Trong những năm qua, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội ngày càng được nâng cao hiệu lực, hiệu quả, có nhiều đổi mới và đạt những kết quả quan trọng, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân, được cử tri và Nhân dân đánh giá cao. Tuy nhiên, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập. Do đó, để tiếp tục nâng cao hơn nữa hiệu quả, vai trò giám sát tối cao của Quốc hội, không ngừng bảo đảm và thức đẩy quyền con người, quyền công dân, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về chức năng quan trọng này của Quốc hội.

Toàn cảnh phiên họp bế mạc Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV 
Nguồn: quochoi.vn.

1. Quy định của pháp luật về chức năng giám sát tối cao của Quốc hội
Hiến pháp năm 2013 quy định, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, bên cạnh quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội còn có quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Khoản 2, Điều 70 của Hiến pháp nêu cụ thể, Quốc hội “thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập”.
Tại Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định: giám sát tối cao là việc Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý. Giám sát tối cao được thực hiện tại kỳ họp Quốc hội.
Trong Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Điều 6 về Giám sát tối cao của Quốc hội quy định rõ, Quốc hội giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội. Quốc hội giám sát tối cao hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập. Luật cũng quy định về thẩm quyền giám sát của Quốc hội tại Điều 4. 
Các hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội được quy định rõ tại Điều 11 của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, trong đó bao gồm: Xem xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, cơ quan khác do Quốc hội thành lập; Xem xét văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; Xem xét việc trả lời chất vấn; Xem xét báo cáo giám sát chuyên đề;... 
Về thẩm quyền của Quốc hội trong việc xem xét kết quả giám sát, Điều 21 của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân quy định rõ, căn cứ vào kết quả giám sát, Quốc hội có thẩm quyền: Yêu cầu Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành văn bản quy định chi tiết Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước... trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
Cũng theo quy định tại điều này, Quốc hội có thẩm quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm một số chức danh, yêu cầu cơ quan, cá nhân có thẩm quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc cách chức, xử lý đối với người có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Ra nghị quyết về chất vấn; ra nghị quyết về kết quả giám sát chuyên đề và các nội dung khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Quốc hội cũng có trách nhiệm báo cáo hoạt động giám sát tối cao của mình trước cử tri cả nước thông qua phương tiện thông tin đại chúng và hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội. 
Những nội dung này được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 334/2017/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Quy chế “Tổ chức thực hiện một số hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.”
2. Thực tiễn triển khai công tác giám sát tối cao của Quốc hội
a) Những kết quả đạt được
Một là, triển khai có hiệu quả các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát tối cao
Quốc hội đã ngày càng quan tâm, đẩy mạnh, thực hiện điều chỉnh, đổi mới trong công tác triển khai quy định pháp luật về hoạt động giám sát tối cao, đảm bảo nâng cao hiệu quả giám sát. Tại các kỳ họp, Quốc hội đã tiến hành lấy ý kiến về báo cáo kết quả thực hiện công tác của các cơ quan để nhìn nhận rõ những thành tựu đã đạt được, thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém và đề xuất giải pháp khắc phục1,2. Bên cạnh đó, Quốc hội cũng định kỳ xem xét Báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân gửi đến kỳ họp, Báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp trước đó. 
Hai là, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về hướng dẫn tổ chức thực hiện hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội
Ngày 22/7/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 560/NQ-UBTVQH15 về hướng dẫn tổ chức thực hiện hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội. Theo đó, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tổ chức thực hiện việc báo cáo kết quả giám sát văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi phụ trách được ban hành trong thời gian từ ngày 01/01 đến 31/12 hằng năm; gửi báo cáo kết quả giám sát đến Tổng Thư ký Quốc hội để tổng hợp báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp tháng 4 trước khi trình Quốc hội tại kỳ họp tháng 5.
Đây là lần đầu tiên Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết về vấn đề này với các quy định cụ thể về cách thức, trình tự, thủ tục tiến hành giám sát văn bản quy phạm pháp luật, là căn cứ để các cơ quan của Quốc hội thực hiện giám sát văn bản quy phạm pháp luật thống nhất, đồng bộ.
Ba là, thực hiện nghiêm túc hoạt động chất vấn
Trong năm 2022, tại Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã tiến hành chất vấn đối với 03 Bộ trưởng và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực: nông nghiệp và phát triển nông thôn; tài chính; ngân hàng; giao thông vận tải. Trong Kỳ họp thứ 4 vừa qua, Quốc hội tiến hành chất vấn đối với Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Tổng Thanh tra Chính phủ. Các vấn đề được Quốc hội lựa chọn là trúng và đúng, vừa có tính thời sự, cấp bách trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài. Trong đó, có những vấn đề đã kéo dài nhiều năm nhưng chưa được giải quyết một cách căn cơ, đáp ứng được yêu cầu, mong mỏi của cử tri, Nhân dân như: công tác quản lý thị trường, phòng, chống buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc; quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai tại đô thị; công tác phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm về ma túy, “tín dụng đen”, cho vay nặng lãi; thực trạng và giải pháp xử lý các tồn đọng trong đầu tư, khai thác, kinh doanh các dự án giao thông theo hình thức BOT...3. Đây là những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến các quyền con người, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Cuối mỗi kỳ họp, Quốc hội đã thông qua các Nghị quyết về hoạt động chất vấn, trong đó, yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Trưởng ngành thực hiện quyết liệt những cam kết cụ thể về những việc phải làm và thời hạn hoàn thành để tạo chuyển biến thực sự đối với từng lĩnh vực được chất vấn, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của cử tri và Nhân dân cả nước. Đây cũng là cơ sở để Quốc hội giám sát lại và lấy phiếu tín nhiệm tại Kỳ họp thứ 6. Đối với hoạt động giám sát chuyên đề, trong năm 2022, Quốc hội đã tiến hành 02 chuyên đề giám sát tối cao gồm: “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành”4 và “'Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2021”5.
Bốn là, đổi mới hoạt động của các đoàn giám sát chuyên trách
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về kế hoạch chi tiết, đề cương báo cáo của các đoàn giám sát chuyên đề; xác định cụ thể hơn đối tượng, nội dung giám sát tại kế hoạch chi tiết theo ủy quyền của Quốc hội. Các Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân được giao tổ chức giám sát và gửi báo cáo kết quả đến đoàn giám sát. Căn cứ tình hình thực tế và trên cơ sở xem xét báo cáo của các cơ quan, Đoàn giám sát sẽ lựa chọn cơ quan, địa phương và báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định trước khi tổ chức giám sát trực tiếp tại cơ quan, địa phương, cơ sở; đặc biệt là sử dụng tối đa, có hiệu quả các kết quả, kết luận thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Các Đoàn giám sát cũng đã huy động sự phối hợp tham gia giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, các tổ chức chính trị-xã hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm về kết quả giám sát, tính xác thực của báo cáo tại địa phương. Ngoài ra, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng nghiêm túc nghe, xem xét các báo cáo để kịp thời chỉ đạo trong quá trình giám sát, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của các Đoàn giám sát.
Năm là, kết hợp giám sát theo chức năng và giám sát theo chuyên đề
Trên cơ sở các báo cáo giám sát cùng các thảo luận tại tổ, thảo luận tại hội trường của các đại biểu Quốc hội, Quốc hội đã xây dựng và ban hành Nghị quyết số 61/2022/QH15 về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về quy hoạch và một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ lập và nâng cao chất lượng quy hoạch thời kỳ 2021-2030; Nghị quyết số 74/2022/QH15 về đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. 
Theo Chương trình giám sát, trong năm 2023, Quốc hội sẽ giám sát 2 chuyên đề lớn, gồm chuyên đề: “Việc huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19; việc thực hiện chính sách, pháp luật về y tế cơ sở, y tế dự phòng” tại Kỳ họp thứ 5 và chuyên đề: “Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030” tại Kỳ họp thứ 6. Những nội dung được lựa chọn giám sát đều là những vấn đề lớn, quan trọng, liên quan sâu sắc đến quyền con người, nhất là quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương như người nghèo, người dân tộc thiểu số... Đây cũng là điều kiện để các cấp chính quyền địa phương đánh giá một cách nghiêm túc tình hình tổ chức thực hiện, kịp thời khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, triển khai cơ chế, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tại địa phương.
b) Một số hạn chế và nguyên nhân 
- Một số hạn chế 
Thứ nhất, hoạt động giám sát của Quốc hội có phạm vi chưa rõ ràng
Trong quá trình thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội, đôi khi vấn đề giám sát chưa được minh định rõ ràng, dẫn tới phạm vi giám sát quá rộng, chưa cụ thể, chưa rõ trọng tâm, trọng điểm, dẫn đến chưa xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể có liên quan đến vấn đề được giám sát. Điều này khiến hoạt động giám sát đôi khi chưa quyết liệt, chưa đi đến cùng vấn đề giám sát. Do đó các khâu theo dõi, thực hiện giải pháp sau giám sát cũng chưa được đạt hiệu quả cao nhất6.
Bên cạnh đó, đôi khi hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội chưa đảm bảo đúng tầm mức “tối cao” của mình. Giám sát tối cao của Quốc hội là hoạt động giám sát ở tầm vĩ mô, theo dõi vụ việc cụ thể để rút ra kết luận trên cái nhìn tổng thể đối với hệ thống pháp luật và tình hình kinh tế- xã hội đất nước, qua đó đưa ra những điều chỉnh, thay đổi về chính sách, pháp luật, tạo hiệu quả phổ quát, lan tỏa trong nhiều mặt xã hội. Thế nhưng, trong một số trường hợp, việc giám sát lại đi sâu vào các vụ việc cụ thể, các trường hợp cá biệt, để giải quyết sự vụ, đây là một hạn chế khi thực hiện công tác giám sát tối cao. Cụ thể, trong giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2021”, báo cáo giám sát có đề cập chi tiết đến Dự án Tiếp nước, cải tạo khôi phục sông Tích từ Lương Phú, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì, đây là một dự án chậm tiến độ trên địa bàn Thủ đô Hà Nội7,8.
Thứ hai, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn chưa đủ thuyết phục cử tri
Thời gian bố trí cho hoạt động chất vấn tại các Kỳ họp còn chưa nhiều. Cụ thể, còn nhiều đại biểu đăng ký mà chưa được chất vấn hoặc đã chất vấn mà không có thời gian trả lời trực tiếp, phải trả lời bằng văn bản. Một số văn bản trả lời chất vấn chưa đảm bảo đúng thời hạn quy định. Một số trả lời chất vấn chưa đủ căn cứ và tính thuyết phục đại biểu đặt câu hỏi cũng như cử tri cả nước9.
Thứ ba, hoạt động cập nhật thông tin đôi khi còn chưa đảm bảo 
Việc cập nhật thông tin phục vụ cho hoạt động giám sát của Quốc hội đôi khi chưa đảm bảo, chưa kịp thời khiến các Đoàn giám sát gặp khó khăn. Còn tình trạng người đứng đầu cơ quan chịu giám sát thoái thác trách nhiệm, chưa quan tâm đúng mức các vấn đề Đoàn giám sát chất vấn, chưa thực hiện đúng nhiệm vụ, chức trách của mình, không làm rõ triệt để nguyên nhân và cách khắc phục với những tồn tại, hạn chế Đoàn giám sát đã nêu, gây ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động giám sát cũng như hiệu quả hoạt động của đơn vị.
- Nguyên nhân 
Thứ nhất, nguồn lực phục vụ hoạt động giám sát của Quốc hội còn hạn chế
Cơ quan tham mưu, bộ máy giúp việc phục vụ hoạt động giám sát chưa có điều kiện tốt nhất về thẩm quyền và nguồn lực để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ đạt kết quả cao, đáp ứng yêu cầu đổi mới hoạt động của Quốc hội. Việc phân công các công chức của các Vụ có đại diện Thường trực cơ quan tham gia Đoàn giám sát đi phục vụ các Tổ khảo sát chưa hợp lý. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong hoạt động giám sát còn chưa đầy đủ và hoàn thiện, dẫn đến còn lúng túng trong việc tổ chức triển khai, chưa đạt được hiệu quả tối đa trong thực hiện. Các kết luận giám sát, giải pháp đề ra, nhiệm vụ và kế hoạch khắc phục không được theo dõi thực hiện sát sao sau giám sát, dẫn đến hiệu quả giám sát chưa đảm bảo lâu dài, giải quyết triệt để những vấn đề, vướng mắc thực tế đang đặt ra. Việc sử dụng công chức của các đơn vị giúp việc Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban có thành viên tham gia Đoàn giám sát đôi khi chưa hợp lý, gây ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ thường xuyên của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban.
Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện các nhiệm vụ như như cập nhật, xác minh thông tin… còn chưa được thực hiện đồng bộ giữa các cơ quan thực hiện hoạt động giám sát. 
Thứ hai, sự phối kết hợp của các tổ chức, cá nhân và cơ quan giám sát còn chưa đạt hiệu quả cao 
Một số cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cho Quốc hội còn thiếu chính xác hoặc chưa đầy đủ, kịp thời, chưa đảm bảo tính khách quan, chưa thực hiện đầy đủ kế hoạch, nội dung, yêu cầu giám sát của Quốc hội. Việc phối kết hợp giữa các cơ quan giám sát với các tổ chức, cá nhân đôi khi còn chưa chặt chẽ. 
3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để nâng cao công tác giám sát tối cao của Quốc hội, góp phần bảo đảm, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân
Việc tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát là yêu cầu khách quan, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của cử tri và Nhân dân, yêu cầu thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội. Để nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, Quốc hội cần chú ý một số nội dung sau: 
- Cần rà soát nội dung các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng giám sát tối cao của Quốc hội để đảm bảo phạm vi giám sát của Quốc hội. Cần tiến hành tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân để thấy được đầy đủ về thực trạng áp dụng Luật, lấy ý kiến rộng rãi các cơ quan thực thi, đại diện các cơ quan hữu quan, các chuyên gia, nhà nghiên cứu, qua đó xác định cụ thể các vấn đề bấp cập để có biện pháp tháo gỡ phù hợp. 
- Cần có quy định rõ về việc lựa chọn vấn đề giám sát đối với các lĩnh vực mà dư luận xã hội, cử tri và Nhân dân quan tâm, nhất là các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, phát sinh nhiều khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản ánh những lĩnh vực liên quan trực tiếp, sâu sắc đến quyền con người, quyền công dân. Qua đó, tiếp tục phát hiện, chấn chỉnh, có biện pháp kiến nghị xử lý những thiếu sót, hạn chế, vi phạm hoạt động quản lý nhà nước và hoàn thiện thể chế trên lĩnh vực được giám sát, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước nói chung và trong việc thực hiện chính sách, pháp luật trên lĩnh vực được giám sát nói riêng.
- Cần phải làm rõ đối tượng giám sát đối với từng chủ thể, đồng thời xây dựng cơ chế báo cáo, trao đổi, tổng kết giữa các chủ thể giám sát để bảo đảm phản ánh được đầy đủ, tổng thể công tác giám sát
- Cần có quy định rõ ràng, sát với thực tiễn về việc khai thác số liệu thông tin từ các cơ quan liên quan Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, Ủy ban Kiểm tra Trung ương; tranh thủ sự phối hợp của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. 
- Cần quy định chế tài mạnh mẽ đối với việc không thực hiện nộp báo cáo hoặc cung cấp sai thông tin của cơ quan, đơn vị, đối tượng chịu giám sát, gắn trách nhiệm cho người đứng đầu để nâng cao kỷ luật, kỷ cương giám sát, bảo đảm các hoạt động giám sát được coi trọng đúng mức và đạt được hiệu quả. 
Cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định về phương thức giám sát thông qua việc thành lập Ủy ban lâm thời của Quốc hội, đảm bảo phương thức này có thể thực hiện trong thực tế. Điều 17 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân quy định về việc xem xét báo cáo của Ủy ban lâm thời. Theo đó, khi xét thấy cần thiết, theo đề nghị của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội quyết định thành lập Ủy ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định. Việc thành lập Ủy ban lâm thời để giám sát về một vấn đề cụ thể là hoạt động rất có ý nghĩa, cho thấy tinh thần nhập cuộc, ý thức trách nhiệm và sự chủ động cao của Quốc hội trước những vấn đề nóng bỏng của thực tế đời sống, sự quan tâm sâu sát của Quốc hội đối với đời sống người dân, nhất là những vấn đề nổi cộm liên quan đến quyền con người. Phương thức giám sát tối cao này cũng thường được thực hiện thường xuyên trong hoạt động nghị viện của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, phương thức này chưa từng được thực hiện để phục vụ hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội nước ta. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật về phương thức này, đặc biệt là về điều kiện, thành phần, thẩm quyền… của Ủy ban lâm thời thực hiện chức năng giám sát để đảm bảo khả thi, hiệu quả trong tổ chức thực hiện. 
- Cần bổ sung nguồn lực cho hoạt động giám sát của Quốc hội. Cần đảm bảo các hoạt động giám sát của Quốc hội được trang bị đủ nguồn lực, đặc biệt là Vụ Phục vụ hoạt động giám sát thuộc Văn phòng Quốc hội cần có đủ các nguồn lực về nhân lực chất lượng cao, thẩm quyền, trang thiết bị kỹ thuật, tài chính để phục vụ tốt nhất cho hoạt động giám sát. Bên cạnh đó, cần lưu ý, việc sử dụng công chức của các đơn vị giúp việc Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban có thành viên tham gia Đoàn giám sát nên cân nhắc để không ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ thường xuyên của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, sử dụng phần mềm để theo dõi, đôn đốc, giám sát kết quả thực hiện các kiến nghị, kết luận sau giám sát, công tác giải quyết kiến nghị cử tri, công tác giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân.
 

ThS. Hồ Thị Hương

Văn phòng Quốc hội

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 2/2023

-----

Tài liệu trích dẫn
(1) Tổng Thư ký Quốc hội (2022), Báo cáo nhanh số 1235/BC-TTKQH kết quả Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV.
(2) Tổng Thư ký Quốc hội (2022), Báo cáo nhanh số 1811/BC-TTKQH kết quả Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV.
(3) Tổng Thư ký Quốc hội (2022), Báo cáo nhanh số 1235/BC-TTKQH kết quả Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV.
(4) Tổng Thư ký Quốc hội (2022), Báo cáo nhanh số 1235/BC-TTKQH kết quả Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV.
(5) Tổng Thư ký Quốc hội (2022), Báo cáo nhanh số 1811/BC-TTKQH kết quả Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV.
(6) Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2022), Báo cáo số 327/BC-UBTVQH15 đánh giá kết quả thực hiện Chương trình giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2022 và triển khai Chương trình giám sát năm 2023.
(7) Đoàn Giám sát - Quốc hội (2022), Báo cáo số 330/BC-ĐGS báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2021”.
(8) Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2017), Nghị quyết số 334/2017/UBTVQH14 ban hành Quy chế “Tổ chức thực hiện một số hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội”.
(9) Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2022), Báo cáo số 327/BC-UBTVQH15 đánh giá kết quả thực hiện Chương trình giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2022 và triển khai Chương trình giám sát năm 2023.