Sau hơn 20 năm tổ chức triển khai Chỉ thị số 30-CT/TW, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở đã bộc lộ những hạn chế, vướng mắc cần được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Đồng thời bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội quốc tế và trong nước sau 20 năm đã có nhiều chuyển biến, đặt ra những yêu cầu, thách thức mới đối với việc hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở.

1. Thực trạng pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở
Ngay sau khi Bộ Chính trị khóa VIII ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW “Về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở” để cụ thể hóa Nghị quyết số 03-NQ/HNTW ngày 18/06/1997 của Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) về phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, công tác xây dựng pháp luật nhằm thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về thực hiện dân chủ ở cơ sở đã được chú trọng. Hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở được ban hành phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ. Hiện nay, thực hiện dân chủ ở cơ sở cơ bản được điều chỉnh bởi 4 văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực, gồm: Nghị quyết số 55/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 30/8/1998 về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan; Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập và Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động. 
Các quy định của pháp luật hiện hành về thực hiện dân chủ ở cơ sở cơ bản bám sát và thể chế hoá đầy đủ phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được đề ra từ Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 28/11/1984 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa V) “Về tăng cường công tác quần chúng của Đảng” và Chỉ thị số 30-CT/TW “Về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở”. Theo đó, tại Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11, Nghị định số 04/2015/NĐ-CP và Nghị định số 145/2020/NĐ-CP quy định cụ thể các thông tin phải công khai để Nhân dân, cán bộ, công chức, người lao động được biết; được bàn, quyết định trực tiếp; được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; các nội dung và hình thức Nhân dân giám sát. Pháp luật cũng quy định trách nhiệm của chính quyền địa phương, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong việc tạo điều kiện, bảo đảm để Nhân dân tiếp nhận đầy đủ thông tin, lắng nghe, tiếp thu, giải trình ý kiến Nhân dân và chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân theo quy định của pháp luật. 
Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở các loại hình cơ sở đã tạo lập cơ sở pháp lý để Nhân dân thực hiện quyền làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội của mình, tạo không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã góp phần mang lại sự ổn định chính trị xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; tác động tích cực trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội của địa phương; là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa mới, xây dựng nông thôn mới. Đồng thời, kết quả thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng góp phần xây dựng chính quyền cơ sở ngày càng công khai, minh bạch, tăng cường trách nhiệm giải trình trước Nhân dân, ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng. Thực hiện dân chủ ở cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập đã phát huy được quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong nội bộ cơ quan, đơn vị; khơi dậy trí tuệ, năng lực sáng tạo, tinh thần và quyết tâm của các cán bộ, công chức, viên chức để vượt qua khó khăn, thách thức, ổn định và phát triển tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập. Thực hiện dân chủ tại doanh nghiệp đã có những chuyển biến tích cực. Người sử dụng lao động đã chủ động phối hợp với người lao động, tổ chức đại diện cho người lao động xây dựng quy chế dân chủ của doanh nghiệp. Thông qua việc thực hiện dân chủ tại doanh nghiệp, người lao động và người sử dụng lao động đã chia sẻ thông tin về tình hình của doanh nghiệp, về những khó khăn, thách thức, định hướng giải quyết trong thời gian tới để người lao động hiểu, chia sẻ với những khó khăn của doanh nghiệp; đồng thời người sử dụng lao động lắng nghe những đề xuất, kiến nghị của người lao động, thảo luận cách thức giải quyết, tạo sự đồng thuận, tin tưởng, gắn bó của người lao động với doanh nghiệp, hạn chế xung đột lợi ích và tranh chấp lao động tập thể.
Bên cạnh những kết quả đạt được, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng đã bộc lộ những hạn chế, vướng mắc cần được nghiên cứu hoàn thiện, cụ thể:
Một là, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện hành chưa phù hợp với nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 với tinh thần đề cao quyền dân chủ của Nhân dân, theo đó đã ghi nhận các hình thức thực hiện quyền dân chủ “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6); “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước” (khoản 1 Điều 28) và hiến định trách nhiệm “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (khoản 2 Điều 28). Đồng thời, tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013 khẳng định nguyên tắc “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Trong khi đó, hiện nay các quy định của pháp luật điều chỉnh chung về thực hiện dân chủ ở cơ sở đang được ghi nhận tại 03 văn bản dưới luật (Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ tại xã, phường, thị trấn; Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động) là chưa thực sự phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 về tôn trọng, ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện quyền dân chủ của Nhân dân.
Hai là, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện hành còn tản mạn, chưa có tính hệ thống. Mặc dù có sự khác biệt về không gian nhưng cả 3 loại hình cơ sở được quy định tại Chỉ thị số 30-CT/TW và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành (gồm: xã, phường, thị trấn; cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập; doanh nghiệp) đều có điểm chung là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện việc công khai thông tin, tham gia ý kiến, và kiểm tra, giám sát của người dân (với tư cách công dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động). Do vậy, việc quy định về thực hiện dân chủ ở mỗi loại hình cơ sở tại các văn bản khác nhau mà không có quy định chung về thực hiện dân chủ ở cơ sở là chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Ba là, nội hàm về thực hiện dân chủ ở cơ sở trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành còn có sự chưa thống nhất và chồng lấn với các văn bản quy phạm pháp luật về quyền dân chủ khác. Điều này một phần xuất phát từ sự chưa rõ ràng trong việc phân định khái niệm “dân chủ” và “thực hiện dân chủ”. Khái niệm “dân chủ” theo nghĩa rộng là quyền lực nhân dân1, trong đó bao gồm các quyền cụ thể như quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền tiếp cận thông tin, quyền khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị, quyền trưng cầu ý dân,... (gọi chung là các quyền dân chủ) đã được quy định tại Hiến pháp và các luật. Trong khi “thực hiện dân chủ” hay “thực hành dân chủ” là tổng hợp các cơ chế, chính sách, nguyên tắc, hình thức và biện pháp để bảo đảm thực hiện quyền dân chủ2. Trên thực tế, các quy định của pháp luật hiện hành về thực hiện dân chủ ở cơ sở đang bao trùm cả quy định về một số quyền dân chủ cụ thể như quyền tiếp cận thông tin, quyền khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị... Do vậy, nội dung quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở có sự chồng lấn với các luật khác như Luật Tiếp cận thông tin, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo... 
Bốn là, nội dung và hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở còn hạn chế, chưa đáp ứng thực tiễn yêu cầu phát triển ở cơ sở. Theo quy định của Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 thì phạm vi các vấn đề để Nhân dân quyết định chỉ gồm 2 nội dung: (i) chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và (ii) các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật. Ngoài ra, Pháp lệnh chưa quy định cụ thể chủ thể có quyền đề xuất các vấn đề đưa ra để Nhân dân quyết định. Trên thực tế, Nhân dân chủ yếu bàn và quyết định các nội dung do Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ đạo Trưởng thôn, Tổ trưởng Tổ dân phố đề xuất, do vậy chưa phát huy được vai trò của người dân và các chủ thể khác trong việc đề xuất những nội dung đưa ra nhân dân bàn và quyết định trực tiếp. 
Năm là, pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể các điều kiện bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở, do vậy, nhiều quy định về quyền của Nhân dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở khó tổ chức thực thi trên thực tế. Ví dụ như Pháp lệnh chỉ quy định về nội dung, hình thức công khai mà thiếu quy định đảm bảo tính minh bạch trong việc công khai của chính quyền cấp xã dẫn đến tình trạng tại một số địa phương thực hiện việc công khai một cách “chiếu lệ” (tuy vẫn đúng nội dung cần công khai, đúng địa điểm phải công khai nhưng người dân vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp thu tất cả nội dung văn bản được công khai, như việc dán thông báo có nhiều trang trên bảng thông báo có lưới bảo vệ ... 

Ảnh minh họa. Nguồn: quochoi.vn.

2. Bối cảnh và yêu cầu hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở trong thời kỳ mới
Sau hơn 20 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW và 15 năm thực hiện Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế đã có nhiều thay đổi đặt ra yêu cầu hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Một là, xu thế toàn cầu hoá kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng. Sự phụ thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng trở thành phổ biến. Trong bối cảnh đó, nhu cầu hội nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện hệ thống pháp luật, củng cố hệ thống chính trị, đồng thời đảm bảo mở rộng và phát huy dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ để giữ vững ổn định chính trị và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Hai là, những thành tựu phát triển kinh tế -xã hội của đất nước trong 20 năm qua đã tạo ra những chuyển biến lớn về nhận thức xã hội. Tư tưởng và ý thức dân chủ ngày càng phát triển trong xã hội. Cùng với sự phát triển của điều kiện kinh tế và mức sống được cải thiện, trình độ dân trí của người dân được nâng lên đáng kể, ý thức về trách nhiệm chính trị và trách nhiệm cộng đồng được vun đắp đặt ra yêu cầu ngày càng cao về đảm bảo quyền dân chủ và tạo ra tiền đề thuận lợi cho quá trình hiện thực hóa các quyền dân chủ của người dân.
Ba là, đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một định hướng có tính nguyên tắc trong chiến lược phát triển của đất nước ta. Tính tất yếu trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt ra yêu cầu về hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước, đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân; giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và xã hội, quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân một cách hài hòa, cùng có lợi.
Bốn là, diễn biến nhanh và phức tạp về tình hình an ninh, chính trị của thế giới và khu vực cùng với sự biến đổi khí hậu, thiên tai dịch bệnh khó lường và những khó khăn nội tại của quá trình phát triển đất nước là những thách thức đặt ra trong quá trình phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Trước những khó khăn, thách thức đó, Đảng ta xác định mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa vừa là yêu cầu, vừa là động lực đưa đất nước vượt qua khó khăn, giành được thắng lợi trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Trong bối cảnh như vậy, việc hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở cần bảo đảm các yêu cầu sau:
Thứ nhất, việc hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở phải bảo đảm thể chế hoá đầy đủ chủ trương, quan điểm của Đảng tại Nghị quyết đại hội XIII của Đảng về tăng cường phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quán triệt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở bảo đảm phù hợp với nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về quyền làm chủ của Nhân dân và nguyên tắc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở phải bảo đảm phát huy dân chủ thực chất, hạn chế tính hình thức trong quy định của pháp luật, bảo đảm tính khả thi và phù hợp với điều kiện, năng lực thực hành dân chủ của Nhân dân.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở phải bảo đảm tính hài hoà giữa thực hiện quyền dân chủ với tăng cường pháp chế, kỷ luật, kỷ cương, hạn chế tình trạng “dân chủ quá trớn”, lợi dụng dân chủ để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.
3. Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở
Một là, quán triệt chủ trương của Đảng và cụ thể hoá nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 thông qua việc ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở là sự kế thừa, phát triển và hoàn thiện những quy định của Nghị quyết số 55/NQ-UBTVQH10, Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11, Nghị định số 04/2015/NĐ-CP và Nghị định số 145/2020/NĐ-CP đã được thực tiễn kiểm nghiệm là hợp lý, đúng đắn và hiệu quả; sửa đổi những quy định mà qua thực tiễn cho thấy không còn phù hợp. Theo đó, phạm vi điều chỉnh của dự án Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở bao trùm các loại hình cơ sở được xác định bao gồm xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng lao động. Đối tượng thực hiện dân chủ ở cơ sở là Nhân dân với tư cách công dân tại xã, phường, thị trấn; cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tại cơ quan, đơn vị và người lao động tại doanh nghiệp và các tổ chức có thuê mướn, sử dụng lao động. Với việc luật hoá các thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện đang được điều chỉnh tại các văn bản dưới luật sẽ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, nâng cao giá trị pháp lý và tăng cường các biện pháp bảo đảm thực thi dân chủ tại cơ sở.
Hai là, bảm đảm tính tường minh của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở thông qua các quy định cụ thể phạm vi “cơ sở” cũng như giải thích khái niệm “thực hiện dân chủ ở cơ sở” tại Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm phân biệt với các hình thức dân chủ khác hiện đã được quy định cụ thể tại các luật khác như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; Luật Trưng cầu ý dân, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật... Theo đó, Luật này chỉ quy định về “thực hiện dân chủ” hay các cách thức, phương pháp và biện pháp bảo đảm để người dân thực hiện quyền dân chủ tại cơ sở mà không quy định nội dung các quyền dân chủ cụ thể. Do vậy, các quy định liên quan đến quyền bầu cử, lấy phiếu tín nhiệm các chức danh lãnh đạo chính quyền địa phương hay các quy định về quyền phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của người dân cần được cân nhắc không thuộc phạm vi điều chỉnh của dự án Luật này. Mặt khác, do giới hạn phạm vi điều chỉnh ở “cơ sở” nên dự án Luật chỉ nên tập trung quy định về hình thức thực hiện dân chủ đặc thù, riêng có tại cơ sở (ví dụ: sáng kiến công dân, tổ chức tự quản địa phương, các hoạt động của cộng đồng dân cư) mà không nên quy định về thực hiện dân chủ nói chung của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương (ví dụ: hoạt động tiếp công dân, hoạt động tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người dân...).
Ba là, tăng cường phát huy dân chủ thông qua việc mở rộng nội dung và hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở. Theo đó, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở cần mở rộng phạm vi các nội dung Nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp như quyết định hương ước, quy ước, luật lệ của cộng đồng dân cư; quyết định người đại diện của cộng đồng dân cư; quyết định các khoản thu đóng góp của Nhân dân; quyết định các nội dung liên quan trực tiếp đến đời sống của Nhân dân tại cơ sở,... Quyết định của cộng đồng dân cư là quyết định có giá trị thi hành trong cộng đồng dân cư mà không cần được xem xét, phê duyệt bởi một cơ quan, tổ chức khác, kể cả Nhà nước. Nhà nước chỉ có quyền can thiệp, bãi bỏ quyết định của cộng đồng dân cư trong trường hợp quyết định đó là trái Hiến pháp và pháp luật. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu để quy định đa dạng các hình thức thực hiện dân chủ của Nhân dân, trong đó mở rộng hình thức dân chủ trực tiếp và củng cố các hình thức dân chủ đại diện (thông qua Hội đồng nhân dân) hoặc thông qua các cơ chế giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Việc mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở có thể được xem xét theo hướng quy định hình thức sáng kiến Nhân dân, công nhận thẩm quyền của người dân trong việc đề xuất các vấn đề để cộng đồng dân cư hoặc chính quyền địa phương quyết định thay vì quyền đề xuất, sáng kiến chỉ thuộc về Nhà nước như quy định hiện hành.
Bốn là, bảo đảm tính khả thi của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở thông qua việc quy định cụ thể các biện pháp, cơ chế bảo đảm thực hiện. Ngoài việc quy định các nội dung, hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở cần chú trọng đến việc quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện. Biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở bao gồm các yếu tố: (i) sự cởi mở của cơ quan công quyền, bao gồm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của chính quyền cơ sở; (ii) bảo đảm về điều kiện vật chất và phương tiện kỹ thuật, bao gồm chế độ, chính sách và điều kiện hoạt động của các tổ chức tự quản của cộng đồng dân cư, cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật công khai thông tin, thảo luận, bàn bạc tại cộng đồng dân cư; (iii) công cụ đánh giá mức độ thực hiện dân chủ ở cộng đồng dân cư bao gồm các thang, bảng, chỉ số đánh giá chất lượng và hiệu quả của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, đánh giá mức độ tham gia và sự hài lòng của người dân đối với các hoạt động dân chủ tại cơ sở, đánh giá sự phản hồi của chính quyền địa phương đối với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở; (iv) năng lực nhận thức của người dân và chính quyền trong việc thực hành dân chủ. Các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở cần được quy định cụ thể, phù hợp với năng lực và điều kiện đáp ứng của Nhà nước và yêu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn đời sống chính trị - xã hội tại cơ sở.
Năm là, nghiên cứu quy định về hoạt động của các thiết chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. Hiện nay, Ban Thanh tra Nhân dân và Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng là hai trong số các tổ chức tự quản của Nhân dân do Nhân dân thành lập, thay mặt Nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức có liên quan tại cơ sở. Mặc dù là các thiết chế dân chủ ở cơ sở nhưng tổ chức và hoạt động của Ban Thanh tra Nhân dân hiện đang được quy định tại pháp luật về thanh tra; tổ chức và hoạt động của Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng hiện đang được quy định trong pháp luật về đầu tư công; đồng thời các quy định hiện hành còn thiếu tính cụ thể, rõ ràng trong việc xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các điều kiện bảo đảm hoạt động cho các thiết chế này. Việc đặt không đúng vị trí của các thiết chế thực hiện dân chủ ở cơ sở phần nào làm giảm đi hiệu quả hoạt động của các tổ chức này, đồng thời làm giảm đi vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của Nhân dân. Do vậy, cần đặt đúng vị trí của Ban Thanh tra Nhân dân và Ban Giám sát đầu tư cộng đồng trong dự án Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở với tư cách là các thiết chế thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của Nhân dân. Đồng thời, pháp luật cần quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Thanh tra Nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng theo hướng bảo đảm tính độc lập, khách quan của các tổ chức này với đối tượng chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân; nâng cao giá trị pháp lý của kết luận kiểm tra, giám sát và trách nhiệm giải trình, tiếp thu ý kiến của đối tượng kiểm tra, giám sát.

ThS. Phạm Thị Hậu

Vụ Chính quyền địa phương, Bộ Nội vụ

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 4/2022

---

Tài liệu trích dẫn
(1) GS. TS Nguyễn Đăng Dung, Nền dân chủ trực tiếp đầu tiên của nhân loại, những thành tựu và hạn chế, Kỷ yếu Hội thảo "Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam" (2014).
(2) GS.TS Lê Minh Tâm, tham luận tại Hội thảo góp ý dự án Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, Viện Nghiên cứu lập pháp ngày 05/3/2022.