Kể từ khi Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án (LHG, ĐTTTA) năm 2020 có hiệu lực, thủ tục hòa giải đã đóng góp rất lớn vào kết quả giải quyết vụ việc dân sự, vì đã góp phần đơn giản hóa, nâng cao hiệu quả và rút ngắn quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên, từ thực tiễn triển khai LHG, ĐTTTA năm 2020 cho thấy, quy định về hòa giải vẫn còn tồn tại không ít hạn chế, bất cập nên đã gây khó khăn, phức tạp cho Tòa án và các đương sự.

1. Đặt vấn đề

“Người Việt thường quan niệm dĩ hòa vi quý. Do đó, mọi chuyện dù lớn hay bé đều có thể đóng cửa bảo nhau vốn đã là suy nghĩa của người Việt qua nhiều thế hệ. Đây cũng chính là cơ sở cho việc quy định thủ tục hòa giải trong tố tụng dân sự Việt Nam”.[1] Mặt khác, nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết vụ việc dân sự thông qua con đường hòa giải và đồng thời, với mong muốn xây dựng hệ thống hòa giải ngày càng khoa học, chuyên nghiệp, hiện đại, LHG, ĐTTTA năm 2020 được ban hành đã tạo dựng hành lang pháp lý quan trọng để các Trung tâm hòa giải và Hòa giải viên phát huy khả năng giải quyết vụ việc dân sự bằng con đường hòa giải tiền tố tụng. Mặc dù việc triển khai công tác hòa giải theo LHG, ĐTTTA năm 2020 đã đạt được những thành tựu bước đầu, nhưng ngay từ khi mới triển khai thực hiện đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập khi quy định chưa thật sự hợp lý trong luật này lại đang gây ra các khó khăn, rắc rối và phức tạp cho chính Tòa án. Do vậy, bài viết nghiên cứu về một số bất cập từ việc thực hiện hòa giải theo LHG, ĐTTTA năm 2020, để từ đó, đề xuất một số giải pháp gỡ rối và nâng cao hiệu quả thực hiện hòa giải.

Hòa giải viên tại Tòa án. Nguồn: tapchitoaan.vn

2. Bất cập trong việc thực hiện hòa giải theo LHG, ĐTTTA năm 2020

“Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, các bên đều có nhu cầu tìm đến các phương thức giải quyết tranh chấp một cách an toàn, nhanh chóng và hợp pháp”.[2] Do đó, “hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp được áp dụng phổ biến và rất gần gũi với người dân Việt Nam”.[3] Trên thực tế, người Việt Nam từ xa xưa đã quen thuộc với các hình thức hòa giải mỗi khi phát sinh tranh chấp, vì cần sự giải quyết nhanh chóng, nhẹ nhàng để giữ gìn được tình cảm giữa các bên. Hơn nữa, với bản tính yêu chuộng hòa bình, nên việc tiến hành hòa giải thường đạt được hiệu quả rất lớn tại Việt Nam. Nghiên cứu cho thấy: “hòa giải phát huy tác dụng rất lớn trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Theo báo cáo tổng kết hằng năm của Tòa án nhân dân tối cao, ở nước ta, có khoảng 40-50% số vụ án dân sự do Tòa án các cấp thụ lý được hòa giải thành”.[4] Ngoài ra, “ngay cả ở quốc gia vẫn nổi tiếng hay kiện tụng như Mỹ, 95% các vụ khiếu kiện đều chấm dứt bởi hòa giải”.[5] Đây chính là cơ sở quan trọng để các cơ quan nghiên cứu pháp luật xây dựng và ban hành LHG, ĐTTTA năm 2020.

Theo quy định của LHG, ĐTTTA năm 2020, khi người khởi kiện trong vụ án dân sự, người yêu cầu trong việc dân sự, người bị kiện đồng ý tiến hành hòa giải và việc hòa giải không thuộc một trong các trường hợp không được phép tiến hành hòa giải tại Tòa án theo Điều 19 của LHG, ĐTTTA năm 2020 thì việc hòa giải mới được tiến hành.[6] Sở dĩ như vậy là vì “cơ sở của hòa giải vụ án dân sự là quyền tự định đoạt của đương sự… Trong các vụ án dân sự, các đương sự là chủ thể của các quan hệ pháp luật về nội dung có tranh chấp cần giải quyết nên có quyền thương lượng, điều đình với nhau giải quyết tranh chấp”.[7] Tuy nhiên, mấu chốt của việc hòa giải tại Tòa án có được tiến hành hay không lại phụ thuộc vào chính người bị kiện. Bởi lẽ, “Hòa giải viên tiến hành hòa giải nếu người bị kiện đồng ý tiến hành hòa giải hoặc không trả lời Tòa án”.[8] Nếu người bị kiện không đồng ý hòa giải thì Tòa án sẽ phải tiến hành các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 để giải quyết tranh chấp.[9] Ngoài ra, cần lưu ý, hòa giải tiến hành theo LHG, ĐTTTA năm 2020 có sự khác biệt rất lớn so với hòa giải được tiến hành trong giải đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo quy định của BLTTDS năm 2015 mặc dù chúng có thể có sự giống nhau về đương sự, tính chất của tranh chấp hay yêu cầu. Trong đó, hòa giải theo LHG, ĐTTTA năm 2020 xảy ra trước khi Tòa án thụ lý vụ việc dân sự, do đó, đây được coi là hòa giải trong giai đoạn tiền tố tụng. Hoặc nói cách khác, hòa giải tiến hành theo quy định của LHG, ĐTTTA năm 2020 là “hòa giải tiền tố tụng”. Còn hòa giải tiến hành theo quy định của BLTTDS năm 2015 là hòa giải sau khi Tòa án đã thụ lý vụ việc dân sự và thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự hay chuẩn bị giải quyết sơ thẩm việc dân sự, vậy nên, đây là hòa giải trong tố tụng. Mặt khác, hòa giải trong tố tụng “còn là một thủ tục tố tụng bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm. Thậm chí, nếu Tòa án không tiến hành thủ tục hòa giải trong giai đoạn xét xử sơ thẩm thì đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và bản án, quyết định sau đó dù có hiệu lực nhưng vẫn sẽ bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm”.[10] Hơn nữa, hai thủ tục hòa giải này còn có sự khác nhau về thành phần tổ chức hòa giải, thủ tục tiến hành hòa giải và hậu quả pháp lý sau khi hòa giải. Ngoài ra, cũng có thể có những trường hợp các đương sự tham gia vào cả hai thủ tục hòa giải trong suốt quá trình giải quyết vụ việc dân sự.

Từ thực tiễn triển khai LHG, ĐTTTA năm 2020 cho thấy, hiện nay, bất cập rất lớn trong việc thực hiện luật này đó là gây ra sự rắc rối, phức tạp và có thể làm cho Tòa án phải mất thêm thời gian, công sức để giải quyết vụ việc dân sự. Sở dĩ như vậy là vì nếu như trước đây, các đương sự khi nộp đơn khởi kiện hay đơn yêu cầu thì Tòa án sẽ chỉ tiến hành theo các quy định của BLTTDS năm 2015 để giải quyết. Do đó, thứ nhất, Tòa án vốn đã rất quen thuộc với công việc tiến hành lâu nay nên việc giải quyết sẽ tiến hành đơn giản, nhanh chóng, dễ dàng (điều này đặc biệt quan trọng đối với các Tòa án ở các địa bàn miền núi, biên giới, hải đảo khi đội ngũ Thẩm phán và Thư ký Tòa án còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ). Thứ hai, Tòa án không phải mất thêm thời gian, công sức để tiến hành thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án chỉ để xem xét và ra hoặc không ra quyết định công nhận sự thỏa thuận thành của các đương sự tiến hành theo quy định của LHG, ĐTTTA năm 2020. Bởi lẽ, căn cứ theo quy định của LHG, ĐTTTA năm 2020,[11] nếu việc hòa giải được thực hiện và các đương sự thỏa thuận được với nhau về mọi vấn đề tranh chấp và có yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thì kết quả hòa giải sẽ chuyển lại cho Tòa án để Tòa án tiếp tục tiến hành thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Về nguyên tắc, thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án là một trong những thủ tục của thủ tục giải quyết việc dân sự, vậy nên, đòi hỏi phải tiến hành bài bản, chặt chẽ và đúng theo quy định của BLTTDS năm 2015.[12] Do vậy, Tòa án vẫn phải mở thủ tục giải quyết việc dân sự để ra quyết định công nhận sự thỏa thuận từ kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án cho các đương sự tham gia hòa giải tiền tố tụng. Bởi vì, quyết định công nhận hòa giải thành ngoài Tòa án có giá trị pháp lý như một bản án và có hiệu lực thi hành, nên sự đảm bảo pháp lý và nghiêm minh của pháp luật mới có thể trói buộc chặt chẽ các đương sự sẽ phải nghiêm túc thực hiện theo kết quả hòa giải mà các bên đã tự nguyện thỏa thuận với nhau. Vì vậy, thông thường, các đương sự sau khi hòa giải tiền tố tụng thành công đều yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của họ. Thế nhưng, thời hạn pháp luật cho phép Tòa án xem xét và ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án chỉ là 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo.[13] Vậy nên, Tòa án lại phải gấp rút tiến hành các thủ tục tố tụng để xem xét và ra hoặc không ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án đúng theo quy định chặt chẽ của BLTTDS năm 2015 và phải đúng thời hạn LHG, ĐTTTA năm 2020 quy định. Điều này, càng góp phần làm cho Tòa án thêm khó khăn, vất vả và áp lực hơn với công việc.

Còn trong trường hợp nếu như các đương sự không thể hòa giải được với nhau trong giai đoạn tiền tố tụng thì Tòa án lại phải tiến hành giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của BLTTDS năm 2015. Nghĩa là, trong trường hợp việc hòa giải tiền tố tụng thất bại, Tòa án sẽ phải thụ lý vụ việc và trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự hay chuẩn bị giải quyết sơ thẩm việc dân sự, Tòa án vẫn phải tiến hành hòa giải theo quy định bắt buộc của BLTTDS năm 2015. Như vậy, có thể các đương sự lại phải trải qua một lần hòa giải nữa và đối với Tòa án, các công việc của cơ quan này vẫn phải tiến hành đầy đủ giống như trước khi có LHG, ĐTTTA năm 2020, tuy nhiên, thậm chí còn có phần nặng nề hơn. Bởi lẽ, Tòa án phải chuyển vụ việc cho Hòa giải viên rồi lại chờ đợi kết quả để ra quyết định công nhận hòa giải thành ngoài Tòa án hoặc tiếp tục tiến hành giải quyết theo trình tự, thủ tục của BLTTDS năm 2015. Điều này không những gây căng thẳng, vất vả, áp lực cho Tòa án mà ngay với các đương sự cũng sẽ mất thêm phí hòa giải tiền tố tụng. Hơn nữa, có thể thấy rằng, thời hạn hòa giải theo LHG, ĐTTTA năm 2020 khá dài. Trong đó, đối với các vụ việc hòa giải đơn giản thì thời hạn hòa giải là 20 ngày kể từ khi Hòa giải viên được chỉ định nhưng đối với các vụ việc phức tạp thì thời hạn này có thể kéo dài đến 30 ngày. Thậm chí, các bên có thể kéo dài thời hạn hòa giải đến tối đa 02 tháng.[14] Không những vậy, hòa giải theo LHG, ĐTTTA năm 2020 cũng phải trải qua quá trình tiến hành với các thủ tục pháp lý tương đối phức tạp. Do đó, nếu như việc hòa giải giữa các đương sự không mang lại hiệu quả thì càng gây lãng phí tiền bạc và tốn kém thời gian, công sức của các đương sự. Điều này càng góp phần làm cho thời gian giải quyết vụ việc dân sự thêm kéo dài. Và cuối cùng, Tòa án vẫn phải gánh vác mọi công việc giải quyết mà vốn dĩ nếu như trước khi có quy định của LHG, ĐTTTA năm 2020, Tòa án đã có thể giải quyết nhanh chóng, ít tốn kém và thuận lợi hơn. Do đó, từ thực tiễn giải quyết tại Tòa án hiện nay cho thấy, phần lớn các Tòa án đều cảm thấy mệt mỏi vì mất thêm thời gian, công sức để giải quyết vụ việc dân sự nếu như phải trải qua giai đoạn hòa giải tiền tố tụng. Đây có lẽ là điều các cơ quan xây dựng pháp luật cần có sự xem xét và kịp thời sửa chữa, khác phục các hạn chế, bất cập để việc hòa giải tiền tố tụng đạt hiệu quả và ít gây khó khăn, rắc rối cho Tòa án. Nói cách khác, việc soạn thảo các quy định pháp luật cần gắn chặt với quá trình tổ chức thực hiện, để tránh những quy định được ban hành nhưng lại gây khó khăn, phức tạp đối với việc tổ chức thực hiện. Chính vì vậy, “cần tiếp tục cải tiến công tác lập pháp, tạo sự gắn bó chặt chẽ hơn nữa giữa cơ quan soạn thảo, ban hành với các cơ quan áp dụng pháp luật trong quá trình xây dựng, soạn thảo”.[15]

Tóm lại, nếu triển khai hiệu quả thì “hòa giải mang lại rất nhiều thuận lợi cho tất cả các bên liên quan đến quá trình giải quyết vụ việc dân sự”.[16] Bởi lẽ, quá trình giải quyết vụ việc dân sự sẽ nhanh chóng kết thúc mà Tòa án không cần thiết phải tiến hành các thủ tục tố tụng để xét xử và các đương sự vẫn có thể duy trì được tình cảm hay các mối quan hệ giữa họ. Tuy nhiên, như đã nêu, dù mới trải qua bước đầu quá trình triển khai việc hòa giải theo LHG, ĐTTTA năm 2020, thế nhưng, đã mang lại sự rắc rối, phức tạp cho không chỉ cho Tòa án mà các đương sự cũng phải tốn kém chi phí, mất thêm thời gian để giải quyết vụ việc dân sự. Vì thế, cần kịp thời có giải pháp để giải quyết vấn đề trên và để hòa giải theo LHG, ĐTTTA năm 2020 phát huy hết thế mạnh trong việc giải quyết đơn giản, nhanh chóng vụ việc dân sự, để từ đó, giảm bớt áp lực xét xử cho Tòa án.

3. Kiến nghị

Trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, các giao lưu, chia sẻ, hợp tác về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động ngày càng có xu hướng đa dạng, phong phú và phức tạp hơn trước. Cùng với đó, “từ các số liệu thống kê xét xử hàng năm của ngành Tòa án, có thể dự báo, các tranh chấp về dân sự, kinh doanh thương mại, lao động và hôn nhân gia đình tại Việt Nam sẽ ngày càng nhiều hơn”.[17] Điều đó càng đặt ra yêu cầu và đòi hỏi đối với pháp luật hòa giải của Việt Nam phải ngày càng hoàn thiện để có thể đáp ứng với tình hình thực tiễn. Từ đó, để kịp thời khắc phục, sửa chữa các hạn chế, bất cập trong quy định về hòa giải theo LHG, ĐTTTA năm 2020 cần xem xét giải pháp sau:

Có thể thấy rằng, mô hình hòa giải trong LHG, ĐTTTA năm 2020 của Việt Nam là mô hình kết hợp giữa hòa giải do Hòa giải viên (Trung tâm hòa giải) thực hiện với Tòa án. Khi tiến hành hòa giải sẽ do Hòa giải viên chịu mọi trách nhiệm tổ chức thực hiện nhưng kết quả hòa giải vẫn phải chuyển lại cho Tòa án để cơ quan này xem xét và ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Ưu điểm của mô hình hòa giải này là kết hợp được thế mạnh của Hòa giải viên vốn là những người được đào tạo bài bản, kỹ lưỡng và thông thường, đều có chuyên môn, nghiệp vụ chuyên sâu về lĩnh vực hòa giải nên việc tiến hành có thể mang lại hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó, còn tăng cường sự tôn trọng và đề cao quyền tự quyết định của đương sự khi được phép lựa chọn Hòa giải viên. Mặt khác, kết quả hòa giải cuối cùng của đương sự còn được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện khi Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của hòa giải thành ngoài Tòa án. Thế nhưng, mô hình hòa giải này cũng tồn tại không ít hạn chế, bật cập và như đã được phân tích tại phần trên.

Trái ngược với mô hình hòa giải mới được áp dụng tại Việt Nam hiện nay, tại các nước common law (thông luật), “Tòa án sẽ không trực tiếp tiến hành thủ tục hòa giải mà việc hòa giải sẽ được thực hiện bởi một Hòa giải viên chuyên nghiệp hoặc các bên đương sự được quyền tự do chọn lựa một hòa giải viên để giúp họ tiến hành hòa giải. Nếu việc hòa giải thành công, Hòa giải viên và các bên đương sự cũng không có nghĩa vụ phải tiết lộ nội dung các thỏa thuận đạt được giữa họ cho Tòa án biết. Nói cách khác, kết quả hòa giải không phải chuyển lại cho Tòa án nên giữ gìn được sự kín đáo, riêng tư cho các bên đương sự. Trường hợp này thỏa thuận của các đương sự được quan niệm “như một hợp đồng” giữa các bên và có hiệu lực thi hành”.[18] Nghiên cứu cho thấy, mô hình này rất được ưa chuộng tại các quốc gia theo truyền thống pháp luật án lệ (common law).[19] Đây cũng là các quốc gia theo truyền thống tố tụng tranh tụng và cũng là mô hình mà chủ trương cải cách tư pháp của Việt Nam hiện nay vẫn đang hướng đến. Hay đó là việc chuyển từ nền tố tụng thẩm vấn sang tố tụng tranh tụng và đề cao quyền tự do định đoạt của đương sự.

Từ đó, để giải quyết các khó khăn, bất cập và sự hạn chế của thủ tục hòa giải theo LHG, ĐTTTA năm 2020, cần xem xét và nên quy định theo hướng cho phép các đương sự và Hòa giải viên lập ngay thỏa thuận về “kết quả hòa giải thành” nếu như việc hòa giải diễn ra thành công và hoàn toàn không vi phạm pháp luật hay đạo đức xã hội. Nói cách khác, trong trường hợp hòa giải thành công thì “kết quả hòa giải thành” có giá trị pháp lý như một hợp đồng dân sự ràng buộc chặt chẽ giữa các bên đương sự và được đảm bảo thực hiện nếu như một trong các bên cố tình vi phạm sự thỏa thuận thì bên còn lại có quyền khởi kiện đến Tòa án để giải quyết. Đương nhiên, bên đương sự cố tình vi phạm hay không thực hiện theo sự thỏa thuận trong “kết quả hòa giải thành” sẽ phải chịu mọi chế tài xử lý theo quy định của pháp luật. Nếu quy định theo hướng này thì các bên đương sự và Hòa giải viên trực tiếp chứng kiến việc hòa giải có thể nhanh chóng đi đến kết quả giải quyết mà không cần mất thêm thời gian và cả chi phí tố tụng để chờ đợi Tòa án xem xét và ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Không những vậy, Tòa án sẽ đỡ mất công sức, thời gian để giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự đối với việc xem xét và ra hoặc không ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Hơn nữa, việc pháp luật công nhận “kết quả hòa giải thành” ngay khi tiến hành hòa giải trong giai đoạn tiền tố tụng còn góp phần đề cao quyền tự quyết định cho đương sự và kết quả hòa giải sau đó còn không phải tiết lộ với Tòa án. Nhờ đó, các bí mật riêng tư hay sự thỏa thuận của các bên đương sự càng ít bị lộ và kín đáo hơn. Chính vì vậy, đương sự, Hòa giải viên và Tòa án đều thuận lợi hơn và đồng thời, còn góp phần nâng cao giá trị và tầm quan trọng của việc hòa giải tiến hành theo LHG, ĐTTTA năm 2020.

Kết luận

Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 mang lại những đóng góp rất lớn trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Nếu việc thực hiện hiệu quả, các tranh chấp sẽ nhanh chóng được giải quyết và đặc biệt có thể tiết kiệm khá nhiều chi phí, công sức của Tòa án và của những người liên quan đến tố tụng. Tuy nhiên, từ thực tiễn thực hiện những năm qua cho thấy, các quy định hiện hành chưa thật sự phù hợp với thực tiễn nên dẫn đến việc tổ chức thực hiện vẫn gặp phải một số khó khăn, phức tạp. Do đó, để nâng cao hiệu quả thực hiện hòa giải theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020, cần nghiên cứu, xem xét và tham khảo giải pháp như đã được trình bày trong bài viết.

TS. Nguyễn Vinh Hưng

Trường Đại học Luật - ĐHQGHN


[1] Nguyễn Vinh Hưng (2020), Vai trò của hòa giải trong tố tụng dân sự, tạp chí Kiểm sát, số 16, tr. 39.

[2] Nguyễn Thị Hoài Phương (2011), Thủ tục khởi kiện và giải quyết tranh chấp tại Tòa án, Trọng tài - cơ chế hiện hữu bảo vệ quyền dân sự, Sách chuyên khảo, NXb. Lao động, tr. 5.

[3] Nguyễn Vinh Hưng (2020), Một số ý kiến về những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 09, tr. 21.

[4] Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 247.

[5] Phạm Duy Nghĩa (2015), Giáo trình Luật Kinh tế, Nxb. Công an nhân dân, tr. 407.

[6] Các khoản 3, 4, 5, 6 và 8 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020.

[7] Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr. 261.

[8] Điểm a, khoản 8, Điều 16 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020.

[9] Điểm c, khoản 8, Điều 16 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020.

[10] Nguyễn Vinh Hưng (2020), Vai trò của hòa giải trong tố tụng dân sự, tlđd, tr. 39 - 40.

[11] Khoản 1, Điều 32 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020.

[12] Điều 416 đến 419 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[13] Khoản 2, Điều 32 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020.

[14] Điều 20 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020.

[15] Tưởng Duy Lượng (2009), Pháp luật Tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 443.

[16] Nguyễn Vinh Hưng (2020), Vai trò của hòa giải trong tố tụng dân sự, tlđd, tr. 43.

[17] Nguyễn Vinh Hưng (2019), Vai trò của thủ tục rút gọn giải quyết vụ án dân sự, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, số 08, tr. 47.

[18] Nguyễn Vinh Hưng (2020), Vai trò của hòa giải trong tố tụng dân sự, tlđd, tr. 40.

[19] Khoa Luật - ĐHQGHN (2014), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, sđd, tr. 248.