Thể chế cần phải đi trước một bước khi có thể, cho nên, hoàn thiện pháp luật để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các mối quan hệ mới phát sinh trong tiến trình chuyển đổi số, khuyến khích đổi mới, sáng tạo là một trong những nhiệm vụ, giải pháp tạo nền móng chuyển đổi số được nêu rõ trong Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Bài viết phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam, nhận diện những nguyên nhân của thực trạng đó, qua đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về quyền tiếp cận thông tin đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số quốc gia hiện nay.

Ảnh minh họa. Nguồn: baochinhphu.vn

1. Đặt vấn đề

Thông tin là một nguồn lực quan trọng phục vụ quá trình tồn tại, phát triển của bất kì cá nhân nào. Con người sở dĩ sống được với nhau, giao tiếp được với nhau, cải tạo được thế giới, trước hết là nhờ vào sự trao đổi thông tin giữa người này với người khác và cả giữa con người với thế giới tự nhiên xung quanh. Trong thời hiện đại, quyền lực quan trọng nhất thuộc về ai có được thông tin. Tác giả Nguyễn Đăng Dung cho rằng, thông tin là tất cả mọi thứ, nếu không nắm được thông tin, người ta có thể mất tiền bạc, mất danh dự, mất sức khỏe có khi mất cả tính mạng1. Chính nhu cầu cho sự tồn tại, phát triển là yếu tố thúc đẩy mỗi con người cần phải được đảm bảo khả năng tiếp cận thông tin (TCTT). Trong bối cảnh chuyển đổi số, quyền TCTT lại càng trở nên quan trọng và ngày càng phát triển với nhiều sắc thái mới.

Pháp luật về quyền TCTT có liên quan đến hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với đa dạng tất cả các loại chủ thể của quan hệ pháp luật. Cho nên, có thể nói pháp luật về quyền TCTT là nền móng, điều kiện, kiến tạo những pháp luật khác hoàn thiện. Hoàn thiện pháp luật về quyền TCTT chính là nền tảng, điều kiện để rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực chuyên ngành để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các mối quan hệ mới phát sinh trong tiến trình chuyển đổi số, khuyến khích đổi mới, sáng tạo là nhiệm vụ, giải pháp nền móng chuyển đổi số mà Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đã nêu rõ.

2. Khái quát về quyền tiếp cận thông tin trong bối cảnh chuyển đổi số

Thông tin là những đối tượng có khả năng bổ sung và gia tăng hiểu biết của con người, hay có thể khẳng định nội dung cốt lõi của thông tin đó là tri thức khoa học2. Thiếu thông tin, chậm thông tin đó là thiếu tri thức và đồng nghĩa với đói nghèo, là tụt hậu, là mất cơ hội làm việc có hiệu quả. Trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá, sự chậm trễ trong việc phổ biến thông tin - tri thức là có lỗi đối với sự phát triển của đất nước3. Tuy nhiên, nếu thông tin chỉ ở dạng tĩnh sẽ không phát huy giá trị, ý nghĩa nếu thông tin đó con người không được biết, lĩnh hội, sử dụng. Do đó, thông tin cần phải được lưu giữ, quản lý, xử lí và chuyển giao từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua nhiều hình thức nhất định. Tuy nhiên, trước hết cũng cần phải khẳng định rằng, quyền TCTT dù ở trong bất kỳ thời đại nào cũng giữ nguyên bản chất của nó, đó là khả năng của các chủ thể trong xã hội được tự do lựa chọn cách thức theo ý mình để biết được thông tin của chủ thể khác, không bị hạn chế, ràng buộc một cách vô lí. Qua các thời đại khác nhau, quyền TCTT chỉ khác nhau bởi phương thức thực hiện. Đúng như C.Mác đã nhận định: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”4.

Lịch sử loài người đã trải qua nhiều cách thức lưu trữ, quản lý và trao đổi thông tin khác nhau. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay được coi là bao hàm tất cả những thành tựu của các cuộc cách mạng công nghiệp trước đó, đại diện cho sự hòa nhập của đa dạng công nghệ, làm mờ ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học và yếu tố quan trọng của cuộc cách mạng này là sự phát triển của kết nối giữa thế giới thực và thế giới ảo thông qua internet, kết nối vạn vật và các hệ thống kết nối internet. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm thay đổi căn bản cách thức lưu trữ, quản lý và trao đổi thông tin giữa các chủ thể trong xã hội.  

Thứ nhất, công nghệ giúp chức năng của nhà nước tập trung vào việc định hướng, dẫn dắt sự phát triển của xã hội. Với lợi thế của mình, nhà nước có điều kiện thu thập, phân tích, xử lý thông tin và nắm giữ những thông tin quan trọng cả về số lượng lẫn chất lượng, từ đó cung cấp thông tin có định hướng cho xã hội, trên cơ sở đó, xã hội tự lựa chọn, quyết định. Bên cạnh đó, nhà nước cung cấp thông tin một cách nhanh chóng qua email, mạng xã hội, thiết bị công nghệ; đối chiếu, kiểm tra tính đúng đắn, khách quan của thông tin. Chẳng hạn như, Cơ quan quản lý thảm họa động đất Trung Quốc cung cấp dịch vụ cảnh báo sớm động đất và dịch vụ báo cáo cường độ động đất nhanh chóng thông qua việc triển khai 15.899 trạm giám sát trên khắp Trung Quốc, các cảnh báo sớm có thể đến được với công chúng thông qua truyền hình, hệ thống IPTV, các ứng dụng di động như WeChat và Alipay, cũng như loa phát thanh ở địa phương, từ đó, giúp người dân có thể thực hiện các biện pháp phòng ngừa để giảm thương vong sau khi nhận được cảnh báo trước vài giây đến vài chục giây trước khi động đất xảy ra. Mạng lưới này hiện đã được tích hợp với các ngành công nghiệp như đường sắt, đường ống, lưới điện, điện hạt nhân và khí đốt tự nhiên5.

Thứ hai, những tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ giúp tương tác và kết nối trong hệ thống cơ quan nhà nước. Giúp kết nối thông tin cả theo chiều ngang lẫn chiều dọc, giữa các cơ quan nhà nước trung ương với nhau, giữa cơ quan nhà nước ở trung ương với cơ quan nhà nước ở địa phương, giữa các cơ quan nhà nước địa phương với nhau... qua đó tăng cường hiệu lực, hiệu quả chất lượng dịch vụ cung cấp thông tin6. Nếu như trước đây, kĩ thuật máy tính được sử dụng chỉ để soạn thảo văn bản thay thế máy chữ thì hiện nay đã hình thành công nghệ trên cơ sở sử dụng, trao đổi văn bản điện tử và ở giai đoạn đầu việc sử dụng văn bản điện tử được thực hiện song song, độc lập với văn bản giấy, từ giai đoạn sau dần dần được thực hiện kết hợp7 và có thể chuyển hóa cho nhau. Cho nên, theo phương thức truyền thống, công tác giải quyết văn bản cũng chỉ trong nội bộ cơ quan nhà nước và trong điều kiện ứng dụng công nghệ hiện đại thì việc trao đổi văn bản có thể được thực hiện giữa các cơ quan nhà nước với nhau cả ở trung ương và địa phương.

Thứ ba, công nghệ hiện đại làm xuất hiện xã hội điện tử, các “công dân điện tử”, “công dân số”8. Các thông tin cá nhân, các giao dịch của cá nhân được lưu trữ trong hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử quốc gia về dân cư. Người dân sẽ được quản lý dưới dạng mã số cá nhân, tích hợp và đồng bộ với các lĩnh vực quản lý của nhà nước. Cơ sở dữ liệu này được liên thông giữa tất cả các cơ quan nhà nước với nhau mang lại hiệu quả đáng kể về mặt thời gian, chi phí, tính chính xác cũng như tiết kiệm nguồn nhân lực giải quyết các thủ tục hành chính. Với sự ứng dụng của công nghệ thông tin và truyền thông thì người dân sẽ giao tiếp với các cơ quan nhà nước được mọi lúc, mọi nơi (24/24 và 24/7...) giúp cho các cơ quan nhà nước trở nên thân thiện và gần gũi với người dân hơn bao giờ hết.

Thứ tư, xã hội điện tử cũng đứng trước một thách thức rất lớn là vấn đề quản lý thông tin và an ninh thông tin9. Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin có thể dẫn đến tình hình tội phạm mạng, thông tin sai lệch, thậm chí cả thông tin kích động tạo ra nguy cơ bất ổn chính trị... đó chính là các vấn đề an ninh mạng, an ninh phi truyền thống10.

3. Thực trạng pháp luật về quyền tiếp cận thông tin trong bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay

Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, trước làn sóng mạnh mẽ của cách mạng chuyển đổi số là xu hướng phát triển tất yếu, đều đang nỗ lực hoàn thiện pháp luật để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của lĩnh vực này, trong đó có pháp luật về quyền TCTT. Luật Báo chí năm 1989 đã quy định việc cung cấp thông tin cho báo chí là nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước, trong đó công dân có thể được cung cấp thông tin trên báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn); báo nói (chương trình phát thanh); báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe - nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau) bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài (Điều 3). Nhiều văn bản pháp luật sau này đã quy định việc áp dụng khoa học công nghệ vào việc thực hiện quyền TCTT, chẳng hạn như Luật Công nghệ thông tin năm 2006; Luật Bưu chính năm 2010; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet; Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022, Luật Đất đai năm 2024... Đặc biệt, nhằm cụ thể hóa quyền TCTT trong Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã ban hành Luật TCTT năm 2016 áp dụng chung cho việc TCTT của công dân trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao. Trong đó, công dân được sử dụng thành tựu khoa học công nghệ để TCTT như việc đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp thông tin. Đăng tải thông tin trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước; Công khai trên phương tiện thông tin đại chúng; Đăng Công báo; cung cấp thông tin qua mạng điện tử, dịch vụ bưu chính, fax... là những hình thức thực hiện quyền TCTT... Thời gian qua, chuyển đổi số trong xã hội đã đạt được những kết quả nhất định, như: phát triển hạ tầng số, các nền tảng số, cơ sở dữ liệu quốc gia, dịch vụ công trực tuyến, an toàn, an ninh thông tin...11:  Cơ sở dữ liệu về dân cư đã lưu thông tin của khoảng 99 triệu nhân khẩu, đạt trên 99% dân số Việt Nam; kết nối với 15 bộ, ngành; 63/63 địa phương; Cơ sở dữ liệu về đăng ký doanh nghiệp, đã kết nối được với 13 bộ, ngành và 63/63 địa phương với khoảng 41 triệu giao dịch; lưu trữ dữ liệu của hơn 1,6 triệu doanh nghiệp và hơn 200.000 đơn vị trực thuộc doanh nghiệp; lưu trữ thông tin đăng ký của khoảng 2,4 triệu hộ kinh doanh; Cơ sở dữ liệu về hộ tịch điện tử đã hoàn thành triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Cơ sở dữ liệu về cán bộ, công chức, viên chức đã kết nối đồng bộ dữ liệu với 96 bộ, ngành, cơ quan trung ương, địa phương, trong đó 70 bộ, ngành, địa phương đã đồng bộ dữ liệu (đạt 100%)... Có thể thấy, chuyển đổi số đã đạt được một số thành tựu quan trọng trên nhiều mặt, tạo nền móng vững chắc cho công cuộc chuyển dịch của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và người dân lên không gian số, thúc đẩy và phát triển chính phủ số, xã hội số góp phần thay đổi phương thức thực hiện quyền TCTT. Như vậy, có thể thấy rằng, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về quyền TCTT cụ thể, rõ ràng từng bước phù hợp với bối cảnh chuyển đổi số. Tuy nhiên, qua rà soát, nghiên cứu thì các quy định của pháp luật về quyền TCTT hiện hành được đánh giá là chậm hoàn thiện so với sự phát triển không ngừng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, được biểu hiện cụ thể như sau:

Thứ nhất, pháp luật hiện nay còn mâu thuẫn, hạn chế chủ thể có quyền TCTT. Pháp luật quốc tế quy định quyền TCTT là một trong những quyền con người12. Trong khi đó, với tư cách là một thành viên tham gia các công ước pháp luật quốc tế, nhưng Hiến pháp năm 2013 (Điều 25), Luật TCTT năm 2016 (Điều 3) lại chỉ quy định quyền TCTT của công dân. Bên cạnh đó, Luật TCTT năm 2016 cũng quy định người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có quyền yêu cầu cung cấp thông tin liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ (khoản 1 Điều 36). Dù rằng, quy định trên của pháp luật Việt Nam có thể không vi phạm các vấn đề về nội luật hóa điều ước quốc tế, bởi mỗi quốc gia có đặc thù riêng về thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội, nhưng trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế sâu rộng, nhất là trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thì khoảng cách về nơi cư trú, cũng như quốc tịch của các cá nhân hầu như là không có trong TCTT. Ngoài ra, cũng thấy rằng, đối với phương thức tự do TCTT thì đối với những thông tin mà các quan nhà nước có trách nhiệm công khai rộng rãi thì bất kỳ cá nhân, tổ chức nào cũng có thể TCTT mà không bị ảnh hưởng bởi quốc tịch, nơi cư trú.

Thứ hai, chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin được pháp luật quy định còn chưa thống nhất. Luật TCTT năm 2016 chỉ quy định cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin do mình tạo ra (Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm cung cấp thông tin do mình và do các cơ quan ở cấp mình tạo ra, thông tin do mình nhận được để trực tiếp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn). Việc cung cấp thông tin của các tổ chức chính trị - xã hội, các đơn vị sự nghiệp công, các doanh nghiệp nhà nước liên quan đến vấn đề quản lý, sử dụng tài chính, ngân sách và tổ chức khác thực hiện theo theo quy định của pháp luật hiện hành và theo điều lệ, quy chế của các tổ chức, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật TCTT năm 2016. Như vậy, có thể thấy, cùng thực hiện một quyền TCTT nhưng có tới hai hệ thống pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh, quy định này có thể dẫn đến mâu thuẫn, chồng chéo trong quá trình thực hiện và sẽ gây khó khăn cho chủ thể TCTT, nhất là đối với cá nhân.

Thứ ba, đối tượng của quyền TCTT còn quy định quá hẹp, không phát huy được sự chủ động trong cung cấp thông tin của chủ thể có trách nhiệm cung cấp và quan trọng hơn là có thể hạn chế quyền TCTT của chủ thể có quyền. Theo quy định pháp luật hiện hành thì hầu hết các cơ quan nhà nước chỉ có trách nhiệm cung cấp thông tin do mình tạo ra mà không có trách nhiệm cung cấp thông tin do mình nhận được kể cả những thông tin liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Quy định này không phù hợp trong bối cảnh chuyển đổi số, khi mà các cơ quan nhà nước cũng như các tổ chức khác có thể chia sẻ thông tin và thông tin được liên thông giữa hệ thống cơ quan nhà nước, làm lãng phí nguồn lực của xã hội.

Thứ tư, quy định về ngôn ngữ cung cấp thông tin chưa phong phú, đa dạng. Có thể nói ngôn ngữ là một trong những công cụ quan trọng nhất để con người có thể nắm giữ, trao đổi thông tin. Chỉ khi mọi người hiểu được ngôn ngữ thông tin thì mới có thể biết được thông tin, trao đổi thông tin và hiểu được thông tin. Nhưng thực tế thì không phải mọi chủ thể TCTT đều có năng lực ngôn ngữ như nhau. Ngay cả ở Việt Nam cũng không phải bất kỳ người nào cũng có khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ chung, phổ thông là tiếng Việt. Nhưng trong các văn bản pháp luật về quyền TCTT, thông tin do các cơ quan nhà nước hay chủ thể khác nắm giữ hầu hết đều chỉ dùng ngôn ngữ tiếng Việt, không có quy định bắt buộc các chủ thể nắm giữ thông tin phải có trách nhiệm dịch thông tin từ tiếng Việt sang ngôn ngữ khác (tiếng nước ngoài hay tiếng dân tộc thiểu số) mà chỉ dừng ở mức độ là khuyến nghị, phụ thuộc vào điều kiện thực tế của họ. Điều này tạo ra rào cản vô cùng lớn trong TCTT của các chủ thể là người nước ngoài hay chính bản thân chính công dân Việt Nam sống ở vùng sâu, vùng xa, có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số.

Thứ năm, thực tiễn thời gian qua, trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền TCTT của nhiều cơ quan nhà nước chưa cao, thực hiện chưa đúng, chưa đầy đủ các quy định của pháp luật về quyền TCTT có một phần nguyên nhân cơ bản là do chưa có đủ chế tài xử lí đối với các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nếu vi phạm pháp luật về quyền TCTT của công dân13. Nguyên nhân này lại càng cơ bản, quan trọng khi mà công tác quản lí nhà nước đối với các thiết bị công nghệ trong bối cảnh chuyển đổi số còn yếu kém14.

Thực trạng pháp luật về quyền TCTT trong bối cảnh chuyển đổi số được phân tích trên đây có rất nhiều nguyên nhân, bao gồm cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó, có một số nguyên nhân cơ bản sau:

Một là, nhận thức về chuyển đổi số còn chậm đổi mới. Văn hoá cung cấp thông tin một chiều vẫn đang còn tồn tại trong tư duy, nhận thức của đa số các cơ quan nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức khi vẫn cho mình có quyền “ban phát” thông tin cho người dân15, cho nên khi xây dựng pháp luật các cơ quan nhà nước vẫn còn giữ nhận thức theo cách thức truyền thống. Bên cạnh đó, nhận thức và trình độ ứng dụng công nghệ thông tin của bộ phận người dân còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền TCTT.

Hai là, thông tin do nhà nước có phạm vi rất rộng bao quát hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nên số lượng văn bản pháp luật có liên quan rất nhiều, trong khi nguồn lực nhà nước thì có hạn, dẫn đến khó tránh khỏi những thiếu sót, mâu thuẫn, chưa thống nhất.

Ba là, mặc dù cơ sở hạ tầng chuyển đổi số ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận, nhưng điều kiện kinh tế của nước ta vẫn còn thấp, nhất là có sự chênh lệch lớn giữa các địa phương, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa, điều kiện kinh tế hết sức khó khăn điều này ảnh hưởng đến cả nguồn lực của nhà nước cũng như người dân, chưa thể đủ điều kiện để thực hiện quyền TCTT hoàn toàn trên nền tảng số.

4. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về quyền tiếp cận thông tin đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay

Chuyển đổi số là cuộc cách mạng về thể chế hơn là cuộc cách mạng về công nghệ. Chính vì vậy, Quyết định số 749/QĐ-TTg xác định thể chế cần phải đi trước một bước. Do đó, để thích ứng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ trong thời đại chuyển đổi số, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện về quyền TCTT như sau:

Thứ nhất, các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục tổ chức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến quyền TCTT của người dân; đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm phù hợp với Điều 3 của Luật TCTT, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật về quyền TCTT. Tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thi hành Luật TCTT; thường xuyên quan tâm đổi mới nội dung, hình thức, phương thức tuyên truyền, phổ biến Luật TCTT.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền TCTT theo các hướng: mở rộng chủ thể có quyền TCTT là mọi cá nhân, tổ chức; đối tượng của quyền TCTT là toàn bộ thông tin do các cơ quan nhà nước nắm giữ; bắt buộc dịch thông tin từ tiếng Việt sang ngôn ngữ khác như tiếng nước ngoài hay tiếng dân tộc thiểu số,... tùy vào đối tượng thông tin tác động tới loại chủ thể để xác định cho phù hợp và đặc biệt là bổ sung đầy đủ chế tài đối với trường hợp các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước vi phạm pháp luật về quyền TCTT. Tiến tới, cần nghiên cứu xây dựng luật về quyền tự do TCTT. Trong đó, bất kỳ cá nhân, tổ chức nào cũng vừa là chủ thể có quyền và có nghĩa vụ trong TCTT và đặc biệt nhấn mạnh trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước. Các yếu tố an ninh phi truyền thống xuất hiện đòi hỏi các quốc gia phải cấu trúc thiết chế bảo vệ quyền TCTT trong đó có cơ quan nhân quyền quốc gia đáp ứng đòi hỏi mới16 và chú trọng các biện pháp chế tài đối với cá nhân, tổ chức công quyền. Tiếp đến, Chính phủ ban hành những nghị định liên quan đến TCTT trong những lĩnh vực nhất định đối với chủ thể nhất định, chẳng hạn đối với cơ quan nhà nước, cá nhân, đối tượng yếu thế hay lĩnh vực đất đai, xây dựng, giáo dục...

Thứ ba, bản thân mỗi cán bộ, công chức, người dân đến các cơ quan nhà nước, tổ chức và đặc biệt là người đứng đầu các tổ chức (Nhà nước và phi nhà nước) thời chuyển đổi số cần chuyển từ tư duy truyền thống, công nghệ thông tin sang tư duy chuyển đổi số trong tất cả các công đoạn của xây dựng pháp luật, từ đó mới có thể vận dụng, giải quyết được những vấn đề đặt ra trong bối cảnh chuyển đổi số. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi và tăng cường kiểm tra, giám sát với tinh thần "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm"; đơn giản hóa các thủ tục, thao tác khi thực hiện dịch vụ công trực tuyến trong TCTT.

Thứ tư, đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc cung cấp thông tin, công khai thông tin, tạo điều kiện thuận lợi để người dân TCTT dễ dàng, nhanh chóng, phù hợp với yêu cầu của chuyển đổi số, chính quyền số, đô thị thông minh. Phấn đấu đưa toàn bộ các dịch vụ công lên các nền tảng số của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương để tạo thuận lợi, giảm chi phí tuân thủ, chi phí đi lại, giảm tham nhũng, tiêu cực, phiền hà, sách nhiễu cho người dân và doanh nghiệp. Đẩy mạnh xây dựng và phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành để quản lý, điều hành trên cơ sở dữ liệu; tăng cường kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu để cung cấp, nâng cao chất lượng dịch vụ công, tiện ích cho người dân, doanh nghiệp.

Thứ năm, nhà nước cần bảo đảm kinh phí để phục vụ các hoạt động hỗ trợ chuyển đổi nhận thức, kiến tạo pháp luật về quyền TCTT, phát triển hạ tầng số, phát triển nền tảng số, tạo lập niềm tin, bảo đảm an toàn an ninh mạng, hợp tác quốc tế về TCTT... Cần huy động cả nguồn lực Nhà nước và của xã hội, của người dân và doanh nghiệp, triển khai đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp, cần có ưu tiên để phát triển nguồn nhân lực số phục vụ nhu cầu TCTT.

Thứ sáu, cần xử lí nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về quyền TCTT để bảo đảm pháp luật được tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh.

5. Kết luận

Pháp luật về quyền TCTT có liên quan hầu hết đến tất cả các lĩnh vực chuyên ngành trong hệ thống pháp luật Việt Nam, là nền tảng, cơ sở để hoàn thiện pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh trong tiến trình chuyển đổi số. Tuy nhiên, do xuất phát từ nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan như về nhận thức, kinh phí, lĩnh vực rộng nên pháp luật về quyền TCTT hiện nay còn nhiều hạn chế về phương thức thực hiện quyền TCTT không đáp ứng được bối cảnh của chuyển đổi số. Công cuộc chuyển đổi số quốc gia sẽ chuyển biến nhanh, bền vững và toàn diện, bao trùm, thực chất, hiệu quả, góp phần quan trọng cho thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, tạo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của đất nước rất cần sự nỗ lực, quyết tâm và sự chủ động, sáng tạo của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Xây dựng pháp luật về quyền TCTT cần quán triệt phương châm "thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm".

TS. Dương Văn Quý

Phân hiệu Trường Đại học Luật Hà Nội tại tỉnh Đắk Lắk

Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 43 (12/2024)

---

Tài liệu trích dẫn

(1) Nguyễn Đăng Dung (2016), Luật pháp quốc tế và luật pháp quốc gia về quyền tiếp cận thông tin, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề Dự án Luật Tiếp cận thông tin, tr. 92

(2) https://vusta.vn/ban-them-ve-thong-tin-va-tri-thuc-trong-xa-hoi-hien-dai-p63439.html, truy cập ngày 18/7/2024.

(3) https://vusta.vn/ban-them-ve-thong-tin-va-tri-thuc-trong-xa-hoi-hien-dai-p63439.html, truy cập ngày 18/7/2024.

(4) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 23, 269.

(5) https://essi.org.vn/mot-so-thanh-tuu-cua-chuyen-doi-so-trong-co-quan-nha-nuoc-hien-nay-nd312467.html, truy cập ngày 29/7/2024.

(6) Nguyễn Xuân Thắng (2017), Quản trị quốc gia trong một thế giới công nghệ đang thay đổi không ngừng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với quản trị nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,  tr. 11

(7) Nguyễn Thị Thu Vân (2017), Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự chuyển đổi các hình thức tổ chức giải quyết văn bản trong cơ quan nhà nước, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với quản trị nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,  tr. 198.

(8) Nguyễn Xuân Thắng (2017), Quản trị quốc gia trong một thế giới công nghệ đang thay đổi không ngừng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với quản trị nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 16 - 17.

(9) Nguyễn Xuân Thắng (2017), Tlđd,19.

(10) Nguyễn Văn Thành (2017), Khoa học tư duy hệ thống với công tác lãnh đạo và quản lý trước sự biến đổi vĩ đại của thế kỉ XXI và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với quản trị nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,  tr. 33.

(11) https://essi.org.vn/mot-so-thanh-tuu-cua-chuyen-doi-so-trong-co-quan-nha-nuoc-hien-nay-nd312467.html, truy cập ngày 29/7/2024.

(12) Điều 19 Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.

(13)Dương Văn Quý (2023), “Thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Luật học, số 11, tr. 22.

(14) Tô Văn Hòa, Nguyễn Văn Công (2024), “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam trong thế giới siêu kết nối”, Tạp chí Luật học, Số đặc biệt “Chào mừng 5 năm thành lập Phân hiệu Trường Đại học Luật Hà Nội tại Đắk Lắk (2019 - 2024)”, tr. 24.

(15) Dương Văn Quý (2023), Tlđd, tr. 22.

(16) Chu Mạnh Hùng (2016), “Vị trí, vai trò của cơ quan nhân quyền quốc gia trong cơ chế bảo đảm quyền con người”, Tạp chí Luật học, (10), tr. 24 - 31.