1. Quyền con người

Quyền con người bắt nguồn từ bản chất con người và lịch sử xã hội. Đó là sự phản ánh những đặc trưng tự nhiên vốn có của loài người được biểu hiệu ở những nhu cầu vật chất và tinh thần cơ bản, tất yếu của con người như: ăn, mặc, ở, học hành, làm việc... Quyền con người đồng thời còn là sự phản ánh những khả năng tự nhiên và rèn luyện của con người hành động có ý thức để đạt được những mục đích của đời sống và tự bảo vệ mình. Tuy nhiên, để những điều đó thực sự trở thành nhân quyền, thoát ra khỏi phạm trù nhu cầu và khả năng, mong muốn của con người, nó phải được đảm bảo bằng các thiết định nào đó công nhận, bảo vệ, tức là phải được thừa nhận bởi một quyền lực công cộng hoặc ý chí một tập thể.

Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn khẳng định và đề cao con người cũng như quyền con người. C.Mác cho rằng con người vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của xã hội. Quyền con người phải đặt vào những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Quyền con người không phải là sự ban phát của Thượng đế, cũng không phải tự nhiên mà có. Đó là thành quả của sự phát triển lịch sử, của các cuộc đấu tranh cách mạng, cải tạo xã hội. Những đóng góp nội bật của V.I. Lênin đối với lý luận về quyền con người là những tư tưởng về dân chủ và quyền dân tộc tự quyết. Người nói: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết”1.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, kết hợp khoa học và sáng tạo những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với truyền thống, thành tựu ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, gắn kết lý luận với thực tiễn để hình thành tư tưởng của Người về quyền con người. Những luận điểm về quyền con người của Người được thể hiện trong các tác phẩm vô giá như Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Véc-Xây năm 1919; Bản Tuyên ngôn độc lập, ngày 02/9/1945. Trong đó, Người khẳng định với thế giới một sự thật hiển nhiên là tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình đẳng, có quyền sống, quyền sung sướng, quyền được hưởng tự do. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề quyền con người luôn gắn liền với độc lập dân tộc.

Đảng ta khẳng định, quyền con người “... là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại”2.

Như vậy, quyền con người được thừa nhận là giá trị chung của nhân loại. Quyền con người là quyền của tất cả mọi người, được thừa nhận và bảo hộ bằng pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã dành toàn bộ Chương II quy định những quyền cơ bản của tất cả mọi người dân. Hiến pháp đã xác định các nhóm quyền con người, đó là:

Dựa trên chủ thể quyền, có quyền cá nhân, quyền của nhóm (quyền của phụ nữ, quyền trẻ em) và quyền tập thể (quyền quốc gia, quyền của các dân tộc thiểu số). Trong đó, quyền cá nhân là cơ sở, cốt lõi của khái niệm quyền con người.

Dựa trên nội dung quyền, có các nhóm quyền dân sự, chính trị, quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.

Các nhóm quyền con người nói trên đều gắn với an ninh quốc gia. Quyền con người là những giá trị gắn với con người với tư cách cá nhân; đồng thời với tư cách là thành viên của cộng đồng xã hội. Nói cách khác, quyền con người vừa phải được nhìn nhận một cách tổng hòa, vừa mang những thuộc tính của cá nhân, đó là các quyền của cá nhân trên các mặt dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... được pháp luật Việt Nam ghi nhận và bảo vệ. Đồng thời, quyền con người còn bao gồm các quyền tập thể, tức là các quyền của nhóm, giới, cộng đồng xã hội, đặc biệt là quyền của quốc gia dân tộc bình đẳng với các quốc gia, dân tộc khác, quyền được hưởng độc lập, tự do. Như vậy, quyền con người phản ánh bản chất của xã hội, có quan hệ mật thiết với xã hội. Xã hội phải đảm bảo, bảo vệ quyền con người. Quyền con người bao giờ cũng kết hợp hài hòa, tổng thể giữa quyền và nghĩa vụ của cá nhân với cộng đồng và xã hội, tức là với quốc gia, dân tộc.

2. An ninh quốc gia và hoạt động lợi dụng quyền con người xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam

Theo Luật An ninh quốc gia (năm 2004), an ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ Xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm về độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. An ninh quốc gia bao gồm: an ninh chính trị; an ninh kinh tế; an ninh tư tưởng, văn hóa; an ninh xã hội (an ninh trong tôn giáo, dân tộc, an ninh nông thôn, an ninh đô thị); an ninh các vùng chiến lược; an ninh biên giới, lãnh thổ; an ninh quân đội; an ninh đối ngoại; an ninh con người; an ninh phi truyền thống... Trong đó, an ninh chính trị là cốt lõi, xuyên suốt.

Quyền con người liên quan đến tất cả các lĩnh vực an ninh nói trên, nơi chứa đựng đầy đủ toàn diện các quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tập thể.

Bảo vệ an ninh quốc gia theo Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 1998) là “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân, tạo thế chủ động chiến lược, đẩy lùi, ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội và môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội,đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Tiếp cận vấn đề từ cơ sở lý luận và thực tiễn thì bảo vệ an ninh quốc gia là bảo vệ an ninh trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, đối ngoại; bảo vệ an ninh biên giới, lãnh thổ, an ninh con người và các vấn đề an ninh phi truyền thống nhằm chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.

 Quản lý nhà nước về An ninh Quốc gia

        Hình ảnh minh họa: Quản lý nhà nước về An ninh Quốc gia ( Nguồn: Internet) 

Trong hoạt động chống phá Việt Nam, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề quyền con người, gắn với vấn đề dân chủ nhằm mục đích cuối cùng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thay đổi thể chế chính trị ở nước ta. Thực tế cho thấy, hoạt động lợi dụng vấn đề quyền con người chống phá ta của các thế lực thù địch thể hiện rõ trên các mặt sau đây:

Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền phá hoại tư tưởng, tập trung xuyên tạc, công kích nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; phê phán đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Các thế lực thù địch ra sức bóp méo, xuyên tạc vấn đề quyền con người ở nước ta, phủ nhận thành tựu bảo đảm quyền con người của Đảng và Nhà nước ta trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; bảo đảm quyền và lợi ích gắn với thực thi nghĩa vụ, trách nhiệm của các giai tầng xã hội. Chúng tuyên truyền đề cao các “giá trị” dân chủ, nhân quyền của phương Tây, tuyệt đối hóa các quyền tự do, dân chủ, quyền con người, quyền công dân theo hình mẫu tư sản, nhất là các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, quyền tự do tôn giáo, quyền của các dân tộc thiểu số... Luận điệu của chúng là tuyệt đối hóa các “chuẩn mực”, “giá trị” của phương Tây, áp đặt mô hình dân chủ, nhân quyền của nước ngoài vào Việt Nam để tạo cớ can thiệp, kích động chống đối, biểu tình, bạo loạn nhằm gây mất ổn định chính trị - xã hội ở nước ta.

Thứ hai, sử dụng vấn đề quyền con người để gây sức ép với Việt Nam; đòi “cải cách dân chủ”, “cải thiện nhân quyền”, coi đó là điều kiện cơ bản để mặc cả trong quan hệ hợp tác với Việt Nam. Từ đó, yêu cầu Việt Nam phải có những cải cách về chính trị, pháp lý; trả tự do cho những “tù nhân chính trị”, “tù nhân lương tâm”. Các tổ chức nhân quyền và một số người Việt lưu vong triệt để lợi dụng các diễn đàn quốc tế gây áp lực với chính phủ các nước yêu cầu phải xem xét vấn đề quyền con người ở Việt Nam trước khi quyết định các chủ trương trong quan hệ hợp tác với Việt Nam.

Thứ ba, đòi luật hóa vấn đề quyền con người, tạo “công cụ pháp lý” cho các hoạt động can thiệp, gây sức ép trong quan hệ với Việt Nam. Những năm qua, Nghị viện một số nước thường xuyên cho ra đời cái gọi là các “dự luật”, “Nghị quyết” về quyền con người, trong đó đưa ra những nhận định chưa đúng về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho các thế lực thù địch gia tăng hoạt động chống phá ta, can dự vào các vấn đề thuộc nội bộ Việt Nam để tạo cơ sở can thiệp, gây sức ép, kích động chống đối trong các tầng lớp xã hội.

Thứ tư, công bố các báo cáo, phúc trình, điều trần về quyền con người không đúng với tình hình quyền con người ở Việt Nam. Nhiều báo cáo của một số quốc gia, tổ chức nước ngoài đã xuyên tạc tình hình quyền con người ở Việt Nam, vu cáo ta đàn áp tôn giáo, chà đạp tự do tín ngưỡng, bóp nghẹt tự do báo chí, xuất bản,... khắc họa lên những bức tranh màu xám về tình hình nhân quyền ở Việt Nam phục vụ các mưu đồ chính trị.

Thứ năm, sử dụng vấn đề quyền con người làm công cụ để tác động nội bộ, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và xã hội Việt Nam. Xâm nhập nội bộ, tác động chuyển hóa từ bên trong là mục tiêu của các thế lực thù địch nhằm làm cho chúng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dẫn đến sụp đổ như chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô trước đây. Một trong những chiêu bài chúng sử dụng là khai thác vấn đề dân chủ, nhân quyền. Chúng thông qua các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (NGO) đưa ra các giải pháp về cải cách hành chính, cải cách tư pháp, mở rộng dân chủ, chống tham nhũng,... để quan hệ hợp tác với các bộ, ngành, tổ chức chính trị, đoàn thể quần chúng triển khai thực hiện các dự án thông qua đó móc nối, lôi kéo cán bộ, tác động chuyển hóa về tư tưởng, pháp luật,... dẫn tới từng bước chuyển hóa ta về chính trị.

Thứ sáu, lợi dụng vấn đề phức tạp trong xã hội để kích động các hoạt động gây phương hại về an ninh, trật tự, làm mất ổn định chính trị - xã hội. Trong đó, chúng triệt để khai thác, khoét sâu, kích động các vấn đề tôn giáo, dân tộc, khiếu kiện, đình công, lãn công. Trong vấn đề dân tộc là kích động tư tưởng ly khai, xuyên tạc chính sách dân tộc; trong vấn đề tôn giáo là kích động tự do tín ngưỡng, tôn giáo; trong nông dân, công dân là vấn đề đất đai, lợi ích và việc làm. Từ đó, chúng khoét sâu mâu thuẫn, kích động biểu tình, bạo loạn gây phức tạp về an ninh, trật tự.

Thứ bảy, đề cao các “giá trị” dân chủ, nhân quyền của phương Tây để khích lệ các phần tử chống đối, cơ hội chính trị hoạt động chống phá Việt Nam. Luận điệu của các thế lực thù địch là xuyên tạc vấn đề quyền con người, phê phán các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với trí thức, văn nghệ sĩ, luật sư, những người có công,... để gieo rắc tâm lí hoài nghi, bất mãn, chống đối, hình thành những bộ phận bất mãn, quá khích trong các giai tầng xã hội. Các thế lực thù địch tìm cách liên kết, tạo dựng “ngọn cờ”, cho ra đời tổ chức chính trị đối lập, thiết lập chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập - một “xã hội dân sự” kiểu phương Tây ở Việt Nam.

Nhìn tổng quan, quyền con người đã và đang được các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng, sử dụng như một công cụ hữu hiệu để can thiệp, kích động, tổ chức các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam. Vì vậy, những năm qua, Đảng, Nhà nước và các ngành, các cấp, các lực lượng vũ trang đã phối hợp chặt chẽ, vừa đảm bảo quyền con người ngày càng tốt hơn; vừa bảo vệ, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam. Do những thành tựu to lớn về đảm bảo quyền con người và hiệu quả của chính sách đối ngoại, hợp tác quốc tế, Việt Nam đã ngày càng khẳng định vị thế trên trường quốc tế, nên các nước, các tổ chức phải nhìn nhận, đánh giá khách quan hơn về tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Sự kiện Việt Nam được bầu vào vị trí thành viên Hội đồng Nhân quyền thế giới năm 2016 đã minh chứng cho điều đó.

Ảnh: tuyengiao.vn

3. Mối quan hệ giữa bảo vệ quyền con người và bảo vệ an ninh quốc gia

Thực tế cho thấy thực hiện dân chủ và bảo đảm, bảo vệ quyền con người là mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia. Bảo vệ quyền con người là một nội dung hết sức quan trọng, một nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên của công tác an ninh, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Mối quan hệ giữa bảo vệ quyền con người và bảo vệ an ninh quốc gia là mối quan hệ biện chứng, gắn kết chặt chẽ với nhau trên mọi phương diện và tác động tương hỗ lẫn nhau.

Trước hết,về vị trí, vai trò: Bảo vệ quyền con người là một nội dung cốt lõi của bảo vệ an ninh con người; bảo vệ an ninh con người là một bộ phận cấu thành nội hàm của bảo vệ an ninh quốc gia.

An ninh con người và quyền con người là hai khái niệm độc lập, nhưng có mối quan hệ không thể tách rời. Khái niệm an ninh con người được Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) lần đầu đưa ra vào năm 1994 trong Báo cáo hàng năm về sự phát triển của con người. Theo đó, an ninh con người được hiểu là sự an toàn của con người trước những mối đe dọa kinh niên như nghèo đói, bệnh tật, đàn áp và những sự cố bất ngờ, bất lợi trong đời sống hàng ngày. Bảo đảm an ninh con người được kết hợp trong mối quan hệ với đảm bảo an ninh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trọng tâm là an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng - văn hoá, an ninh môi trường, an ninh sức khỏe, an ninh cá nhân và an ninh cộng đồng (an ninh xã hội). Như vậy, an ninh con người trở thành một bộ phận quan trọng của an ninh quốc gia và rộng hơn là an ninh toàn cầu và hoà bình thế giới. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: phải đảm bảo an ninh xã hội, an ninh con người. Ngày nay, vấn đề an ninh con người được các quốc gia trên thế giới coi trọng, gắn với phát triển con người, lấy con người làm trung tâm với mục tiêu chung. An ninh con người là điều kiện tiên quyết, đảm bảo cho sự phát triển con người đạt được mục tiêu, yêu cầu đặt ra. An ninh con người được bảo đảm, sự phát triển con người toàn diện có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với an ninh và bảo vệ an ninh quốc gia. Bảo vệ an ninh con người là bảo vệ các giá trị cơ bản quan trọng nhất trong cuộc sống của con người và cộng đồng; bảo vệ con người khỏi những nguy cơ, mối đe dọa và tình huống nguy hiểm hiện hữu. An ninh con người không tách rời hoà bình, an ninh và phát triển, không chỉ bao hàm bảo đảm tình trạng không có xung đột, mà còn nội dung bảo vệ quyền con người, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân có cơ hội để phát huy được năng lực của mình.

Thứ hai, về mục đích, bảo vệ an ninh con người nói chung, bảo vệ quyền con người nói riêng đều xuất phát từ mục tiêu chung là bảo vệ an ninh quốc gia. Vấn đề quan trọng, xuyên suốt của bảo vệ an ninh quốc gia là bảo vệ an ninh lãnh thổ và chế độ chính trị - nơi con người tồn tại, phát triển và thừa hưởng các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.

Con người là một thực thể, một góc nhỏ của xã hội, dân tộc, quốc gia, thế giới. Con người bị đe dọa, quyền con người bị xâm hại thì an ninh con người bị tổn thất, đe dọa và an ninh quốc gia cũng vì thế bị tác động, ảnh hưởng, nhiều khi là nghiêm trọng trong trường hợp quyền con người liên quan đến một cộng đồng, một dân tộc. Các cuộc xung đột dân tộc, sắc tộc gây mất ổn định chính trị - xã hội, đe dọa nghiêm trọng an ninh quốc gia là một ví dụ. Như vậy, con người và quyền con người là trọng tâm của an ninh con người. Bảo vệ quyền con người là bảo vệ các quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội; đấu tranh chống lại việc lợi dụng quyền con người để xâm phạm an ninh quốc gia. Mục đích của bảo vệ an ninh con người là bảo vệ quyền con người và tự do của cá nhân. Mục đích bảo vệ quyền con người là góp phần bảo đảm an ninh con người - một bộ phận cấu thành của an ninh quốc gia. Trong khi bảo vệ an ninh quốc gia là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ Xã hội chủ nghĩa và bảo vệ nhân dân. Thành tố nhân dân chính là trọng tâm của bảo đảm an ninh con người với tư cách là một cộng đồng, một dân tộc.

Từ những phân tích ở trên, có thể đi đến kết luận: mục đích bảo vệ quyền con người là để bảo vệ an ninh con người, góp phần quan trọng bảo vệ an ninh quốc gia. Mối quan hệ này mang tính hệ thống, chiến lược của mọi quốc gia.

Thứ ba, về nội dung, bảo vệ quyền con người không thể tách rời nội dung bảo vệ an ninh quốc gia.

Bảo vệ an ninh quốc gia có nội hàm rộng lớn, bao trùm. Nội dung bảo vệ an ninh quốc gia bao gồm bảo vệ sự ổn định và phát triển của tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trên các phương diện đối nội và đối ngoại; đấu tranh chống lại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước hội nhập và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nói một cách tổng quát, nội dung của bảo vệ an ninh quốc gia là “xây” và “chống”, trong đó xây dựng là cơ bản theo quan điểm của Đảng là lấy phát triển để ổn định, ổn định để phát triển.

Nội dung bảo vệ quyền con người là bảo vệ các quyền chính trị, dân sự, văn hóa - xã hội, phù hợp với nội dung bảo vệ an ninh quốc gia là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bảo vệ an ninh quốc gia xét cho cùng là bảo vệ an ninh cho cộng đồng, dân tộc, vì mục đích bao trùm là bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và nhân dân, mà quan điểm của Đảng ta là xây dựng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, mục tiêu đặt ra trong sự nghiệp cách mạng là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nội dung bảo vệ quyền con người còn là cảnh giác đấu tranh với âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền xâm phạm an ninh quốc gia.

Như vậy, cả về phương diện lý luận và thực tiễn, nội dung bảo về quyền con người và nội dung bảo vệ an ninh quốc gia có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, thống nhất, bổ sung hỗ trợ lẫn nhau. Trong đó, nội dung bảo vệ quyền con người là một bộ phận của nội dung bảo vệ an ninh quốc gia.

Thứ tư, về biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia và biện pháp bảo vệ quyền con người.

Bảo vệ an ninh quốc gia và bảo vệ quyền con người phải tuân thủ những nguyên tắc và áp dụng các biện pháp thống nhất.

Về nguyên tắc, Luật An ninh quốc gia quy định 4 nguyên tắc hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia: (1) Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân. (2) Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tộc, lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia làm nòng cốt. (3) Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; phối hợp có hiệu quả hoạt động an ninh, quốc phòng và đối ngoại. (4) Chủ động phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.

Đây là những nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt quá trình đấu tranh, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ quyền con người. Vì vậy, đòi hỏi các ban, bộ, ngành, địa phương, tổ chức, đoàn thể quần chúng phải quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo nhằm đạt hiệu quả cao. Mọi vi phạm các nguyên tắc trên đều có thể dẫn đến hậu quả khôn lường.

Trên cơ sở các nguyên tắc trên, công tác bảo vệ an ninh quốc gia và bảo vệ quyền con người đều sử dụng các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật, đó là: Biện pháp vận động quần chúng, biện pháp pháp luật, biện pháp ngoại giao, biện pháp kinh tế, biện pháp khoa học - công nghệ, biện pháp nghiệp vụ và biện pháp vũ trang. Tuy nhiên, trong từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể có thể áp dụng tổng thể hay một số biện pháp phù hợp, hiệu quả nhất.

Thứ năm, về chủ thể bảo vệ an ninh quốc gia và bảo vệ quyền con người về cơ bản là đồng nhất. Theo quan điểm bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ quyền con người, đây là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các ngành, các cấp, các lực lượng vũ trang, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, trong đó, lực lượng Công an nhân dân có vai trò nòng cốt. Trách nhiệm của các ban, bộ, ngành, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ quyền con người theo chức năng, đồng thời phối hợp chặt chẽ với lực lượng Công an nhân dân, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để lực lượng Công an nhân dân thực hiện tốt trọng trách được giao.

Đấu tranh, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên và lâu dài. Hiểu rõ mối quan hệ giữa hai lĩnh vực công tác này sẽ tập trung lực lượng, phương tiện, trí tuệ trong cuộc đấu trí, đấu pháp, đấu lực với các thế lực thù địch, góp phần giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh trật tự, tạo môi trường điều kiện thuận lợi, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay

Tài liệu trích dẫn

(1) V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 25, Nxb Tiến bộ, 1980, tr. 375.

(2) Chỉ thị 12-CT/TW ngày 12-7-1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng.

Thiếu tướng, GS.TS. Bùi Quảng Bạ

Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược và khoa học công an, Bộ Công an