiện bất tín nhiệm đối với đại biểu do mình bầu ra, nếu thấy họ không còn xứng đáng.
Cụ thể hóa quy định: Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
Luật thực hiện dân chủ cơ sở được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện các nội dung về dân chủ, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo mọi tầng lớp nhân dân về dân chủ ở cơ sở. Thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm khơi dậy tinh thần làm chủ chính trị của đông đảo quần chúng nhân dân ở cơ sở, nhất là ở xã, phường, thị trấn.
Thực hiện Luật trưng cầu ý dân, tổ chức lấy ý kiến của Nhân dân đối vấn đề hệ trọng của đất nước hoặc của từng địa phương thông qua các hình thức bỏ phiếu trực tiếp. Xây dựng hướng dẫn chi tiết về: nội dung trưng cầu ý dân; quyền quyết định trưng cầu ý dân và trách nhiệm tổ chức trưng cầu ý dân; phổ biến, tuyên truyền trưng cầu ý dân; đánh giá và sử dụng kết quả trưng cầu ý dân.
Công khai hóa các thông tin, thủ tục hành chính để Nhân dân, cơ quan truyền thông được tiếp cận và được tham gia giám sát, kiểm tra cán bộ, đảng viên cả nơi công tác và nơi cư trú. Xây dựng cơ chế bảo vệ và khen thưởng, biểu dương những người dũng cảm đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Xử lý nghiêm minh những trường hợp trả thù, trù dập người tố cáo, đấu tranh chống tham nhũng.
b) Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội kiểm soát, giám sát quyền lực trong điều kiện một Đảng cầm quyền ở Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt giám sát và phản biện xã hội góp phần làm cho nhà nước và công chức tránh được các bệnh quan liêu, xa dân; các quyết sách, chính sách, pháp luật, đề án, dự án sẽ có tính hiệu lực và hiệu quả thực tiễn cao hơn, quá trình tổ chức thực hiện sẽ gặp được sự đồng thuận lớn hơn và có sự đảm bảo thành công bền vững hơn. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện giám sát và phản biện xã hội sẽ góp phần làm giảm và dần triệt tiêu nạn tham nhũng, tệ bè phái, lối sống cơ hội, nó có tác dụng phòng ngừa, hạn chế sự tha hóa quyền lực, hoặc sự độc đoán, chuyên quyền – xu thế mang tính tất yếu của người nắm giữ quyền lực. Do đó, các cấp ủy, tổ chức đảng tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia giám sát, phản biện xã hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức giám sát, phản biện xã hội theo hướng: Chủ động, từ sớm, từ cơ sở, dân chủ, khách quan, mang tính xây dựng; có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng giám sát theo chuyên đề, tập trung vào những chủ trương, chính sách lớn, trọng yếu, ưu tiên những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, những vấn đề dư luận xã hội quan tâm, bức xúc.
Từ đó, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội kiểm soát, giám sát quyền lực trong điều kiện một Đảng cầm quyền ở Việt Nam.
c) Nhóm giải pháp phát huy vai trò của truyền thông kiểm soát, giám sát quyền lực trong điều kiện một Đảng cầm quyền ở Việt Nam
Một là, phát triển hệ thống báo chí, nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan truyền thông, tăng cường sức mạnh, ảnh hưởng của truyền thông trong kiểm soát, giám sát quyền lực.
Quyền lực chỉ có thể được kiểm soát, giám sát bởi quyền lực. Việc thực thi quyền lực chính trị của Đảng, quyền lực của nhà nước phải được kiểm soát, giám sát bởi năng lực giám sát, phản biện xã hội, năng lực đấu tranh chống tha hóa quyền lực của các cơ quan truyền thông. Truyền thông là nhân tố, là phương tiện có sức mạnh đặc biệt to lớn trong việc định hướng nhận thức, hình thành dư luận xã hội. Các cơ quan truyền thông là một lực lượng rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả của giám sát và phản biện xã hội trong kiểm soát, giám sát quyền lực.
Hai là, nâng cao năng lực công tác của đội ngũ nhà báo.
Năng lực công tác của đội ngũ nhà báo được nâng cao sẽ tác động tích cực đến việc thực hiện các phương thức báo chí kiểm soát, giám sát quyền lực. Các phương thức cơ quan truyền thông kiểm soát, giám sát quyền lực được thực hiện thông qua sản phẩm báo chí: tin, bài phản ánh, phóng sự điều tra, bài phỏng vấn... Trong khi đó, mỗi tác phẩm báo chí đều thể hiện tài năng, tâm huyết của người làm báo.
“Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”[3]. Mỗi nhà báo là một cán bộ hoạt động trong lĩnh vực công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng, là nhà truyền thông - vận động xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước. Nhà báo là chủ thể tích cực trong quá trình họat động báo chí. Thực hiện mục tiêu nâng cao trình độ, tay nghề, mài sắc ngòi bút của nhà báo một mặt cần nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng mặt khác đề cao vai trò tự đào tạo, tự bồi dưỡng của bản thân nhà báo. Mỗi nhà báo phải nâng cao đạo đức cách mạng, tu dưỡng nhân cách, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, học tập kinh nghiệm của thế giới, thông thạo ít nhất một ngoại ngữ. Nhà báo phải học cách viết ngắn gọn, giản dị, trong sáng, dễ hiểu, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân, tránh chuộng hình thức, sáo ngữ…
Ba là, xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan truyền thông và các chủ thể khác trong quá trình kiểm soát, giám sát quyền lực.
Một mặt các cơ quan truyền thông tích cực, chủ động tham gia kiểm soát, giám sát quyền lực, mặt khác các cơ quan truyền thông cần phối hợp với các chủ thể khác để thực hiện kiểm soát, giám sát việc thực thi quyền lực đối với các cơ quan đảng, các cơ quan nhà nước, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên có thẩm quyền, khắc phục tình trạng “Cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở”[4]. Việc xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan truyền thông với các chủ thể khác nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát, giám sát việc thực thi quyền lực, cụ thể là xây dựng cơ chế để các cơ quan truyền thông có thể tham gia nắm bắt thông tin, phản ánh về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, công tác giám sát của cơ quan dân cử, công tác giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và của các đoàn thể chính trị - xã hội./.
TS Lê Thị Minh Hà
Viện Xây dựng Đảng, HVCTQG Hồ Chí Minh
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, tr.89
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, tr.38-39, Hà Nội
[3] Hồ Chí Minh (2011),Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 144
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, tr.26, Hà Nội.