Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Việt Nam ngày càng thể hiện sự tích cực, chủ động và có trách nhiệm trong việc tham gia các cơ chế nhân quyền quốc tế. Tại các cơ chế nhân quyền của Liên hợp quốc, việc kiên quyết bảo vệ quan điểm của Đảng về quyền con người trước các luận điệu xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch trong và ngoài nước vừa là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, vừa là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này và biến thách thức thành cơ hội cho sự phát triển của đất nước đòi hỏi sự đoàn kết, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, dưới sự lãnh đạo của Đảng với những đường lối, sách lược sáng suốt và đúng đắn.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định:

“Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...”. Nguồn: nhiepanhdoisong.vn.

1. Quan điểm của Đảng về quyền con người - một hệ thống lý luận nhân văn và tiến bộ

Quyền con người là một trong những giá trị văn hóa cao quý nhất của nhân loại, là khát vọng của các quốc gia, dân tộc yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới. Quyền con người thể hiện trong những đại lượng mang ý nghĩa phổ quát toàn cầu như nhân phẩm, tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Xét về mặt bản chất, quyền con người vừa là bản chất, vừa là mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội. Dưới chủ nghĩa xã hội, quyền con người “là một giá trị nhân văn, cao đẹp mà nhân loại khát khao hướng tới, với niềm tin về một cuộc sống tốt đẹp, trong mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước, cá nhân với xã hội, bao trùm là quan hệ cao đẹp giữa con người với con người, giữa con người với chế độ xã hội, với nhà nước, với pháp luật”1. Ngay từ khi thành lập, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên (Chánh cương vắn tắt năm 1930), Đảng ta đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề quyền con người và xác định rõ mục tiêu của cách mạng Việt Nam, là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”2. Sau khi giành chính quyền và lãnh đạo công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước, Đảng ta ngày càng chú trọng hơn tới quyền con người, nhất là mối quan hệ giữa quyền con người và độc lập, chủ quyền quốc gia.

Từ khi bước vào thời kỳ Đổi mới, cùng với sự nhận thức ngày càng rõ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, nhận thức của Đảng ta về vấn đề quyền con người cũng ngày càng hoàn thiện hơn. Khái niệm quyền con người lần đầu tiên được ghi nhận trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII, năm 1991). Ngay sau đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12-7-1992 về Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta, nhằm đáp ứng trước những yêu cầu mới của thực tế từ tình hình trong nước và thế giới. Trong đó, Ban Bí thư nêu rõ: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên; qua đó quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại”3.

Các quan điểm của Đảng về quyền con người tiếp tục được thể hiện rõ nét trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước như  Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg ngày 2/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường công tác bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền trong tình hình mới”; Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư về “Công tác nhân quyền trong tình hình mới”; v.v.. Trong đó, Chỉ thị số 12-CT/TW là văn kiện đầu tiên tập hợp một cách có hệ thống các quan điểm của Đảng về quyền con người, có ý nghĩa chỉ đạo và định hướng đối với hệ thống chính trị trong công tác nhân quyền.

Đảng ta khẳng định quyền con người không chỉ là giá trị chung của nhân loại, mà còn bắt nguồn từ những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Hơn nữa, Đảng còn chỉ rõ cơ sở lý luận của Đảng về quyền con người, xác định học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là nền tảng lý luận của Đảng trong công tác bảo đảm quyền con người ở nước ta. Đồng thời, Đảng cũng làm rõ tính giai cấp của khái niệm “quyền con người” trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, khẳng định tính phụ thuộc của quyền con người vào lịch sử, truyền thống, trình độ kinh tế, văn hóa của mỗi quốc gia nhằm bác bỏ những âm mưu áp đặt mô hình dân chủ, nhân quyền của các thế lực phản động trong và ngoài nước. Đảng cũng chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa quyền con người và độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia; khẳng định quyền con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội và là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa; khẳng định sự cần thiết phải ghi nhận và bảo vệ quyền con người bằng Hiến pháp và pháp luật cũng như mối quan hệ không thể tách rời giữa nghĩa vụ và trách nhiệm công dân.

Bên cạnh những chỉ thị nói trên, quan điểm của Đảng về quyền con người còn được thể hiện sâu sắc trong các văn kiện của các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Có thể thấy, qua mỗi kỳ đại hội, nhận thức của Đảng về quyền con người ngày càng trở nên rõ nét hơn, ngày càng tôn trọng và bảo vệ quyền con người nhiều hơn, phản ánh những xu thế tiến bộ của thế giới và của thời đại. Các văn kiện đại hội Đảng cho thấy, Đảng ta sớm chủ trương “chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn sàng đối thoại nhưng cũng kiên quyết đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người nhằm “làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam”4. Bên cạnh đó, Đảng còn nhất quán chủ trương: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”5.

Trong giai đoạn mới hiện nay, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân, đặt người dân ở vị trí trung tâm và quyền con người được xem như một nguyên tắc trong việc xây dựng chủ trương, hoạch định chính sách. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”6. Đây cũng chính là vận dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người trong hoạch định chính sách, vì sự phát triển của quốc gia và của mỗi người dân.

Có thể nói, hệ thống các quan điểm và cách tiếp cận của Đảng đối với vấn đề quyền con người có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc định hướng toàn bộ hệ thống chính trị tham gia hiệu quả công tác nhân quyền trong tình hình mới, khi đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng vào các lĩnh vực của đời sống quốc tế cũng như trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Quán triệt tốt những quan điểm chỉ đạo này sẽ giúp nước ta đạt được những thành quả quan trọng trong nỗ lực thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2. Thực hiện nhất quán các quan điểm của Đảng về quyền con người tại các cơ chế nhân quyền Liên hợp quốc

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta đã từng bước hội nhập vào cộng đồng quốc tế trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của Liên hợp quốc vào năm 1977, Việt Nam luôn nỗ lực tham gia vào công cuộc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên thế giới, chủ động tham gia các diễn đàn quốc tế về quyền con người, đồng thời tích cực phê chuẩn các công ước quốc tế cơ bản về quyền con người7. Việt Nam cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Tuy vậy, quyền con người vốn là một vấn đề phức tạp, dễ bị lợi dụng, chính trị hóa, gây bất lợi cho sự phát triển của đất nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Trên thực tế, các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước vẫn luôn công kích, xuyên tạc về tình hình quyền con người ở nước ta, qua đó tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Điều này khiến cho công cuộc đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người trở nên khó khăn và phức tạp hơn nhiều, đòi hỏi Đảng ta phải có những đối sách mềm dẻo mà cương quyết để phản bác lại những luận điệu sai trái này, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế để tiếp tục hiện thực hóa hiệu quả quyền con người ở nước ta. Việc tham gia một cách chủ động và tích cực vào các cơ chế nhân quyền của Liên hợp quốc là một trong những sách lược quan trọng của Đảng và Nhà nước ta để thực hiện mục tiêu chiến lược đó.

Trong thời gian qua, trên cơ sở thực hiện nhất quán chủ trương tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người cũng như trên cơ sở thực hiện đường lối đối ngoại đa phương hóa và chủ động tích cực hội nhập quốc tế, Việt Nam đã và đang tham gia tích cực, chủ động và có trách nhiệm tại các cơ chế nhân quyền nổi bật của Liên hợp quốc như Hội đồng Nhân quyền, Ủy ban 3 (Ủy ban các vấn đề xã hội, nhân đạo và văn hóa) của Đại hội đồng Liên hợp quốc, ECOSOC, v.v.. Với uy tín ngày càng cao trên trường quốc tế, vị thế của Việt Nam trong các cơ chế nhân quyền quốc tế này cũng ngày càng được nâng cao. Việt Nam đã được bầu làm thành viên của Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, Hội đồng Kinh tế-Xã hội nhiệm kỳ 2016-2018, Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc giai đoạn 2020-2021. Tháng 6/2022, Việt Nam được tín nhiệm cao và được bầu làm Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77. Tháng 10/2022, với tư cách là ứng cử viên duy nhất của ASEAN (đồng thời là ứng cử viên châu Á duy nhất của cộng đồng Pháp ngữ), Việt Nam lần thứ hai trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, nhiệm kỳ 2023-2025. Thắng lợi này tiếp tục khẳng định sự công nhận, tin tưởng và kỳ vọng của cộng đồng quốc tế đối với những nỗ lực và cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đối với việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, không chỉ ở phạm vi quốc gia, mà còn trên quy mô khu vực và toàn cầu.

Trong số đó, đáng lưu ý là sự tham gia của Việt Nam đối với các cơ chế nhân quyền cụ thể do Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc thực hiện (còn gọi là cơ chế dựa trên Hiến chương), mà đặc biệt là cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR)8. Cho đến nay Việt Nam đã tham gia cả 3 chu kỳ của cơ chế UPR (vào các năm 2009, 2014 và 2019) cùng với việc cử các phái đoàn sang trụ sở của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc tại Geneva (Thụy Sĩ) để bảo vệ các báo cáo quốc gia của Việt Nam về quyền con người. Tại các diễn đàn này, Việt Nam đã trả lời chất vấn của Hội đồng Nhân quyền cũng như các quốc gia thành viên Liên hợp quốc về những vấn đề xoay quanh việc bảo đảm quyền con người ở trong nước trên các lĩnh vực rộng lớn của đời sống xã hội. Đồng thời, đây cũng là dịp để Việt Nam khẳng định những thành tựu nổi bật của mình trong việc bảo đảm quyền con người trên các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao uy tín trong con mắt của cộng đồng quốc tế.

Bên cạnh cơ chế UPR, Việt Nam còn hợp tác với các cơ chế nhân quyền khác do Hội đồng Nhân quyền thực hiện như Thủ tục đặc biệt, Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người, Ủy ban ECOSOC, v.v.. Đối với Thủ tục đặc biệt, Việt Nam đã tiếp đón một số báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về quyền con người trong một số lĩnh vực cụ thể, giúp họ nắm bắt tình hình thực tế tại Việt Nam một cách chân thực. Theo thống kê của Bộ Ngoại giao, mỗi năm Việt Nam đều nhận được 10-15 kháng thư của các Thủ tục đặc biệt, trong đó đề nghị xem xét và làm sáng tỏ những cáo buộc về vi phạm quyền con người tại Việt Nam. Trong phần lớn các trường hợp, Việt Nam đã kịp thời cung cấp thông tin, đấu tranh, vận động các Thủ tục đặc biệt đóng các hồ sơ này lại, qua đó bảo vệ uy tín và thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người.

Ngoài việc tham gia các cơ chế dựa trên Hiến chương nói trên, Việt Nam còn tích cực và chủ động tham gia các cơ chế dựa trên công ước (treaty-based mechanism) của Liên hợp quốc về quyền con người. Cho đến nay, Việt Nam đều định kỳ nộp và bảo vệ báo cáo quốc gia về việc thực thi các công ước quốc tế về quyền con người cho các Ủy ban giám sát công ước của Liên hợp quốc, bao gồm Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước chống mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW); Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc; Công ước về quyền trẻ em và Công ước chống tra tấn.

Trong quá trình tham gia các cơ chế nhân quyền quốc tế nói trên, Việt Nam đều kiên định lập trường, giữ vững và bảo vệ các quan điểm của Đảng về quyền con người. Việt Nam sẵn sàng tiếp thu những kiến nghị của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là những kiến nghị mang tính xây dựng và có lợi cho sự phát triển của đất nước, nhằm thúc đẩy hoạt động bảo đảm quyền con người hiệu quả hơn. Tuy nhiên, với những kiến nghị đi ngược lại chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung, đi ngược lại những nguyên tắc về độc lập, chủ quyền được ghi nhận trong Hiến pháp, có ý đồ phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng hoặc gây bất lợi cho sự cầm quyền chính danh của Đảng (mà chủ yếu là những kiến nghị mang đậm màu sắc “chính trị”) thì Việt Nam luôn kiên quyết bác bỏ.

Khi tham gia các cơ chế nhân quyền của Liên hợp quốc, chúng ta cũng theo đuổi những sách lược ứng biến linh hoạt, thể hiện vai trò tích cực và chủ động với tư cách là một thành viên của cộng đồng quốc tế. Một mặt, Việt Nam thể hiện rõ ràng thái độ đối thoại một cách thiện chí, cởi mở, thẳng thắn về những vấn đề mà cộng đồng quốc tế quan tâm. Mặt khác, Việt Nam chủ động cung cấp thông tin (dù không được yêu cầu), giúp Hội đồng nhân quyền cũng như các quốc gia thành viên khác của Liên hợp quốc nắm bắt được tình hình bảo đảm quyền con người tại Việt Nam, hiểu được những thuận lợi và khó khăn riêng có của Việt Nam, những thách thức mà Việt Nam đã vượt qua và đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, qua đó tránh gây hiểu lầm, đồng thời xây dựng và gia tăng thiện cảm của cộng đồng quốc tế đối với nước ta.

Đối với những vấn đề cụ thể về quyền con người, Việt Nam biết khai thác và tập trung vào những điểm mạnh, thế mạnh của mình. Chẳng hạn, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người mà nổi bật là bảo đảm bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ, đạt thành tích giảm nghèo đa chiều ấn tượng9, đạt phổ cập giáo dục tiểu học, không ngừng cải thiện chỉ số phát triển con người (HDI)10, tuổi thọ trung bình đạt mức cao trên thế giới11, bảo đảm quyền cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương như người khuyết tật, người cao tuổi, trẻ em, hỗ trợ nhân đạo, tham gia tìm kiếm cứu nạn, phòng chống thiên tai, đối phó với dịch bệnh, v.v.. Đối với một số vấn đề mang tính chất nhạy cảm như quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do lập hội, quyền biểu tình, bảo đảm quyền cho tù nhân, v.v.., Việt Nam một mặt tìm cách đối thoại thẳng thắn và khéo léo, mặt khác kiên quyết đấu tranh với những phần tử lợi dụng những vấn đề dân chủ, nhân quyền này để chống phá Đảng, Nhà nước ta, làm mất uy tín của Đảng, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước ta.

Thông qua đối thoại và đấu tranh tại các cơ chế nhân quyền quốc tế của Liên hợp quốc, Việt Nam có cơ hội đưa ra những luận điểm có căn cứ lý luận và thực tiễn vững chắc nhằm phản bác những luận điệu sai trái xuyên tạc tình hình quyền con người tại Việt Nam. Thực tế cho thấy, một số cơ chế nhân quyền chịu sự chi phối của Mỹ và Phương Tây nên trong cách tiếp cận đối với vấn đề quyền con người còn bộc lộ sự phiến diện, thiếu công bằng, áp đặt tiêu chuẩn kép, v.v.. Các thế lực thù địch được sự hậu thuẫn của Mỹ và Phương Tây đã đưa ra nhiều cáo buộc vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền như đàn áp tôn giáo, ngăn cản tự do ngôn luận, công kích vấn đề “tù nhân lương tâm”, “tù nhân tôn giáo”, “tù nhân chính trị”12, v.v.. Do vậy, nếu không đập tan những luận điệu vu cáo của các thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nước, uy tín của Đảng và Nhà nước ta sẽ bị giảm sút, vị thế của Việt Nam trên chính trường quốc tế cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Có thể nói, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, việc tham gia vào các cơ chế nhân quyền của Liên hợp quốc là một nhiệm vụ chính trị quan trọng và cũng là một thách thức lớn đối với nước ta. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị này đòi hòi nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng dựa trên những quan điểm, chủ trương, sách lược đúng đắn, biến thách thức thành cơ hội cho sự phát triển bền vững của đất nước.

3. Tiếp tục khẳng định và bảo vệ các quan điểm của Đảng về quyền con người

Tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy quyền con người của người dân là chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Thực tế cho thấy, thực hiện các quan điểm của Đảng về quyền con người, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm quyền con người, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Tuy nhiên, tình hình hiện nay cũng đặt ra nhiều thách thức đối với nước ta trên nhiều lĩnh vực, trong đó có quyền con người. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng những diễn biến khó lường của các vấn đề an ninh phi truyền thống như dịch bệnh, khủng bố, tội phạm xuyên biên giới, biến đổi khí hậu, v.v.. trên thế giới đã và đang tác động mạnh mẽ tới quyền con người trên các khía cạnh dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và ảnh hưởng tới hiệu quả bảo đảm quyền con người nói chung, quyền con người của mỗi cá nhân nói riêng. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn tiếp tục lợi dụng sự khó khăn của tình hình trong nước và quốc tế để “rêu rao” những giá trị nhân quyền, dân chủ phương Tây, công kích, bôi nhọ vai trò lãnh đạo của Đảng ta, tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng hòng làm mất uy tín của Đảng. Trước thực tế đó, để tiếp tục bảo vệ và phát huy những thành quả đã đạt được, đồng thời khắc phục khó khăn, đẩy lùi sự tấn công của các thế lực thù địch trong lĩnh vực nhân quyền, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng trong công tác bảo đảm quyền con người, đòi hỏi thực hiện đồng bộ những quan điểm, giải pháp sau:

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách nền tảng tư tưởng của Đảng tới toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đồng thời, tăng cường nghiên cứu lý luận và vận dụng, phát triển sáng tạo  chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta, qua đó củng cố cơ sở lý luận của Đảng về bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay. Đây là sách lược quan trọng để thực hiện chủ trương kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng “chiêu bài nhân quyền” để chống phá Đảng, Nhà nước, nhân dân và sự nghiệp cách mạng của nước ta. Thông qua những hoạt động tích cực như vậy, các tầng lớp xã hội sẽ được trang bị vũ khí lý luận sắc bén, giúp nâng cao năng lực nhận diện các âm ưu, thủ đoạn tinh vi, phức tạp của các thế lực thù địch hòng phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng cũng như phủ nhận những thành tựu về quyền con người của nước ta, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Qua đó, cũng góp phần ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các thế lực thù địch lợi dụng kẽ hở của pháp luật cũng như lợi dụng các cơ chế quốc tế về quyền con người để bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng cũng như cản trở công tác bảo vệ quyền con người ở nước ta hiện nay.

Hai là, tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế quốc tế của Liên hợp quốc, đặc biệt là các cơ chế nhân quyền quốc tế. Sự hiện diện của Việt Nam tại các thiết chế quốc tế cũng như các cơ chế đối thoại về quyền con người của Liên hợp quốc là cơ hội quý báu để thể hiện tiếng nói chính thống của Đảng và Nhà nước ta trước cộng động quốc tế. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam khẳng định những thành tựu trong bảo đảm quyền con người trước cộng đồng quốc tế, đồng thời phản bác những luận điệu xuyên tạc, thù địch về tình hình quyền con người tại Việt Nam. Trong thời gian tới, cần có chiến lược hỗ trợ người Việt làm việc tại các tổ chức quốc tế có hoạt động liên quan đến quyền con người, đề cử người Việt tham gia các vị trí lãnh đạo trong một số tổ chức quốc tế thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc. Song song với đó, cần tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế trên lĩnh vực nhân quyền và tăng cường đối thoại với các đối tác thông qua các diễn đàn, cơ chế khu vực và quốc tế về vấn đề bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Thông qua đó, tranh thủ sự ủng hộ và hỗ trợ về nguồn lực của cộng đồng quốc tế nhằm phục vụ hiệu quả cho công tác đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền, đồng thời xây dựng và nâng cao hình ảnh, uy tín quốc gia trong công tác bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.

Ba là, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm khi tham gia các cơ chế nhân quyền quốc tế. Theo đó, cần tiếp tục chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển; phát huy tối đa nội lực, vừa hợp tác vừa đấu tranh một cách mềm dẻo, khéo léo, linh hoạt, tránh nguy cơ đối đầu; tăng cường cơ chế đối thoại trên cơ sở công khai, minh bạch chính sách, tránh gây hiểu lầm, nghiêm chỉnh thực thi các cam kết quốc tế, đặc biệt là các cam kết về quyền con người. Bên cạnh đó, cần chủ động giành vị trí, vai trò dẫn dắt khi tham gia một số cơ chế nhân quyền quốc tế, xây dựng hình ảnh một Việt Nam là đối tác chiến lược và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đề xuất sáng kiến và tham gia thành lập những cơ chế, thiết chế mới có lợi cho sự phát triển của cộng đồng quốc tế, thay thế những tiêu chuẩn kép về quyền con người của Mỹ và Phương Tây.

Bốn là, xây dựng và củng cố lực lượng tham gia đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên mặt trận nhân quyền, cả trong nước và trên bình diện quốc tế. Phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị và huy động sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân trong việc tuyên truyền các giá trị nhân văn, phổ quát của quyền con người, đẩy lùi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, hình thành đội ngũ “bút chiến” có năng lực phản bác, đập tan mọi luận điệu chống phá, xuyên tạc về tình hình quyền con người ở Việt Nam, đặc biệt trên không gian mạng.

Năm là, tiếp tục công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, như đã được xác định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Để thực hiện mục tiêu này, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đồng bộ, thống nhất, minh bạch, ổn định và nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, đặc biệt là trong xây dựng pháp luật về quyền con người. Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước theo tinh thần: “Lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”13. Bên cạnh đó, đẩy mạnh cải cách tư pháp hướng tới xây dựng nền tư pháp hiện đại, chuyên nghiệp, “có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”14.

Tóm lại, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác mọi luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với Đảng, Nhà nước, nhân dân, mà còn có ý nghĩa sống còn đối với việc bảo vệ thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhân quyền hay quyền con người là một chủ đề hay bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng cũng như sự nghiệp cách mạng của nước ta. Do đó, tăng cường đối thoại và đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn (trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến việc tăng cường hơn nữa sự tham gia tích cực và chủ động tại các cơ chế quốc tế về quyền con người), sẽ thúc đẩy hiệu quả bảo đảm quyền con người và qua đó, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong tình hình mới.

TS. Lê Xuân Tùng

Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 5/2023

-----

Tài liệu trích dẫn

(1) Tạ Ngọc Tấn, “Nhân quyền là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa”, trong sách “Thành tựu nhân quyền Việt Nam 70 năm qua”, Tạ Ngọc Tấn, Đặng Dũng Chí, Hoàng Văn Nghĩa (đồng chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, H., 2017, tr.8.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H., 2011, t.3, tr.1.

(3) Ban Chỉ đạo Nhân quyền của Chính phủ, Văn phòng Thường trực, Tài liệu tổng kết Chỉ thị 12 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta”, Nxb Chính trị-Hành chính, H., 2012, tr.12,13.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H., 2006, tr.113.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H., 2011, tr.76.

(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H., 2021, Tập 1, tr.28.

(7) Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết và phê chuẩn 7/9 công ước quốc tế cơ bản về quyền con người, bao gồm Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước chống phân biệt chủng tộc năm 1965, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (Công ước CEDAW) năm 1979, Công ước chống tra tấn năm 1984, Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006.

(8) Đây là cơ chế liên chính phủ có nhiệm vụ rà soát tổng thể các vấn đề liên quan đến quyền con người tại tất cả các nước thành viên của Liên hợp quốc, được thực hiện định kỳ 4,5 năm một lần trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc đối thoại, hợp tác, đối xử bình đẳng, khách quan, minh bạch, xây dựng, không đối đầu, không chọn lọc và chính trị hóa.

(9) Theo số liệu chính thức, tỷ lệ nghèo đa chiều của Việt Nam đã giảm mạnh và liên tục, từ 18,1% năm 2012 xuống còn 4,4% năm 2020. Xem: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân tộc, Tổng cục Thống kê, UNDP, Báo cáo nghèo đa chiều Việt Nam năm 2021, “Thúc đẩy giảm nghèo nhanh và bền vững theo mọi chiều cạnh và mọi nơi ở Việt Nam”, tr.9.

(10) Theo Báo cáo Phát triển con người 2021/2022 do Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) công bố, giá trị HDI của Việt Nam năm 2021 là 0,703, xếp hạng 115/191 quốc gia. Xem: UNDP, Human Development Report 2021/2022, “Uncertain Times, Unsettled Lives: Shaping our Future in a Transforming World”, New York, 2022, p.272.

(11) Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam năm 2020 là 73,7. Xem: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê năm 2021, Nxb Thống kê, H., 2021, tr.837.

(12) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Sổ tay Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, Nxb Lý luận chính trị, H., 2022, tr.151.

(13) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H., 2021, t.1, tr.175.

(14) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H., 2021, t.1, tr.177.