Bài viết phân tích làm rõ tình hình lao động người nước ngoài tại Việt Nam hiện nay, thực tiễn điều chỉnh pháp luật về quản lý lao động nước ngoài vùng biên giới đất liền ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở quan điểm thống nhất mục tiêu chính sách quản lý lao động người nước ngoài tác giả kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước đối với lao động người ngoài vùng biên giới đất liền tại Việt Nam trong thời gian tới.
Đặt vấn đề
Hội nhập quốc tế là xu hướng của hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Quá trình hội nhập quốc tế dẫn tới sự gắn kết giữa các quốc gia, dân tộc, vùng miền lại với nhau, sự khác biệt về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đã không còn là trở ngại đối với việc giao lưu hợp tác giữa các quốc gia. Sự xuất hiện và dịch chuyển các luồng lao động từ quốc gia này đến quốc gia khác là một biểu hiện và nhu cầu tất yếu của quá trình hội nhập. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Sự xuất hiện của lao động người nước ngoài tại bất kỳ khu vực địa lý nào trên lãnh thổ quốc gia cũng đem đến nhiều cơ hội cũng như thách thức, đặc biệt là tại các vùng biên giới đất liền.
Tình trạng buôn lậu, biến đổi khí hậu, suy kiệt tài nguyên rừng, ô nhiễm môi trường sinh thái; dịch bệnh; tranh chấp đất đai; lao động xuyên biên giới; di cư tự do; xung đột tôn giáo; hoạt động chống phá chính trị của các thế lực thù địch… đang là những thách thức lớn trong công tác quản lý nhà nước vùng biên giới đất liền tại Việt Nam. Việc xác định rõ tình hình lao động người nước ngoài tại các vùng biên giới đất liền tại Việt Nam, thực trạng chính sách pháp luật của Việt Nam liên quan đến đối tượng này, những hạn chế và nguyên nhân tạo căn cứ đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả họạt động quản lý nhà nước đối với nhóm lao động này trên thực tế.
Ảnh minh họa. Nguồn: TTXVN
1. Khái quát tình hình lao động người nước ngoài tại Việt Nam hiện nay
Từ sau đổi mới năm 1986, Việt Nam luôn tích cực mở rộng giao lưu hợp tác với các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trong bối cảnh đó, các luồng lao động nước ngoài đến sinh sống và làm việc tại Việt Nam ngày càng tăng lên nhanh chóng. Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, số lao động nước ngoài được cấp phép làm việc tại Việt Nam tính đến tháng 3 năm 2022 là 100.000 người[1]. Và con số này vẫn tiếp tục tăng trong những năm gần đây.
Có rất nhiều nguyên nhân lý giải cho việc lao động nước ngoài vào Việt Nam tăng nhanh trong những năm qua. Trong đó có hai nguyên nhân chính ảnh hưởng mạnh đến dòng di chuyển lao động nước ngoài vào Việt Nam đó là:
Thứ nhất, do đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam tăng nhanh dẫn đến nhu cầu lao động người nước ngoài vào Việt Nam làm việc tăng lên. Tính đến 20/12/2023, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 36,61 tỷ USD, tăng 32,1% so với cùng kỳ. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 23,18 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm 2022. Tính lũy kế đến ngày 20/12/2023, cả nước có 39.140 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 468,9 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 297,2 tỷ USD, bằng 63,4% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực[2]. Thông qua đầu tư nước ngoài, đã tiếp nhận một số kỹ thuật, công nghệ mới, phần lớn thiết bị đưa vào nước ta thuộc loại trung bình của thế giới, tiên tiến hơn cái ta hiện có. Các đối tác Việt nam cũng tiếp nhận một số phương pháp quản lý tiến bộ về tổ chức sản xuất kinh doanh và tiếp cận với tâm lý và phong cách của nhiều đối tượng khác nhau.
Thứ hai, Việt Nam có nhiều ngành, nhiều lĩnh vực mới đòi hỏi người lao động nước ngoài có kinh nghiệm và có chuyên môn mới đảm đương được công việc mà nhân lực trong nước chưa thể đáp ứng được.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý IV năm 2023 là 27,6%, và tính đến cuối năm 2023, cả nước vẫn còn 38,0 triệu lao động chưa qua đào tạo. Con số này cho thấy thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động[3]. Thực trạng đang diễn ra là phần lớn đội ngũ người lao động Việt Nam không đáp ứng được yêu cầu khi tham gia các ngành nghề đòi hỏi kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao, nhất là những ngành nghề mới. Chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn thấp, là một trong những “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển hiện nay.
Trong bối cảnh đó, việc tiếp nhận lao động nước ngoài vào làm việc tăng nhanh trong những năm gần đây đã đem đến nhiều cơ hội cho sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại cũng như tương lai như:
- Cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh.
- Tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
- Tạo môi trường cạnh tranh giữa lao động Việt Nam với lao động nước ngoài.
- Góp phần đào tạo nhân lực tại chỗ theo tương tác thẩm thấu.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội từ việc tiếp nhận lao động nước ngoài tạo ra thì sự hiện diện của lao động nước ngoài tại Việt Nam kéo theo nhiều tác động tiêu cực, nhiều thách thức:
Một là, làm giảm thu nhập yếu tố thuần (NX) trong tổng thu nhập quốc gia (GNI). Người lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc họ có thu nhập và được chuyển về nước phần thu nhập còn lại. Chính điều này làm giảm thu nhập yếu tố thuần trong tổng thu nhập quốc gia, kết quả là làm giảm tổng thu nhập quốc gia.
Hai là, du nhập lối sống và văn hoá ngoại lai không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của người Việt, làm sai lệch các chuẩn mực đạo đức, văn hoá truyền thống. Một số lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc, họ mang theo văn hoá của dân tộc và đất nước họ. Cùng với những yếu tố văn minh, hiện đại; đồng thời họ cũng mang theo lối sống, văn hoá độc hại không phù hợp với thuần phong, mỹ tục và bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam[4].
Lao động nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam từ hơn 60 quốc gia. Năm 2015, trong tổng số 83,6 nghìn người lao động nước ngoài đến Việt Nam thì lao động đến từ châu Á luôn chiếm hàng đầu, đó là: Lao động có quốc tịch Trung Quốc là 31%, Hàn Quốc 18%, Nhật Bản 7,0%, Đài Loan 13%.... Tiếp đó là lao động của các nước có quốc tịch Châu Âu, Mỹ. Cuối năm 2019, tỷ lệ này có sự thay đổi, cụ thể: lao động người nước ngoài có quốc tịch Trung Quốc chiếm 19,4%, Hàn Quốc 18,3%, Đài Loan (Trung Quốc) 12,9%, Nhật Bản 9,5% và lao động đến từ các quốc gia khác là 39,9%. Những năm gần đây lao động phổ thông, không nghề đến Việt Nam làm việc càng ngày càng nhiều theo các dự án trúng thầu tại Việt Nam, trong đó điển hình là Trung Quốc[5].
Về giới tính và độ tuổi của lao động nước ngoài: đa phần lao động nước ngoài là nam giới và ở nhóm tuổi trung niên từ 25-44 tuổi. Tỷ lệ nam giới trong lao động nước ngoài vào Việt Nam chiếm đại đa số, năm 2015 là gần 90%, tuổi của lao động chủ yếu trên 30 tuổi chiếm 86%. Đến hết năm 2019, các tỷ lệ tương đương là 83,1% và 86,6% trong tổng số lao động người nước ngoài ở Việt Nam. Điều này phản ánh thực tế là Việt Nam đang “nhập khẩu” lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, chuyên gia,… vì vậy, số lượng lao động nước ngoài ở nhóm tuổi trẻ nhất và nhóm cao tuổi chỉ chiếm tỷ trọng thấp[6].
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Lao động người nước ngoài vào Việt Nam có chuyên môn-kỹ thuật và vị trí việc làm có thay đổi, cải thiện nhiều trong gần 15 năm qua (giai đoạn 2005-2019). Năm 2015, tỷ lệ lao động người nước ngoài có trình độ đại học và trên đại học, bằng cấp kỹ thuật: 54% có bằng đại học và trên đại học, 38,6% có chứng chỉ nghề và 7,4% là nghệ nhân ngành truyền thống. Có gần 35,5% lao động người nước ngoài giữ vị trí quản lý, 46% là chuyên gia kỹ thuật, còn lại 30,1% làm công việc khác. Năm 2019, tỷ lệ về chuyên môn là: 12,0% giữ vị trí quản lý; 9,0% giám đốc điều hành; 56,0% chuyên gia kỹ thuật; 21,7% công việc khác, đây là số lao động không xác định được rõ trình độ vì không có bằng cấp đã tạo kẽ hở cho doanh nghiệp đưa lao động nước ngoài vào làm việc[7].
Thực tế cho thấy, số lượng lao động nước ngoài đang làm các công việc giản đơn dành cho lao động chưa qua đào tạo (lao động phổ thông) còn lớn hơn so với mẫu khảo sát ở hầu hết các tỉnh/thành phố. Hầu hết những lao động này đi theo các công trình/dự án do nước ngoài đầu tư hoặc trúng thầu trong lĩnh vực xây dựng, khai khoáng,… như xây dựng nhà máy, xây dựng công trình giao thông, khai thác mỏ,… Lao động nước ngoài trình độ thấp vào Việt Nam làm việc đã lợi dụng kẽ hở trong pháp luật quy định “chuyên gia/lao động có kinh nghiệm trong ngành nghề” đạt điều kiện làm việc ở Việt Nam; sử dụng giấy thông hành tạm thời để đi theo nhà thầu nước ngoài làm việc tại các công trình/dự án tại Việt Nam; hoặc sử dụng visa du lịch rồi ở lại Việt Nam tìm việc làm;…( Kết quả toạ đàm, phỏng vấn sâu các cơ quan quản lý và doanh nghiệp).
Từ những phân tích ở trên cho thấy, việc tăng nhanh lao động người nước ngoài trong thời gian qua đã đem đến nhiều cơ hội cũng như thách thức cho Việt Nam nói chung, tại các vùng biên giới đất liền nói riêng, đặc biệt là vấn đề quản lý nhà nước đối với đối tượng này.
2. Thực tiễn điều chỉnh pháp luật đối quản lý lao động nước ngoài vùng biên giới đất liền ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý, tuyển dụng lao động nước ngoài ở Việt Nam đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cho quá trình hoạt động của chủ sử dụng lao động và người lao động, đồng thời góp phần thu hút đầu tư nước ngoài.
Bộ luật Lao động năm 2012 sau đó là Bộ luật Lao động năm 2019 đều quy định rõ người nước ngoài làm việc tại Việt Nam phải có giấy phép do Bộ Lao động – Thương binh và xã hội cấp, được hưởng các quyền cũng như nghĩa vụ theo pháp luật Việt Nam.
Căn cứ Bộ luật Lao động năm 2019, ngày 30/12/2020 Chính phủ đã ban hành Nghị định 152/2020/NĐ-CP về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và tuyển dụng, quản lý người lao động Việt Nam làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam. Theo đó, việc quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam hiện tại được thực hiện chủ yếu bằng hình thức cấp giấy phép lao động. Lao động nước ngoài muốn tham gia quan hệ lao động tại Việt Nam phải đáp ứng được những tiêu chuẩn, điều kiện theo pháp luật Việt Nam. Nghị định 152/2020/NĐ-CP quy định rất cụ thể về tiêu chuẩn điều kiện, trình tự thủ tục cấp phép lao động dành cho lao động người nước ngoài.
Ở Việt Nam, Tổng điều tra Dân số và Nhà ở được thực hiện 10 năm một lần. Lần gần nhất Việt Nam thực hiện Tổng điều tra dân số là năm 2019. Trong Tổng điều tra này, Việt Nam không thu thập thông tin của những người nước ngoài chưa nhập quốc tịch đang cư trú trên lãnh thổ đất nước. Vậy nên Việt Nam không thể tính toán và cung cấp được thông tin về di cư quốc tế và lao động di cư quốc tế từ Tổng điều tra dân số năm 2019. Tại thời điểm năm 2021, Điều tra lao động việc làm không được thiết kế để thu thập thông tin về người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Mô-đun về lao động Việt Nam di cư ở nước ngoài (tính đến năm 2021) chỉ bao gồm thông tin về người Việt Nam di cư ra nước ngoài chứ không bao gồm lao động nước ngoài tại Việt Nam. Điều này có nghĩa là nội dung thông tin thu thập được từ Điều tra lao động việc làm không đủ để tính toán tất cả các chỉ tiêu thống kê về lao động di cư quốc tế của Việt Nam[8]. Tuy nhiên, dựa trên các số liệu công bố của các cơ quản lý nhà nước tại các địa phương có vùng biên giới đất liền của Việt Nam vẫn có thể giúp chúng ta đánh giá được thực tiễn hoạt động quản lý lao động người nước ngoài thời gian qua. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, tình trạng lao động nước ngoài không tuân thủ các quy định pháp luật Việt Nam về visa, cấp phép, gia hạn cấp phép gây ra nhiều bất cập trong quản lý. Một bộ phận lao động nước ngoài không đủ điều kiện làm việc tại Việt Nam đã tìm cách “lách” quy định của pháp luật bằng cách sử dụng giấy thông hành có thời hạn 90 ngày (dưới 3 tháng), xin VISA du lịch[9],…
Khoản 4, khoản 5 Điều 154 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định Công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để thực hiện chào bán dịch vụ, hoặc để xử lý những sự cố, tình huống kỹ thuật, công nghệ phức tạp nảy sinh làm ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng tới sản xuất, kinh doanh mà các chuyên gia Việt Nam và các chuyên gia nước ngoài hiện đang ở Việt Nam không xử lý được thì không cần phải xin cấp giấy phép lao động một mặt giúp giảm tải các công việc giấy tờ của cơ quan nhà nước trong quản lý lao động nước ngoài nhưng lại tạo kẽ hở cho các doanh nghiệp, tổ chức không khai báo, giải trình nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài theo quy định thì cơ quan quản lý Nhà nước cũng không thể làm gì được. Bên cạnh đó, việc một số nhà thầu nước ngoài nhận thầu thi công các dự án như cải thiện môi trường nước, các dự án xây dựng cầu đường…sử dụng một lực lượng chuyên gia, lao động phổ thông hùng hậu nhưng ngành chức năng không theo dõi quản lý được.
Thứ hai, lao động nước ngoài tại Việt Nam tăng nhanh đã tạo ra sức ép về việc làm, thu nhập cho lao động địa phương do dòng lao động phổ thông lách luật tràn vào. Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tính đến cuối năm 2023, có gần 136.800 lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Trong đó có hơn 10.000 lao động không thuộc diện cấp giấy phép lao động, gần 126.000 lao động thuộc diện cấp giấy phép lao động[10]. Tuy nhiên, chính bản thân cơ quan này cũng phải thừa nhận một thực tế, số lao động là người nước ngoài làm việc “chui” tại Việt Nam cao hơn con số đó rất nhiều. Hiện đang có một lượng lớn lao động phổ thông nước ngoài vào làm việc tại các công trình xây dựng, nhất là các dự án do Trung Quốc trúng thầu, tại nhiều địa phương vùng biên giới đất liền mà chưa được cấp phép[11]. Điều đó, cũng đồng nghĩa với số lượng lớn lao động phổ thông tại các địa phương mất đi cơ hội có được việc làm, đặc biệt là lao động các vùng nông thôn.
Nguyên nhân của thực trạng sử dụng lao động phổ thông nước ngoài, lao động không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về lao động và pháp luật về đấu thầu bắt nguồn từ việc chủ đầu tư không nhận biết được quyền, nghĩa vụ liên quan đến sử dụng lao động nước ngoài, hoặc mặc dù nhận biết là không được phép sử dụng lao động phổ thông nước ngoài, nhưng lại không quy định trong hồ sơ mời thầu, hợp đồng những ràng buộc về sử dụng lao động theo quy định của pháp luật. Khi nhà thầu sử dụng lao động phổ thông nước ngoài thì không có chế tài quy định trong hợp đồng để xử phạt.
Có trường hợp chủ đầu tư đã quy định trong hồ sơ mời thầu, hợp đồng là phải sử dụng lao động nước ngoài theo quy định của pháp luật, nhưng nhà thầu không tuân thủ nghiêm túc, chủ đầu tư biết nhưng “làm ngơ” để tận dụng lao động phổ thông giá rẻ của nước khác (đối với trường hợp một phần hay toàn bộ hợp đồng áp dụng hình thức hợp đồng theo đơn giá) và giữ mối quan hệ “thân thiện” với nhà thầu. Trong những trường hợp này, có thể nói, chủ đầu tư đã buông lỏng quản lý hợp đồng.
Bên cạnh đó, thực trạng sử dụng lao động của nhà thầu nước ngoài không tuân thủ quy định của pháp luật còn do công tác quản lý lao động nước ngoài của cơ quan quản lý nhà nước về lao động và cơ quan giúp UBND tỉnh quản lý lao động tại địa phương chưa đáp ứng yêu cầu. Từ đó cũng đặt ra yêu cầu cần phải nhìn nhận lại trách nhiệm của Nhà nước đối với bảo đảm việc làm cho người lao động trong nước. Các nhà chức trách tự hào về sự tăng nhanh các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nhưng cũng chấp nhận thực tế việc gia tăng lao động nước người ngoài, đặc biệt là lao động phổ thông tại Việt Nam. Điều này đặt ra vấn đề cần xem xét lại hệ thống các quy định về thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đặc biệt là các quy định về điều kiện về lao động nước ngoài kèm theo khi tiến hành ký kết thỏa thuận đầu tư.
Bên cạnh đó, lao động nước ngoài thuộc đội ngũ các chuyên gia, lao động kỹ thuật không đáp ứng yêu cầu về trình độ, chất lượng tương đương tăng nhanh trong những năm gần đây cũng đang trở thành áp lực tước đi cơ hội có việc của lao động trong nước. Theo điều 3 Nghị định 152/2020/NĐ – CP thì chuyên gia phải là những người có trình độ đại học trở lên hoặc tương đương và có ít nhất 3 năm kinh nghiệm làm việc trong chuyên ngành được đào tạo phù hợp với vị trí công việc mà người lao động nước ngoài dự kiến làm việc tại Việt Nam, lao động kỹ thuật thì phải là người được đào tạo chuyên ngành kỹ thuật hoặc chuyên ngành khác ít nhất 01 năm và làm việc ít nhất 03 năm trong chuyên ngành được đào tạo[12] song số lượng lao động nước ngoài không thể xin cấp phép làm việc càng gia tăng. Điều này càng cho thấy rõ trình độ của phần lớn lao động người nước ngoài đang làm việc cho các doanh nghiệp FDI cũng chỉ thuộc dạng làng nhàng. Dù doanh nghiệp sử dụng lao động nước ngoài cứ đua nhau "nổ" rằng họ là chuyên gia, là cán bộ kỹ thuật để biện minh cho việc trả lương cao gấp nhiều lần lao động nội. Việc phân biệt đối xử chế độ lương bổng không dựa trên sự chênh lệch thực sự về trình độ sẽ tạo ra tâm lý bất mãn của lao động trong nước, dễ phát sinh xung đột giữa lao động trong nước và lao động người nước ngoài từ đó trở thành mầm mống gây bất ổn xã hội khó có thể kiểm soát được.
Thứ ba, sự hiện diện của lao động nước ngoài và việc xung đột về văn hóa là điều không thể tránh khỏi. Những khác biệt về văn hóa tới mức dẫn đến va chạm đã, đang và sẽ còn tạo ra sức ép chính trị tới việc quyết định và thực thi chính sách quản lý lao động nước ngoài. Những xung đột về văn hóa sẽ kéo theo nhiều bất ổn về chính trị và xã hội. Hệ thống các quy định pháp luật vẫn còn đang loay hoay để giải quyết bất ổn do xung đột văn hóa khi người lao động nước ngoài tham gia lao động tại Việt Nam. Chúng ta vẫn chưa xác định rõ phạm vi bảo hộ đối với lao động trong nước, đối với lao động người nước ngoài. Việc xác định rõ phạm vi bảo hộ có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ lao động trong nước nói riêng, công dân Việt Nam nói chung trước những nguy cơ xâm lấn về văn hóa, xung đột về văn hóa cũng như cách ứng xử do sự hiện diện của người lao động nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ tư, việc xây dựng nguồn nhân lực thay thế lao động nước ngoài cũng đang là vấn đề khó khăn đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý IV năm 2023 là 27,6% , tính đến cuối năm 2023, cả nước vẫn còn 38,0 triệu lao động chưa qua đào tạo[13]. Đối với các địa phương vùng biên giới đất liền, đây cũng là những thách thức vô cùng lớn đối với việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, hình thành lực lượng lao động đủ khả năng, trình độ, tay nghề thay thế lực lượng lao động nước ngoài. Trong khi đó hoạt động quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực đang bị phân tán giữa các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước và cơ quan chủ quản, giữa các Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế các bộ chuyên ngành và giữa các địa phương. Hiện nay, 15 trong số 16 bộ có trường đại học trực thuộc. Ngoài Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhiều bộ ngành khác cũng có khá nhiều trường đại học trực thuộc[14]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, một mặt là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đạo tạo, nhưng thường gặp nhiều khó khăn khi thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực đào tạo của mình với các trường thuộc quyền quản lý của các Bộ khác. Mặt khác, Bộ lại trực tiếp quản lý nhiều trường dẫn đến tình trạng ôm đồm, sự vụ, làm hạn chế quyền chủ động, sáng tạo và ý thức trách nhiệm của các trường đại học, cao đẳng.
Thứ năm, về vấn đề xử lý vi phạm: Trong thời gian qua, các Sở Lao động – Thương binh và xã hội đã tổ chức nhiều đợt thanh tra, kiểm tra tình hình sử dụng lao động nước ngoài trên địa bàn, đồng thời áp dụng nhiều biện pháp như nhắc nhở, xử phạt hành chính. Tuy nhiên, các biện pháp chế tài về kinh tế hiện tại dường như chưa đủ sức răn đe. Nhiều doanh nghiệp vi phạm sẵn sàng nộp phạt và tiếp tục duy trì quan hệ lao động với người nước ngoài trái pháp luật. Một số trường hợp người nước ngoài cố ý vi phạm các quy định của pháp luật, gây tình trạng mất an ninh trật tự nói chung và trên lĩnh vực xuất, nhập cảnh nói riêng. Các đối tượng thường sử dụng các phương thức, thủ đoạn, như hoạt động thông qua người Việt Nam để đầu tư “chui”; Không đầu tư nhưng xin cấp các loại giấy tờ dành cho nhà đầu tư nhằm mục đích cư trú lâu dài tại Việt Nam; nhập cảnh vào Việt Nam với mục đích du lịch, nhưng thực chất là lao động, làm việc cho cá nhân, tổ chức Việt Nam. Hay như người nước ngoài đã quá thời hạn tạm trú nhưng cố tình không xuất cảnh, sử dụng chứng nhận tạm trú quá thời hạn cho phép trong thời gian dài… Thí dụ trong 6 tháng đầu năm 2024, Phòng Quản lý xuất nhập cảnh - Công an tỉnh Lâm Đồng, đã phát hiện, xử lý 43 trường hợp người nước ngoài vi phạm với các hành vi nói trên. Trong đó, có 3 trường hợp người nước ngoài (1 Nigeria, 1 Trung Quốc và 1 Hàn Quốc) lưu trú trái phép trong thời gian dài để có hoạt động khác, nhập cảnh bằng con đường du lịch nhưng lại lao động trái phép đã bị đơn vị xử lý vi phạm hành chính và áp dụng hình thức xử phạt bổ sung trục xuất[15]. Ngày 5/6/2024, Công an tỉnh Gia Lai đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 20 triệu đồng đối với một trường hợp công dân người Trung Quốc làm việc nhưng không có giấy phép lao động và trục xuất người vi phạm về nước[16]. Theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, thì mức xử phạt lĩnh vực lao động tối đa là 75.000.000 đồng rõ ràng không đủ để răn đe đối với những hành vi vi phạm xảy ra[17]. Cũng theo phân tích ở trên, việc nhập cảnh ồ ạt lao động người nước ngoài (đặc biệt là phổ thông) vào Việt Nam gây ra những hệ lụy vô cùng lớn đối với vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước. Và như vậy trách nhiệm pháp lý đối với những vi phạm này chỉ dừng ở việc áp dụng trách nhiệm hành chính rõ ràng cũng không hề tương xứng.
3. Kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả quản lý lao động nước ngoài vùng biên giới đất liền tại Việt Nam trong thời gian tới
Sự xuất hiện của lao động nước ngoài đem đến nhiều cơ hội cũng như những thử thách cho Việt Nam.Việc quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài chỉ có thể thực hiện được hiệu quả khi chúng ta xác định được rõ ràng mục tiêu chính sách về vấn đề này. Để nâng cao hiệu quả về quản lý lao động người nước ngoài, trước hết cần thống nhất một số quan điểm sau[18]:
- Việc thu hút lao động người nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu nhằm đáp ứng những công việc mà lao động Việt Nam chưa đáp ứng được về trình độ và kỹ năng;
- Xác định trọng tâm thu hút đầu tư nước ngoài là việc tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế. Đối với nguồn lực lao động người nước ngoài, phải là lao động trình độ chuyên môn cao, hỗ trợ việc đào tạo nhân lực cho lao động trong nước, phục vụ cho những mục tiêu dài hơi về phát triển kinh tế xã hội.
- Song song với việc thu hút lao động người nước ngoài là việc triển khai công tác đào tạo, đào tạo lại lao động trong nước tiến tới thay thế dần lao động người nước ngoài, đặc biệt là lao động trình độ chuyên môn cao.
- Trách nhiệm chủ động của nhà nước là đảm bảo việc làm cho lao động trong nước, trong bối cảnh có sự cạnh tranh của lao động người nước ngoài;
Về cụ thể, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý lao động người nước ngoài vùng biên giới đất liền ở Việt Nam trong thời gian tới cần tập trung một số vấn đề chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, quy định chặt chẽ hơn quy trình cấp phép lao động, giảm bớt hiện tượng lao động nước ngoài lách luật, làm việc tại Việt nam không đúng nội dung đã được cấp phép (sai về nơi làm việc, sai về nghề nghiệp, sai về trình độ,….). Rà soát lại quy định về chứng minh trình độ tay nghề của lao động nước ngoài, cụ thể cần xem xét lại quy định xác nhận “người có nhiều kinh nghiệm trong nghề nghiệp”. Bên cạnh đó lao động người nước ngoài có nhiều kinh nghiệm phải chứng minh được kinh nghiệm nghề nghiệp của mình đáp ứng được yêu cầu. Nếu không chứng minh được, phải buộc họ phải rời khỏi Việt Nam.
Hai là, rà soát các quy định của Luật đầu tư, Luật đấu thầu… liên quan đến vấn đề lao động người nước ngoài, đặc biệt là các quy định về nhu cầu lao động người nước ngoài đối với các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các quy định về điều kiện lao động nước ngoài được vào làm việc tại Việt Nam tham gia thực hiện các gói thầu, dự án.
Ba là, chính quyền địa phương các vùng biên giới đất liền cần tăng cường giám sát và kiểm tra việc tổ chức triển khai thực hiện các gói thầu hoặc dự án trúng thầu sau khi đã được phê duyệt, đặc biệt là việc trong quá trình thực hiện; tăng chế tài xử phạt các vi phạm, các cam kết trong quá trình thực hiện các gói thầu hoặc dự án đã trúng thầu liên quan đến lao động người nước ngoài.
Bốn là, tăng cường sự phối hợp giữa các ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, Tư pháp, Công an, Kế hoạch và Đầu tư, Ngoại giao trong việc quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Xây dựng quy chế phối hợp giữa Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Công an tỉnh và các ban, ngành có liên quan tại địa phương trong việc quản lý lao động nước ngoài. Song song với đó cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật với các hình thức phong phú, phù hợp với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có sử dụng người lao động nước ngoài để người lao động nước ngoài hiểu được các quyền lợi và nghĩa vụ của họ theo đúng quy định của pháp luật.
Năm là, đẩy mạnh cải cách hệ thống giáo dục đào tạo hiện nay, xây dựng kế hoạch trung và dài hạn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hướng tới mục tiêu nâng tầm chất lượng lao động trong nước đủ sức thay thế lao động người nước ngoài, đặc biệt là lao động trình độ chuyên môn cao. Bên cạnh đó cần tăng cường trách nhiệm chủ động của Nhà nước trong việc đảm bảo việc làm cho lao động trong nước, Nhà nước cần có những biện pháp nhằm hạn chế tiến tới xóa bỏ những bất bình đẳng chế độ lương bổng, điều kiện làm việc…giữa lao động trong nước và lao động người nước ngoài. Những biện pháp này cần được tiến hành đồng bộ với công tác giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, chống xâm lấn văn hóa độc hại, ngoại lai do sự hiện diện đông đảo ngày một tăng của lao động người nước ngoài tại Việt Nam.
Sáu là, thực hiện tốt công tác báo cáo thống kê về người nước ngoài nhập cư vào Việt Nam, bao gồm số liệu thống kê về người nước ngoài được phép làm việc tại Việt Nam theo quốc tịch và theo ngành nghề, vị trí công việc và những người nhập cư bất hợp pháp không có giấy phép vào Việt Nam. Các số liệu thống kê được phân tổ theo trình độ học vấn, quốc gia, nhóm tuổi, giới tính, ngành, nghề, mức lương, thời gian làm việc. Báo cáo được tổng hợp từ các địa phương với tiêu chí thống kê đa dạng có thể giúp tổng hợp, đánh giá đặc điểm của loại hình lao động di cư, bao gồm các hình thức lao động di cư theo hợp đồng hoặc theo các hình thức khác (tự do/các hình thức khác). Nếu báo cáo này được thực hiện một cách toàn diện thì sẽ cung cấp nguồn thông tin đầy đủ với chi phí thấp phục vụ công tác nghiên cứu và quản lý lao động người nước trên cả nước nói chung, vùng biên giới đất liền ở Việt Nam nói riêng./.
ThS. Nguyễn Thanh Tùng
Viện Nhà nước và Pháp luật – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
[1] Nguồn: Website của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - http://dulieutonghop.molisa.gov.vn/so-lieu-chung-ca-nuoc
[2] Cục ĐTNN, Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2023, Đầu tư nước ngoài, ( 16/01/2024 03:45), https://fia.mpi.gov.vn/Detail/CatID/f3cb5873-74b1-4a47-a57c-a491e0be4051/NewsID/00689952-458e-417a-bf12-896d853e1276
[3] Tổng cục Thống kê, Tình hình thị trường lao động Việt Nam năm 2023, (02/01/2024), https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/01/tinh-hinh-thi-truong-lao-dong-viet-nam-nam-2023/
[4] Nguyễn Thị Thu Hương- Nguyễn Thị Bích Thúy, Lao động nước ngoài ở việt nam thực trạng và những vấn đề đặt ra, Viện Khoa học lao động và xã hội, (17/07/2015 00:00:00), http://ilssa.org.vn/vi/news/lao-dong-nuoc-ngoai-o-viet-nam-thuc-trang-va-nhung-van-de-dat-ra-131
[5] Vũ Thanh Liêm, Lao động nước ngoài ở Việt Nam qua con số thống kê, Con số và Sự kiện, (24/12/2021 - 10:59), https://consosukien.vn/lao-dong-nuoc-ngoai-o-viet-nam-qua-con-so-thong-k.htm
[6] Vũ Thanh Liêm, tldđ
[7] Vũ Thanh Liêm, tldđ
[8] Tổ chức Lao động Quốc tế và Tổng cục Thống kê (2022), Khoảng trống về số liệu trong thống kê lao động di cư quốc tế ở Việt Nam, tr. 15, ISBN: 978-922-0-38033-8, https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2023/01/Data-gaps-report-vie-14h-30.12-web.pdf
[9] Nhân lực, Thừa Thiên – Huế: Quản lý chặt chẽ lao động người nước ngoài làm việc trên địa bàn, Dân Sinh, (29/10/2019 - 12:31), https://dansinh.dantri.com.vn/nhan-luc/thua-thien-hue-quan-ly-chat-che-lao-dong-nguoi-nuoc-ngoai-lam-viec-tren-dia-ban-20191028183536177.htm
[10] Phúc Minh, Một số trường hợp người nước ngoài tại Việt Nam được miễn giấy phép lao động, VnEconomy, (17:01 29/03/2024), https://vneconomy.vn/mot-so-truong-hop-nguoi-nuoc-ngoai-tai-viet-nam-duoc-mien-giay-phep-lao-dong.htm#:~:text=Theo%20s%E1%BB%91%20li%E1%BB%87u%20c%E1%BB%A7a%20B%E1%BB%99,c%E1%BA%A5p%20gi%E1%BA%A5y%20ph%C3%A9p%20lao%20%C4%91%E1%BB%99ng.
[11] Lê Tiến - Thụy Trang, Xử lý nghiêm người nước ngoài vi phạm pháp luật, Lâm Đồng, (10:51, 04/07/2024), https://baolamdong.vn/phap-luat/202407/xu-ly-nghiem-nguoi-nuoc-ngoai-vi-pham-phap-luat-7e30d97/
[12] Xem Khoản 3, Khoản 6 Điều 3 Nghị định 152/2020/NĐ-CP ngày 30/12/2020 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và tuyển dụng, quản lý người lao động Việt Nam làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam.
[13] Tổng cục Thống kê, Tình hình thị trường lao động Việt Nam năm 2023, (02/01/2024), https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/01/tinh-hinh-thi-truong-lao-dong-viet-nam-nam-2023/
[14] Minh Giảng, Bộ nào 'quản' nhiều trường đại học nhất?, Tuổi trẻ (01/12/2023 13:46), https://tuoitre.vn/bo-nao-quan-nhieu-truong-dai-hoc-nhat-20231201122554309.htm
[15] Lê Tiến - Thụy Trang, Xử lý nghiêm người nước ngoài vi phạm pháp luật, Lâm Đồng, (10:51, 04/07/2024), https://baolamdong.vn/phap-luat/202407/xu-ly-nghiem-nguoi-nuoc-ngoai-vi-pham-phap-luat-7e30d97/
[16] Lê Kiến, 1 lao động người Trung Quốc không có giấy phép bị xử phạt, trục xuất về nước, Pháp luật, (05/06/2024 10:38), https://plo.vn/1-lao-dong-nguoi-trung-quoc-khong-co-giay-phep-bi-xu-phat-truc-xuat-ve-nuoc-post794137.html
[17] Xem Điểm d Khoản 1 điều 24 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
[18] Nguyễn Thanh Tùng, Chính sách pháp luật về quản lý lao động người nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Luật học, số 4/2017 ,tr.67.