Là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, có thể thấy, ở Việt Nam, biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, sinh kế của người dân, đặc biệt là các đối tượng dễ bị tổn thương. Mặc dù, Đảng và nhà nước Việt Nam đã ban hành kịp thời các chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật về bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu; cố gắng bảo đảm ngày càng tốt hơn chất lượng cuộc sống của nhóm này nhưng việc bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu vẫn gặp nhiều khó khăn.
1. Rào cản đối với việc bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại Việt Nam hiện nay
a) Nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu
Ngày 19/10/2005, các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn Thế giới về Đạo đức sinh học và Nhân quyền (Universal Declaration on Bioethics and Human Rights). Điều 8 của Bản Tuyên ngôn đề cập đến “tính dễ bị tổn thương” và “nhóm dễ bị tổn thương”1. Tuyên ngôn không đưa ra định nghĩa về các thuật ngữ “tính dễ bị tổn thương” hay “nhóm dễ bị tổn thương” nhưng khẳng định rằng không chỉ các cá nhân mà cả các gia đình, các nhóm và cộng đồng đều có thể bị tổn thương; đồng thời chỉ ra một số trường hợp có thể làm cho các cá nhân và nhóm dễ bị tổn thương như: dịch bệnh, khuyết tật, các điều kiện khác của cá nhân, điều kiện môi trường, giới hạn tài nguyên… Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), nhóm lao động yếu thế thường tập trung tại các khu vực phi chính thức (informal sector). Đây là khu vực tập trung các đơn vị sản xuất ra sản phẩm vật chất và dịch vụ với mục tiêu chủ yếu nhằm tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động. Các đơn vị này thường hoạt động với tổ chức quy mô nhỏ, quan hệ lao động chủ yếu dựa trên lao động không thường xuyên, quan hệ họ hàng hoặc quan hệ cá nhân hơn là những quan hệ qua hợp đồng với những đảm bảo chính thức2. Từ đó, lao động phi chính thức được xác định là nhóm người có việc làm bấp bênh, thiếu ổn định, thu nhập thấp, thời gian làm việc dài; không có hợp đồng lao động hoặc có nhưng không được đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, không được chi trả các chế độ phụ cấp và các khoản phúc lợi xã hội khác. Những người lao động này thường luẩn quẩn trong đói nghèo, hạn chế về năng lực, kiến thức và điều kiện kinh tế, do đó không có nhiều cơ hội để hòa nhập xã hội.
Trong hệ thống khoa học pháp lý Việt Nam hiện hành, nhóm người yếu thế được định nghĩa là “Những nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay vi phạm các quyền con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác”3. Từ những quan điểm trên, có thể thấy, nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương là nhóm những người bị hạn chế một phần năng lực do tự nhiên hoặc do hoàn cảnh xã hội quy định khiến họ bị đánh giá thấp về địa vị, kinh tế, chính trị, xã hội trong hoàn cảnh, điều kiện và năng lực có sẵn như nhau. Tuy nhiên, tính yếu thế của họ không phải là bất biến bởi một người có thể thuộc nhóm người yếu thế tại thời điểm này nhưng có thể tại thời điểm khác sẽ không còn là nhóm người yếu thế nữa.
Theo cách xác định của UNESCO, nhóm người yếu thế bao gồm “những người ăn xin, nạn nhân của các loại tội phạm, người tàn tật, thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn, nhóm giáo dục đặc biệt, người cao tuổi, người nghèo, tù nhân, người lao động tình dục, người thất nghiệp, người lang thang cơ nhỡ. Ngoài ra còn kể đến người tị nạn, người xin tị nạn, người bị xã hội loại trừ”4. Cùng với đó, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng không đưa ra định nghĩa về “nhóm dễ bị tổn thương” mà chỉ xác định các đối tượng “dễ bị tổn thương” bao gồm: “Trẻ em, phụ nữ có thai, người cao tuổi, người suy dinh dưỡng, và những người bị ốm hoặc suy giảm miễn dịch, đặc biệt dễ bị tổn thương khi xảy ra thiên tai...”5. Thừa nhận cách tiếp cận này, pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận những nhóm người yếu thế cơ bản như trẻ em, người khuyết tật, phụ nữ, người dân tộc thiểu số… Đồng thời, do đặc thù về kinh tế, xã hội, Việt Nam còn ghi nhận nhóm người yếu thế sống trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do nghèo đói, bệnh tật và tác động của môi trường.
Có thể thấy, quyền của người yếu thế trước tiên mang đầy đủ tính chất của quyền con người, quyền công dân, đồng thời có những tính chất riêng tương ứng với đặc điểm của từng nhóm yếu thế cụ thể. Nói cách khác, quyền của người yếu thế là các quyền tự nhiên vốn có của người yếu thế, được thực hiện hoặc không thực hiện các hoạt động một cách tự nguyện mà không chủ thể nào được phép cản trở, xâm phạm hay phân biệt đối xử chỉ vì tình trạng yếu thế của họ. Quyền của người yếu thế nói riêng là những đặc lợi mà chỉ người yếu thế mới có, được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện.
Từ đó có thể hiểu, bảo đảm quyền của người yếu thế, dễ bị tổn thương là việc tạo mọi điều kiện thuận lợi để người yếu thế, dễ bị tổn thương được hưởng các quyền vốn có của mình một cách phù hợp, đầy đủ và trọn vẹn nhất. Cụ thể, việc bảo đảm quyền của người yếu thế, dễ bị tổn thương cần được xem xét trên nhiều phương diện, khía cạnh, xuất phát từ những nhu cầu cơ bản của con người để tồn tại và phát triển.
b) Rào cản đối với việc bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại Việt Nam hiện nay
Những tác động tiêu cực do biến đổi khí hậu gây ra chủ yếu xâm phạm một cách gián tiếp, được thể hiện thông qua việc các chủ thể thuộc nhóm này trong quá trình tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản nhằm ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống của họ, cụ thể là:
Thứ nhất, nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương có những đặc điểm làm chậm khả năng thích ứng với những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu
Quá trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương là những chủ thể có những đặc điểm đặc thù. Về tâm lý xã hội: đây là nhóm người thường dễ tự ti, mặc cảm trước những người xung quanh về sự yếu thế của mình nên họ có xu hướng sống khu trú, co cụm và tránh giao tiếp với mọi người. Về địa vị chính trị, xã hội: Nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương thường là những người có địa vị chính trị, xã hội không cao, không có “tiếng nói” hoặc “tiếng nói” yếu ớt khi vào gia vào các hoạt động xã hội. Do chỉ chiếm thiểu số và do sự yếu thế của mình nên họ thường bị bỏ qua trong các hoạt động chính trị, xã hội. Về khả năng kinh tế: phần lớn nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương là những người có khả năng kinh tế thấp, có trình độ dân trí thấp, không có khả năng lao động hoặc khả năng lao động bị hạn chế dẫn tới việc họ bị mất cơ hội việc làm và không có thu nhập để tự trang trải và nuôi sống chính mình, không có cơ hội được tiếp cận với những dịch vụ xã hội cơ bản nhất như nhà ở, việc làm, giáo dục, y tế… Về nhận thức pháp luật và năng lực tự vệ pháp lý: nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương thường không nhận thức được hoặc nhận thức không đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia vào các quan hệ xã hội được pháp luật ghi nhận; do đó khi phát sinh tranh chấp, họ không có cơ chế pháp lý rõ ràng để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Xuất phát từ những khó khăn về tâm lý, trình độ dân trí, năng lực chuyên môn còn nhiều hạn chế, nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương thường bị động trong việc thích ứng và giảm thiểu những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Với nguồn vốn tích lũy còn hạn chế trong việc phục vụ cho các nhu cầu cơ bản của đời sống sinh hoạt, nhóm chủ thể này sẽ ngày càng khó khăn hơn trong việc phải chi trả các chi phí tăng thêm trong sản xuất, sinh hoạt, chi phí trong việc di cư tới những nơi ở mới do tình trạng biến đổi khí hậu tiếp tục diễn biến phức tạp, từ đó gây nên tình trạng bất bình đẳng trong xã hội.
Thứ hai, quan điểm và định kiến của xã hội khiến nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương có nguy cơ bị cản trở trong việc tiếp cận và bảo đảm quyền con người, quyền công dân trước những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu
Nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương là nhóm chủ thể gặp những khó khăn và trở ngại nhất định trong việc tiếp cận và được thụ hưởng đầy đủ các quyền con người, quyền công dân. Cùng với đó, quan điểm và định kiến xã hội về nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương đã và đang ngày càng ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lí xã hội và khả năng được bảo đảm các quyền của nhóm chủ thể này - đặc biệt trong điều kiện tình trạng biến đổi khí hậu đang diễn biến ngày càng phức tạp.
Định kiến xã hội về nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương tạo nên sự phân biệt xã hội, đó là:
(i) Tình trạng mất việc làm đối với lao động là nữ giới (đặc biệt trong các ngành nghề chịu sự tác động lớn từ môi trường tự nhiên như nông nghiệp, du lịch…). Tại Việt Nam, cũng như ở các nước đang phát triển, phụ nữ vẫn tiếp tục là lực lượng chính cấu thành nhóm lao động nghèo, có thu nhập thấp hơn, dễ trở thành nạn nhân của tình trạng thiếu việc làm hoặc thất nghiệp hơn, và có điều kiện việc làm bấp bênh hơn nam giới. Phụ nữ Việt Nam chủ yếu làm việc trong các ngành nghề có thu nhập thấp hoặc những công việc dễ bị tổn thương. Phụ nữ cũng chiếm phần lớn trong nhóm làm công việc của gia đình không được trả lương, và trong khu vực “vô hình” của nền kinh tế phi chính thức – họ làm giúp việc gia đình, lao động tại gia, bán hàng rong và làm việc trong ngành công nghiệp giải trí. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do xã hội có định kiến về người phụ nữ sẽ có địa vị thấp hơn nam giới và đặt gánh nặng làm công việc nhà không lương lên vai người phụ nữ, nhưng vẫn mong muốn họ tham gia sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp và nền kinh tế thị trường.
(ii) Tình trạng di dân ồ ạt chủ yếu diễn ra ở nhóm lao động có thu nhập thấp ra các đô thị lớn,
(iii) Hiện trạng nghèo đói - thậm chí nghèo đói cùng cực có thể xảy ra tại những địa phương chịu ảnh hưởng lớn từ thiên tai,
(iv) Trẻ em thuộc nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương có thể bị hạn chế trong việc tiếp cận với thực phẩm, nước sạch, giáo dục, chăm sóc sức khỏe...
Thứ ba, tình trạng biến đổi khí hậu đã và đang diễn biến ngày càng phức tạp, từ đó càng làm gia tăng các tác động tiêu cực tới nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương
Biến đổi khí hậu không phải là một vấn đề mới xuất hiện. Tuy nhiên trong những năm gần đây - khi kỷ nguyên năng lượng đang ngày càng chứng minh được sự tiến bộ vượt trội của nó, thì đi cùng với đó, những tác động do biến đổi khí hậu đem lại cũng trở nên rõ ràng và khốc liệt hơn. Biến đổi khí hậu đã gây ra những tác động lớn, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống và sự phát triển kinh tế xã hội của người dân. Đặc biết, đối với nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương vốn đã có những hạn chế về tâm lí xã hội, trình độ dân trí, năng lực chuyên môn và khả năng kinh tế, nay sẽ phải chi trả và chịu tổn thất nhiều hơn bởi những tác động tiêu cực do biến đổi khí hậu gây ra. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (World Bank – WB), trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay, nếu Việt Nam không có các biện pháp thích ứng phù hợp, kịp thời, sẽ có khoảng một triệu (1 triệu) người dân sẽ rơi vào tình trạng nghèo khó trong năm 2050, trong đó phần lớn rơi vào nhóm chủ thể yếu thế, dễ bị tổn thương. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng họ được tiếp nhận và thụ hưởng đầy đủ các quyền con người, quyền công dân đã được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
2. Hạn chế trong bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại Việt Nam hiện nay
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều hoạt động tích cực đối với nhóm yếu thế như ban hành kịp thời các chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật về bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu; cố gắng bảo đảm ngày càng tốt hơn chất lượng cuộc sống của nhóm yếu thế, nâng cao hiệu quả mục tiêu xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, hạn chế tình trạng bất bình đẳng; tích cực trong việc xây dựng và tổ chức thực thi chính sách về bảo đảm quyền con người trước những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu, trong đó bao gồm nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương.
Biến đổi khí hậu đã và đang ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng tới các mục tiêu về phát triển bền vững của Việt Nam bao gồm:
(i) Mục tiêu chấm dứt nghèo;
(ii) Hoạt động giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người;
(iii) Mục tiêu bình đẳng giới, tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái;
(iv) Mục tiêu bảo đảm việc làm, thu nhập thường xuyên. Do đó, công tác thực thi có hiệu quả các quy định pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền công dân đối với nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương sẽ góp phần thúc đẩy việc thực hiện thành công các mục tiêu về phát triển bền vững, bảo đảm an sinh xã hội cho cộng đồng nói chung.
Trong bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại Việt Nam hiện nay, có thể nêu ra một số hạn chế cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương là nhóm chủ thể có năng lực, nhận thức và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu còn hạn chế
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan tác động đến việc bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương; những hạn chế trong việc bảo đảm và tiếp cận tới các chính sách an sinh xã hội của nhóm chủ thể này còn xuất phát bởi chính những khó khăn về năng lực, khả năng nhận thức và kĩ năng ứng phó với biến đổi khí hậu. Với những hạn chế về tâm lí sống tự ti, khép kín; cũng như trình độ nhận thức và năng lực chuyên môn còn nhiều hạn chế, nhóm chủ thể yếu thế, dễ bị tổn thương thường mang tâm thế sống phụ thuộc vào môi trường tự nhiên cũng như các chính sách hỗ trợ định kì của Nhà nước mà ít có xu hướng sẵn sàng thay đổi và thích nghi với những tác động khách quan do biến đổi khí hậu mang lại. Do đó, họ bị hạn chế về khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, không có nguồn lực để chi trả thêm các chi phí phát sinh do biến đổi khí hậu gây ra mà luôn trong tâm thế bị tác động, bị cản trở trong việc tiếp cận các chính sách an sinh xã hội hiệu quả.
Thứ hai, số lượng người yếu thế, dễ bị tổn thương có xu hướng ngày càng tăng, gây áp lực lớn cho ngân sách Nhà nước trong việc bảo đảm an sinh xã hội
Thực tiễn chỉ ra rằng, số lượng người yếu thế, dễ bị tổn thương ở Việt Nam đã và đang chiếm tỉ lệ lớn so với khả năng chi trả và đáp ứng yêu cầu của ngân sách Nhà nước trong việc bảo đảm an sinh xã hội và phát triển bền vững. Điều này một phần xuất phát bởi những yếu tố lịch sử khách quan, khi nước ta đã trải qua những cuộc chiến tranh ác liệt đã và đang để lại những di chứng nặng nề về thể chất và tinh thần cho con người Việt Nam; trong đó phải kể đến hậu quả của chất độc dioxin (chất độc màu da cam) với đặc tính di truyền qua nhiều thế hệ. Đây là nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương do tác động của hoàn cảnh lịch sử khách quan.
Bên cạnh đó, tại Việt Nam, số lượng nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương đang ngày càng tăng do điều kiện sống bị phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên đang có xu hướng diễn biến khắc nghiệt và thất thường hơn. Cụ thể, Việt Nam thuộc nhóm nước Đông Nam Á chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu, như mưa bão, lũ lụt thường xuyên, nước biển dâng…, được xếp vào nhóm các quốc gia dễ bị tổn thương bởi những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Do đó, các chi phí dùng cho công tác phòng ngừa, ứng phó và khắc phục những hậu quả của biến đổi khí hậu, bảo đảm nguồn lợi sinh kế bền vững cho cộng đồng - đặc biệt là nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu thực sự trở thành thách thức đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam trong việc bảo đảm thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững.
Mặt khác, xu hướng già hóa dân số nhanh hơn dự kiến đã và đang đặt ra những thách thức về chi phí liên quan đến chăm sóc sức khỏe người cao tuổi và chính sách an sinh xã hội. Đây là nhóm người yếu thế cần được hỗ trợ đặc biệt về các chính sách an sinh xã hội cộng đồng. Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội7, từ năm 2009, Việt Nam đã bước vào thời kỳ già hóa (tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 10% tổng số dân số), dự kiến đến năm 2050, tỷ lệ người già ở Việt Nam chiến trên 20% dân số). Điều này dẫn tới tình trạng nhóm người yếu thế là người cao tuổi, không có khả năng lao động ngày càng gia tăng, gây nên những sức ép không nhỏ đối với công tác bảo đảm an sinh xã hội cho nhóm chủ thể này trước những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, hệ thống an sinh xã hội nhằm bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương còn nhiều hạn chế
Có thể thấy, mặc dù được coi như một sự ưu việt của chế độ Xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên, hệ thống an sinh xã hội nói chung ở Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập; từ đó càng khiến các chủ thể thuộc nhóm yếu thế bị giới hạn về kinh tế, trình độ dân trí và năng lực chuyên môn khó có cơ hội được tiếp cận đầy đủ. Cụ thể, mức độ bao phủ, mức độ trợ cấp còn thấp và chưa được điều chỉnh kịp thời, nhất là khi giá cả biến động, lạm phát tăng cao. Đồng thời, nỗ lực tạo việc làm và đảm bảo việc làm đầy đủ, bền vững cho các nhóm lao động yếu thế còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Mức trợ giúp xã hội đột xuất mới chỉ bù đắp được khoảng 10% thiệt hại của hộ gia đình, hệ thống dịch vụ xã hội còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng và có xu hướng loại trừ đối với một số nhóm yếu thế, cản trở trực tiếp đến quyền được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của họ. Cùng với đó, tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội còn thấp, đa số người già đang sống dựa vào nguồn tích lũy, vào các thành viên khác trong gia đình và trợ cấp hàng tháng của Nhà nước. Bởi vậy, khi biến đổi khí hậu gia tăng, sự phụ thuộc của họ vào các chính sách hỗ trợ của Nhà nước càng lớn. Điều này không chỉ là gánh nặng cho ngân sách nhà nước mà còn là rào cản đối với chính các chủ thể thuộc nhóm yếu thế trong việc được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
3. Một số giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm quyền của nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, xây dựng chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay
Như đã khẳng định, an sinh xã hội là một trong những ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, để bảo đảm xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, Đảng và Nhà nước cần tiến tới xây dựng, ban hành và tổ chức thực thi có hiệu quả hệ thống chính sách, pháp luật về an sinh xã hội đối với nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay. Tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản là vấn đề đặc biệt quan trọng trong chính sách an sinh xã hội nhằm hướng đến mục tiêu công bằng xã hội, bảo đảm quyền của nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Đồng thời, cần kiên quyết và nhanh chóng loại bỏ những rào cản liên quan đến các thủ tục hành chính để các nhóm yếu thế như người di cư, người nghèo, người nhận trợ giúp xã hội có thể dễ dàng tiếp cận các dịch vụ cơ bản một cách công bằng, hiệu quả. Tuy nhiên, trong điều kiện là một quốc gia đang phát triển, cần thiết phải cân nhắc và quyết định sáng suốt về mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và yêu cầu về bảo đảm an sinh xã hội cho cộng đồng – trong đó có nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương. Việc bảo đảm an sinh xã hội đối với nhóm chủ thể này sẽ góp phần khắc phục triệt để những tàn dư của chế độ phân phối theo kiểu bao cấp, bình quân, cào bằng như sai lầm của thời kỳ trước đổi mới. Tuy nhiên, cũng không thể dồn phần lớn của cải làm ra để thực hiện an sinh xã hội dành cho nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương vượt quá khả năng mà các nguồn lực vật chất và nguồn lực con người của đất nước có thể cho phép. Do đó, cần cân nhắc và lựa chọn, quyết định giữa mục tiêu phát triển kinh tế xã hội với các chính sách về bảo đảm an sinh xã hội đối với nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương một cách thận trọng, sáng suốt để những yêu cầu này không trở thành rào cản, mà là động lực để xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, chú trọng công tác đào tạo, trang bị kiến thức, kĩ năng thích ứng và giảm nhẹ hậu quả biến đổi khí hậu đối với nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương
Bởi những hạn chế trong việc tiếp cận đến các dịch vụ an sinh xã hội cơ bản, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách, biện pháp về bảo đảm quyền con người, quyền công dân đối với nhóm chủ thể này. Tuy nhiên, nếu không thực hiện các chính sách về trợ cấp xã hội, hỗ trợ phòng ngừa và ứng phó rủi ro do biến đổi khí hậu gây ra một cách thích đáng; trong nhiều trường hợp sẽ gây ra tâm lí ỷ lại, trông chờ vào sự trợ giúp từ Đảng, Nhà nước và xã hội của nhóm chủ thể này. Do đó, cần thiết phải xây dựng các phương án cụ thể nhằm trang bị các kiến thức và kĩ năng cơ bản về thích ứng và giảm nhẹ với biến đổi khí hậu cho nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương để họ có khả năng chủ động và thích ứng kịp thời, linh hoạt với những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Cụ thể, chính quyền địa phương trên địa bàn cả nước cần định hướng và hỗ trợ người dân – trong đó bao gồm chủ thể thuộc nhóm người yếu thế trong việc phát triển và đa dạng hóa sinh kế thông qua các hoạt động như chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, thay đổi phạm vi và quy mô sản xuất, ứng dụng chuyển giao kỹ thuật công nghệ,… nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu; trong đó trọng tâm phát triển các mô hình sinh kế cộng đồng theo hướng các bon thấp như: phục hồi, chăm sóc và bảo vệ rừng; nông nghiệp xanh ít phát thải; liên kết trồng trọt, chăn nuôi, du lịch sinh thái; làng thông minh với khí hậu; làng sinh thái thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng; cộng đồng làng xã các-bon thấp; sản xuất tích hợp theo hướng sinh thái khép kín cho các làng nghề…Bên cạnh đó, cần chú trọng công tác truyền thông về chăm sóc sức khỏe để chống chịu với các tác động của biến đổi khí hậu như xây dựng, ban hành các hướng dẫn cho cán bộ y tế và người dân về chăm sóc sức khỏe mùa nắng nóng, mùa lạnh, hướng dẫn xử lý nước.
Thứ ba, đầu tư và đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trong ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm giảm nhẹ tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu tới cộng đồng, trong đó bao gồm nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương
Để kịp thời theo dõi, thông báo, từ đó đưa ra các cảnh báo và biện pháp nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, Việt Nam đã xây dựng và đưa vào hoạt động các trạm quan trắc môi trường, hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn đã được quan tâm đầu tư, nâng cấp; các công nghệ dự báo khí tượng thủy văn dần tiếp cận trình độ các nước tiên tiến trong khu vực. Tuy nhiên, để các thông tin được dự báo kịp thời và chính xác hơn, cần thiết phải nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng lực dự báo, quan trắc, giám sát khí hậu, từ đó xây dựng các phương án chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu tới cộng đồng – bao gồm nhóm chủ thể yếu thế, dễ bị tổn thương. Bên cạnh đó, các thành tựu khoa học công nghệ về giống cây trồng, vật nuôi và các quy trình sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, các giải pháp, mô hình tích hợp thích ứng được chuyển giao, áp dụng tại nhiều địa phương cần được nhân rộng trong thời gian tới nhằm tạo nguồn sinh kế ổn định cho cộng đồng nói chung và nhóm người yếu thế nói riêng.
Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế về bảo đảm quyền con người trong ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó bao gồm nhóm chủ thể yếu thế, dễ bị tổn thương
Việt Nam đã và đang là quốc gia tham gia tích cực và chủ động trong nỗ lực bảo đảm quyền con người trong ứng phó với biến đổi khí hậu. Việt Nam đã và đang tích cực thực hiện các nghĩa vụ của quốc gia thành viên đối với Công ước khung của Liên hợp quốc về ứng phó với biến đổi khí hậu năm 1992 (UNFCCC), Nghị định thư Kyoto năm 1997, Thỏa thuận Paris năm 2016 và đóng vai trò ngày càng tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn, hội nghị quốc tế về biến đổi khí hậu. Trong giai đoạn 2011 - 2020, Việt Nam đã đệ trình lên Ban thư ký của UNFCCC: Thông báo quốc gia 3; Báo cáo cập nhật 2 năm 1 lần (BUR) gồm 3 báo cáo (BUR1 năm 2014, BUR2 năm 2017 và BUR3 năm 2020); Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định (INDC, năm 2015) và cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC, năm 2020). Cũng trong giai đoạn này, Việt Nam đã huy động được nguồn lực đáng kể cho thích ứng với biến đổi khí hậu, điển hình là Chương trình hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu (SP-RCC) đã huy động được khoảng 1,5 tỷ USD8. Tại Hội nghị COP26 tổ chức tháng 11/2021 tại Anh, Việt Nam đã tham gia Sáng kiến về Liên minh Hành động thích ứng toàn cầu; Tuyên bố Glasgow của các nhà Lãnh đạo về rừng và sử dụng đất.
Việc tiếp tục chủ động và tích cực trong việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu nói chung và bảo đảm quyền con người trước biến đổi khí hậu nói riêng - bao gồm nhóm chủ thể yếu thế, dễ bị tổn thương là minh chứng rõ ràng nhất với cộng đồng quốc tế về nỗ lực của Việt Nam trong việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, thể hiện quyết tâm và lộ trình rõ ràng của Việt Nam trong việc đẩy mạnh chuyển đổi kinh tế, thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm góp phần giải quyết khủng hoảng khí hậu toàn cầu.
Thứ năm, tuyên truyền và nâng cao nhận thức của cộng đồng về bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong điều kiện biến đổi khí hậu tại Việt Nam hiện nay
Dự án Quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng (CBDRM) ở Việt Nam được thực hiện từ năm 2000. Đây là phương pháp quản lý rủi ro do thiên tai gây ra - trong đó bao gồm các hoạt động về ứng phó với biến đổi khí hậu dựa vào sức mạnh và sự liên kết của cộng đồng. Cần nhận thức được rằng, yêu cầu nâng cao nhận thức, thay đổi tư duy, hành động của cộng đồng để cùng chung tay với thế giới trong việc giảm phát thải khí nhà kính, phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu, đồng thời đảm bảo phát triển nền kinh tế bền vững là mục tiêu của các quốc gia trong đó có Việt Nam.
Đối với nhóm chủ thể yếu thế, dễ bị tổn thương trước những tác động của biến đổi khí hậu, do đó hơn hết đây là nhóm chủ thể cần nhận được sự chia sẻ và trợ giúp thích đáng, hiệu quả từ cộng đồng nói chung trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người, quyền công dân. Mô hình trợ giúp xã hội dành cho nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu cần thiết phải dựa vào cộng đồng, huy động sức mạnh của cộng đồng trong việc thực hiện các chính sách về chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng xanh, xây dựng nền kinh tế tuần hoàn, coi rác thải là tài nguyên, tăng cường tái chế, tái sử dụng.
PGS.TS. Lưu Ngọc Tố Tâm
Trưởng Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị khu vực II
Bài viết đang trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 5/2022
---
Tài liệu trích dẫn
(1) UNESCO (2005), Universal Declaration on Bioethics and Human Rights, adopted on 19 October 2005, Article 8.
(2) ILO, Báo cáo Lao động phi chính thức năm 2016, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.3.
(3) Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng (2011), Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.229.
(4) Phạm Văn Tuyết, Phạm Tuấn Anh (2012), “Công tác hỗ trợ nhóm yếu thế ở Việt Nam”, tr.3, http://lib.ussh.vnu.edu.vn/jspui/bistream/123456789/2632/1/21.%20Pham%20Van%20Quyet.pdf.
(5) WHO, Environmental health in emergencies, Vulnerable group.
(6) https://www.congluan.vn/bien-doi-khi-hau-cap-bach-van-de-bao-ve-nhom-de-bi-ton-thuong-post206626.html.
(7) http://www.molisa.gov.vn/Pages/tintuc/chitiet.aspx?tintucID=24324.