Bài viết tiếp cận dưới góc độ lý luận về quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo ở Việt Nam, gồm những vấn đề cơ bản về khái niệm, đặc điểm, nội dung, nguyên tắc quản lý giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.

Ảnh minh họa. Nguồn: baochinhphu.vn

1. Một số vấn đề chung về giáo dục và đào tạo

Giáo dục và đào tạo: Giáo dục (tiếng Anh là Education) và đào tạo (tiếng Anh là Trainning) là các hình thức hoạt động theo đó kiến thức, kỹ năng được truyền đạt từ người này sang người khác, hay rộng hơn là kiến thức, kỹ năng được truyền đạt từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua các hoạt động giảng dạy, hướng dẫn, học tập, làm gương…

Các hoạt động đó, nói chung diễn ra trong mối quan hệ tương tác giữa một bên là những người giảng dạy, người hướng dẫn, người làm gương… (gọi chung là người dạy) và bên còn lại là những người học hay người tiếp thu kiến thức, kỹ năng (gọi chung là người học). Người dạy, đó có thể là thầy giáo, cô giáo, người hướng dẫn khoa học, hoặc bố mẹ,… là người giữ vai trò chủ đạo truyền đạt kiến thức, kỹ năng đến người học. Người học, đó có thể là học sinh, sinh viên, cán bộ, công chức, viên chức, con cháu,… là người giữ vị trí chủ đạo tiếp thu kiến thức, kỹ năng,… từ người dạy.

Trong lịch sử, cũng như ngày nay, giáo dục và đào tạo luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của các cá nhân, các cộng đồng, các quốc gia, cũng như của xã hội loài người nói chung. Với lẽ đó, hơn 30 năm trước (1992), Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã xác định “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài[1], tiếp đến là khẳng định “Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước[2].

Trong thực tiễn, các hình thức giáo dục và đào tạo rất phong phú, như giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội; giáo dục chính quy, giáo dục thường xuyên; giáo dục từ xa,… Ở Việt Nam, trong hệ thống giáo dục quốc gia, quá trình giáo dục, đào tạo đối với các cá nhân được xác định theo cấp giáo dục lần lượt là giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.

Giáo dục mầm non nhằm phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ và hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một,...Quá trình này được thực hiện trong giáo dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo.

Giáo dục phổ thông nhằm phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo; hình thành nhân cách con người và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho người học tiếp tục học chương trình giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học. Nói chung, giáo dục phổ thông gồm giáo dục cơ bản và định hướng nghề nghiệp được thực hiện từ tiểu học đến trung học phổ thông.

Giáo dục nghề nghiệp nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho phục vụ sản xuất, kinh doanh, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ được đào tạo; có đạo đức, sức khỏe; trách nhiệm nghề nghiệp; khả năng sáng tạo, thích ứng với môi trường hội nhập quốc tế; nâng cao năng suất, chất lượng lao động; tạo điều kiện cho người học có khả năng tìm việc làm hoặc học lên cao hơn,...

Giáo dục đại học nhằm đào tạo nhân lực trình độ cao, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu khoa học và công nghệ, tạo ra tri thức, sản phẩm mới, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế; người học phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ; có tri thức, kỹ năng, trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng nắm bắt tiến bộ khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo, khả năng tự học, sáng tạo, thích nghi với môi trường làm việc,…

2.  Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo

a) Khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo

Giáo dục và đào tạo có vai trò hết sức to lớn trong quá trình phát triển. Nhằm phát huy vai trò to lớn của giáo dục và đào tạo trong phát triển đất nước, Việt Nam cũng như các nước trên thế giới đều có cơ quan quản lý nhà nước (QLNN) về giáo dục và đào tạo, có chức năng cơ bản là làm cho các hoạt động đó đáp ứng yêu cầu và  đạt được các mục tiêu phục vụ phát triển,...

Cũng như QLNN nói chung, QLNN về giáo dục và đào tạo là quá trình các cơ quan nhà nước tác động và điều chỉnh các quan hệ xã hội theo những định hướng nhất định để đạt được những mục tiêu đã định.

Các quá trình điều chỉnh đó được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước. Nhà nước trao quyền hạn, trách nhiệm và nhà nước bảo vệ cho các cơ quan, đơn vị thực hiện hoạt động quản lý giáo dục và đào tạo trong phạm vi quyền hạn được nhà nước trao. Quá trình đó được điều chỉnh bằng các quy định pháp luật (thể chế pháp lý) về những vấn đề có liên quan, như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, trình tự, thủ tục các cơ quan nhà nước thực hiện quản lý giáo dục và đào tạo; quyền lợi, nghĩa vụ của người dạy và người học, mối quan hệ giữa người dạy và người học… Các vấn đề thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện quản lý các hoạt động giáo dục và đào tạo của các cơ quan nhà nước phải được pháp luật quy định một cách dễ hiểu, đầy đủ, thống nhất, kịp thời, khả thi…

Qua phân tích những khía cạnh trên, có thể khái quát QLNN về giáo dục và đào tạo ở nước ta như sau:

Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh đối với các hoạt động giáo dục và đào tạo, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở quyền lực nhà nước và hệ thống thể chế pháp lý, nhằm bảo đảm giáo dục và đào tạo đạt được các mục tiêu đã định phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

b) Đặc điểm của quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo

Việc nhận diện các đặc điểm của hoạt động quản lý nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết các vấn đề có liên quan. Bên cạnh những đặc điểm của quản lý nhà nước nói chung, như đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, được Nhà nước bảo đảm thực hiện, dựa trên cơ sở pháp luật, theo nguyên tắc tập trung dân chủ,… Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo còn có một số đặc điểm cần lưu ý khác.

Thứ nhất, quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là quản lý một loại dịch vụ công đặc biệt.

Nhà nước xác định và thực hiện quản lý nhiều loại dịch vụ công, như dịch vụ khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe; dịch vụ vận tải hành khách; dịch vụ cung cấp một số nguyên liệu đặc biệt phục vụ sản xuất… Tuy nhiên, quản lý nhà nước đối với hoạt động giáo dục và đào tạo là quản lý một loại dịch vụ công đặc biệt. Tính đặc biệt trong dịch vụ này trước hết thể hiện ở chỗ giáo dục và đào tạo trực tiếp tác động đến con người (vừa là chủ thể, động lực, vừa là mục tiêu của phát triển) trên mọi phương diện, như sức khỏe, tri thức, đạo đức, trách nhiệm, các loại kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng nắm bắt tiến bộ, nâng cao sức sáng tạo,… Do đó, quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo là hết sức quan trọng, rất được các tầng lớp xã hội quan tâm và trong nhiều trường hợp không tránh khỏi các luồng ý kiến khác nhau. Thứ hai, sản phẩm của hoạt động giáo dục và đào tạo được kết tinh vào trong từng người học là rất khó xác định trên cơ sở mối quan hệ nguyên nhân-kết quả. Chẳng hạn, một học sinh chăm ngoan chủ yếu là do nhà trường giáo dục tốt hay chủ yếu do gia đình giáo dục tốt, hay nhà trường và gia đình giữ vai trò như nhau là không dễ xác định,… Thứ ba, là không dễ điều chỉnh sản phẩm, khắc phục hậu quả do giáo dục và đào tạo tạo ra. Mỗi khi có sự sai lệch trong giáo dục xảy ra đòi hỏi phải có sự phối hợp tổng hòa giáo dục của cả gia đình, nhà trường và xã hội, đồng thời không thể khắc phục sai lệch đó trong một sớm, một chiều mà đòi hỏi phải có thời gian nhiều hơn,…

Chính vì vậy, trong cung cấp dịch vụ, cũng như trong QLNN đối với quá trình cung cấp dịch vụ giáo dục đòi hỏi các nhà quản lý phải hết sức thận trọng với tất cả các yếu tố (như gia đình, nhà trường, xã hội, cơ sở giáo dục, người dạy, người học,…), các phương diện (như đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng, kiến thức,…), cách thức thực hiện dịch vụ và quản lý việc thực hiện dịch vụ này.

Thứ hai, trong QLNN về giáo dục và đào tạo coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.

Có thể trong các cách diễn đạt còn chưa hoàn toàn giống nhau, nhưng văn kiện Đại hội lần thứ VII của Đảng, tiếp theo là Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 đều khẳng định quan điểm: phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu[3]. Cho đến nay, trong Hiến pháp năm 2013 chỉ quy định phát triển khoa học và công nghệ và phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu[4].

Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục, đào tạo, nên trong quản lý, Đảng và Nhà nước ta dành sự ưu tiên đặc biệt cho phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài phục vụ phát triển đất nước. Đây là một trong những điểm khác biệt so với QLNN đối với các lĩnh vực khác.

Dưới góc độ QLNN, cùng với việc khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh “Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý”[5] và “ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề”[6].

Thứ ba, quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Ở Việt Nam, QLNN nói chung, cũng như QLNN về giáo dục và đào tạo nói riêng không tách rời khỏi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà ngược lại, luôn tác động qua lại một cách biện chứng với nền kinh tế, phản ánh mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong mối quan hệ đó, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế giữ vai trò quy định đối với QLNN về giáo dục và đào tạo trên nhiều mặt, như mục tiêu, nội dung, cách thức quản lý,… QLNN về giáo dục và đào tạo gắn kết chặt chẽ với nhu cầu của thị trường lao động, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Chính những vấn đề này tạo nên những đặc điểm riêng trong QLNN về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam so với nhiều nước trên thế giới.

c) Nội dung quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo

Dưới góc độ nhận thức lý luận và căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành[7], nội dung QLNN về giáo dục và đào tạo bao gồm những hoạt động cơ bản sau:

Thứ nhất, ban hành văn bản quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo

Việc ban hành các văn bản QLNN về giáo dục và đào tạo bao gồm:

- Ban hành các văn bản quản lý chung ở tầm vĩ mô, như chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục; văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo,…

- Ban hành các văn bản quy định về các vấn đề tổ chức và hoạt động trong các nhà trường, cơ sở giáo dục, như: điều lệ nhà trường, chuẩn cơ sở giáo dục, quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục, điều lệ ban đại diện cha mẹ học sinh; quy định về đánh giá kết quả học tập và rèn luyện; khen thưởng và kỷ luật đối với người học; quy định hoạt động dạy học và giáo dục trong nhà trường và ngoài nhà trường.

- Ban hành các quy định về nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, như tiêu chuẩn chức danh, chế độ làm việc của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục; tiêu chuẩn người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu các cơ sở giáo dục; tiêu chuẩn chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn về giáo dục thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; chuẩn nghề nghiệp nhà giáo; ban hành quy tắc ứng xử của nhà giáo, của cơ sở giáo dục; quy định về điều kiện, tiêu chuẩn và hình thức tuyển dụng giáo viên.

- Ban hành quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; khung trình độ quốc gia; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu chuẩn, định mức sử dụng cơ sở vật chất, thư viện và thiết bị trường học; việc biên soạn, sử dụng sách giáo khoa, giáo trình; việc thi, kiểm tra, tuyển sinh, liên kết đào tạo và quản lý văn bằng, chứng chỉ; việc công nhận văn bằng do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp được sử dụng tại Việt Nam...

- Ban hành quy định về đánh giá chất lượng giáo dục.

Tất cả các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục và các quy định đều phải được xây dựng trên cơ sở quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, bám sát thực tiễn và “phù hợp với quy luật khách quan”[8].

Thứ hai, tổ chức thực hiện QLNN về giáo dục và đào tạo

Tổ chức thực hiện QLNN về giáo dục và đào tạo giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc hiện thực hóa các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và các quy định pháp luật trong lĩnh vực này. Hoạt động này được ví như chiếc cầu nối giữa các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và quy định pháp luật về giáo dục và đào tạo với thực tiễn. Tổ chức thực hiện QLNN về giáo dục và đào tạo gồm những hoạt động cơ bản sau[9]:

- Tổ chức bộ máy QLNN về giáo dục và đào tạo.

- Tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục

- Công khai các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và quy định pháp luật về giáo dục và đào tạo.

- Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về lĩnh vực này.

- Tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất lượng giáo dục và đào tạo.

- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển giáo dục và đào tạo

- Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.

- Thực hiện thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo dục và đào tạo.

- Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế, đầu tư của nước ngoài về giáo dục và đào tạo.

Thứ ba, kiểm tra, thanh tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về giáo dục và đào tạo; giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng; xử lý vi phạm pháp luật trong giáo dục và đào tạo

Kiểm tra, thanh tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về giáo dục và đào tạo là nhằm phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật trong giáo dục và đào tạo để kịp thời chấn chỉnh hoặc xử lý vi phạm theo quy định pháp luật. Việc kiểm tra, thanh tra, giám sát được thực hiện qua hoạt động của cơ quan có thẩm quyền. Chẳng hạn, hoạt động thanh tra của Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo, hoạt động thanh tra của Thanh tra Ủy ban nhân dân các cấp; hoạt động điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra khi cần thiết,…

Kiểm tra, thanh tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về giáo dục và đào tạo giữ vai trò hết sức quan trọng trong QLNN về lĩnh vực này. Nếu kiểm tra, thanh tra, giám sát việc chấp hành pháp luật không được thực hiện một cách nghiêm túc thì các hoạt động khác trong QLNN về giáo dục và đào tạo sẽ không được thực hiện nghiêm túc, kém hiệu lực, hiệu quả và có thể để lại những hậu quả khó khắc phục cho xã hội.

d) Nguyên tắc quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo

Thứ nhất, phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu

Nguyên tắc “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu” đặt ra những yêu cầu trên nhiều phương diện trong QLNN về giáo dục và đào tạo. Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong phát triển giáo dục và đào tạo; phải ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác về con người, tài chính, cơ sở vật chất-kỹ thuật cho giáo dục và đào tạo. Trong đó, Nhà nước phải ưu tiên phát triển giáo dục và đào tạo ở những nơi khó khăn, như miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề.

Trong quá trình quản lý, các cơ quan chức năng phải luôn bám sát thực tiễn để ban hành các chủ trương, chính sách và giải pháp phù hợp với các tình huống cần phải giải quyết ở các cơ sở giáo dục và đào tạo,...

Thứ hai, quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo phải bảo đảm “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.

Nguyên tắc này đã được xác định trong nghị quyết của Ban Chấp hành trung ương Đảng (khóa XI) và Luật Giáo dục năm 2019[10].

Giáo dục và đào tạo là để tạo ra những con người làm việc, nên học phải gắn liền với thực hành những nội dung được học, bảo đảm yêu cầu người học xong phải làm được những việc đã được học. Học không đi đôi với hành thì sau khi kết thúc khóa học, người học sẽ gặp khó khăn trong giải quyết những vấn đề đã được học, thậm chí không biết cách giải quyết những vấn đề đó.

Đối với những vấn đề lý luận trong các chương trình giáo dục và đào tạo phải gắn liền với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, trả lời được những vấn đề thực tiễn đang đặt ra, không xa rời thực tiễn. Đồng thời, thực tiễn phải là những minh chứng cho sự đúng đắn của các vấn đề lý luận.

Như đã đề cập ở trên, sản phẩm của giáo dục và đào tạo cùng lúc chịu sự tác động của nhiều chủ thể, đó có thể là do sự tác đông đồng thời của gia đình, nhà trường và xã hội. Qua nghiên cứu hết sức nghiêm túc, sâu sắc về lý luận cũng như thực tiễn, Đảng và Nhà nước đã khẳng định: giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.

Để sản phẩm của giáo dục và đào tạo là những con người Việt Nam phát triển toàn diện về đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế, đòi hỏi giáo dục nhà trường phải kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.

Trong mối quan hệ đó, nhà trường giữ vai trò trung tâm, chủ động, định hướng, kết hợp với gia đình và xã hội cùng tổ chức hoặc tham gia các hoạt động giáo dục theo kế hoạch của nhà trường, bảo đảm an toàn cho người dạy và người học; thông báo về kết quả học tập, rèn luyện của học sinh cho cha mẹ hoặc người giám hộ, nhất là trong giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Nhà trường là môi trường giáo dục toàn diện nhất, là cơ sở thực hiện giáo dục chuyên nghiệp nên nhà trường là lực lượng có đủ những yếu tố cần thiết để có thể huy động sức mạnh giáo dục từ gia đình và xã hội.  

Cha mẹ hoặc người giám hộ có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục và chăm sóc, tạo điều kiện cho trẻ được học tập, thực hiện phổ cập giáo dục, hoàn thành giáo dục bắt buộc, rèn luyện, tham gia các hoạt động của nhà trường; tôn trọng nhà giáo, không được xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể nhà giáo. Các thành viên trong gia đình có trách nhiệm xây dựng gia đình văn hóa, tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ của con em; người lớn tuổi có trách nhiệm giáo dục, làm gương cho con em, cùng nhà trường nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.

Thứ ba, cấm lợi dụng hoạt động giáo dục

Sau gần 40 năm Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới đã đem lại nhiều thành tựu phát triển trên mọi mặt của đời sống xã hội. Giáo dục, đào tạo và quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo cũng đạt được những thành tựu quan trọng[11], đã xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Số lượng học sinh, sinh viên tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu ngày càng hợp lý. Chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo tiếp tục được tăng cường (điển hình năm 2013 đạt 20% tổng chi ngân sách nhà nước). Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh; hệ thống giáo dục và đào tạo ngoài công lập góp phần đáng kể vào phát triển giáo dục và đào tạo. Công tác quản lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến nhất định. Cả nước đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010; giáo dục mầm non đạt chuẩn phổ cập cho trẻ em 5 tuổi và giáo dục phổ thông có chuyển biến tốt, được thế giới công nhận. Cơ hội tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách;…

Tuy nhiên, cùng với quá trình đó, các thế lực chống đối, phản động vẫn ra sức xuyên tạc chế độ, lĩnh vực giáo dục và đào tạo cũng không là ngoại lệ, nên các cơ quan chức năng của Đảng và Nhà nước đã cảnh giác đưa vào pháp luật quy định “cấm lợi dụng hoạt động giáo dục”[12]. Điều này trở thành một trong những nguyên tắc riêng trong QLNN về giáo dục và đào tạo.

Nội dung nguyên tắc yêu cầu cấm lợi dụng hoạt động giáo dục để xuyên tạc chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, phá hoại thuần phong mỹ tục, truyền bá mê tín, hủ tục, lôi kéo người học vào các tệ nạn xã hội. Đồng thời, nguyên tắc cũng yêu cầu cấm lợi dụng hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi.

Ngoài ra, chúng ta cũng có thể đề cập thêm một số quy định mang tính nguyên tắc, như phân định rõ quản lý nhà nước và quản trị của cơ sở đào tạo; học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân; mọi côing dân đều bình đẳng về cơ hội học tập;…

TS. Tô Văn Châu

Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


[1] Xem: Điều 35 Hiến pháp năm 1992; Khoản 1, Điều 61, Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

[2] Xem: Khoản 1, Điều 63, Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

[3] Xem: Nghị quyết số 04 - NQ/HNTW ngày 14/01/1993 Hội nghị lần thứ tư BCHTW Đảng (khoá VII) về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo; Điều 35, Hiến pháp năm 1992; Khoản 1, Điều 61, Hiến pháp năm 2013.

[4] Xem: Khoản 1, Điều 61, Khoản 1, Điều 62, Hiến pháp năm 2013.

[5] Xem: Khoản 2, Điều 61, Hiến pháp năm 2013.

[6] Xem: Khoản 3, Điều 61, Hiến pháp năm 2013.

[7] Xem thêm: Điều 104, Luật Giáo dục năm 2019.

[8] Xem: Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

[9] Xem thêm: Điều 104, Luật Giáo dục năm 2019.

[11] Xem: Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

[12] Xem: Điều 21, Luật Giáo dục năm 2019.