Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới với nhiều chiến lược đột phá như: tinh gọn bộ máy, thúc đẩy công nghệ và phát triển kinh tế tư nhân... tạo động lực mạnh mẽ thu hút mọi nguồn nhân lực, trong đó có người khuyết tật tổn thương kép - một chủ thể trong quá trình phát triển. Bài viết tập trung phân tích sự tương thích của pháp luật Việt Nam với quy định của pháp luật quốc tế, chỉ rõ thực trạng bảo đảm quyền của nhóm đối tượng này qua việc phân tích thành tựu và hạn chế trong thực tiễn, từ đó đưa ra một số giải pháp thúc đẩy quyền của nhóm người khuyết tật tổn thương kép ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Phụ nữ khuyết tật thuộc nhóm khuyết tật tổn thương kép. 
Nguồn: daibieunhandan.vn.

1. Quy định của pháp luật quốc tế và Việt Nam về nhóm khuyết tật tổn thương kép

Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật (CRPD) đã đưa ra khái niệm khuyết tật toàn diện trong đó nhấn mạnh đến "những rào cản", "sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn", "bình đẳng". Điều 1 Công ước nêu: "Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác".

Các văn bản pháp lý quốc tế ghi nhận các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi, người dân tộc thiểu số, người di cư... Nhóm khuyết tật tổn thương kép là những người ngoài tình trạng khuyết tật họ còn thuộc nhóm dễ bị tổn thương khác. CRPD ghi nhận quyền của nhóm khuyết tật tổn thương kép là phụ nữ và trẻ em tại Điều 6, 7. Phụ nữ và trẻ em khuyết tật, đặc biệt là trẻ em gái khuyết tật thường dễ bị bạo hành, gây tổn thương hoặc lạm dụng, bị đối xử vô trách nhiệm hoặc bất cẩn, ngược đãi hay bóc lột. "Mặc dù cả nam và nữ khuyết tật đều bị phân biệt đối xử, phụ nữ khuyết tật bị phân biệt gấp đôi do phân biệt đối xử dựa trên giới tính và tình trạng khuyết tật của họ. So với nam giới khuyết tật, phụ nữ khuyết tật thường nghèo hơn, không biết chữ hoặc không có kỹ năng nghề nghiệp, và hầu hết trong số họ đều thất nghiệp. Họ ít được tiếp cận với các dịch vụ phục hồi chức năng, họ không có nhiều khả năng được hỗ trợ từ gia đình hoặc cộng đồng và họ thường phải chịu sự cô lập xã hội lớn hơn do khuyết tật"1. Trẻ em khuyết tật thường không tồn tại chính thức vì không được đăng ký khai sinh; cần được bảo vệ hơn khỏi bạo lực và các mối đe dọa đối với cuộc sống, vì các em dễ bị bạo hành hơn; trẻ em khuyết tật hiếm khi được thông báo về các quyền của mình và do đó không thể tham gia đầy đủ và hiệu quả vào các quyết định liên quan đến các em2.

Ở Việt Nam, từ Hiến pháp năm 2013 đến các bộ luật quan trọng liên quan như Luật Người khuyết tật năm 2010, Luật Người cao tuổi năm 2010, Luật Trẻ em năm 2016... và nhiều các văn bản pháp luật quan trọng khác, quy định về quyền của người khuyết tật trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá. Trong đó có những quy định hướng tới khả năng sống độc lập và là một phần của cộng đồng, bảo vệ họ không bị bóc lột, bạo hành hoặc lạm dụng để họ có thể tham gia hữu hiệu và trọn vẹn vào đời sống xã hội một cách bình đẳng với người không khuyết tật.

Khái niệm về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Người khuyết tật năm 2010: "Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn". Từ góc độ lý luận và cả thực tiễn thực thi cấp giấy xác nhận khuyết tật, cho thấy khái niệm này còn chưa toàn diện, mới chỉ dừng lại ở tiếp cận từ góc độ y tế, chưa tiếp cận dựa trên quyền.

Pháp luật Việt Nam không chỉ có một số quy định riêng về bảo vệ quyền cho phụ nữ khuyết tật, trẻ em khuyết tật, mà còn quy định về quyền của người cao tuổi khuyết tật, người dân tộc thiểu số khuyết tật. Điều này có ý nghĩa định hướng cho các cơ quan, tổ chức hữu quan sẽ có những chính sách cụ thể và thiết thực hơn trong việc đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em, người cao tuổi, người dân tộc thiểu số khuyết tật.

Quy định riêng về quyền của phụ nữ khuyết tật: khoản 6 Điều 14 Luật Người khuyết tật quy định về những hành vi bị nghiêm cấm, trong đó có nghiêm cấm hành vi "cản trở quyền kết hôn, quyền nuôi con của người khuyết tật"; điểm c khoản 2 Điều 44 Luật này quy định về trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng đối với người khuyết tật đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi; khoản 2 Điều 23 Luật này còn quy định trách nhiệm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh: "Ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh cho ... phụ nữ khuyết tật có thai theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh"...

Quy định riêng về quyền của Trẻ em khuyết tật: Luật Trẻ em năm 2016 cũng đã khẳng định quyền của trẻ em khuyết tật tại Điều 35: Trẻ em khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền của trẻ em và quyền của người khuyết tật theo quy định của pháp luật; được hỗ trợ, chăm sóc, giáo dục đặc biệt để phục hồi chức năng, phát triển khả năng tự lực và hòa nhập xã hội. Điều 4 Luật Người khuyết tật năm 2010 khẳng định quyền bình đẳng của trẻ em khuyết tật: có quyền tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội, được tiếp cận các dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch... phù hợp với dạng tật và mức độ tiếp cận. Khoản 3 Điều 5 Luật này quy định: Nhà nước "ưu tiên thực hiện chính sách bảo trợ xã hội và hỗ trợ đối với người khuyết tật là trẻ em". Khoản 3 Điều 44 Luật này quy định trẻ em, người cao tuổi được hưởng mức trợ cấp cao hơn đối tượng khác cùng mức độ khuyết tật. Khoản 2 và 3 Điều 23 luật này quy định trách nhiệm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh là: ưu tiên khám chữa bệnh cho trẻ em khuyết tật; Điều 21 Luật này quy định trẻ khuyết tật được giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chăm sóc sức khỏe; được tham gia chương trình giáo dục đặc biệt; được thực hiện các biện pháp phòng ngừa và can thiệp sớm nhằm nhận ra dấu hiệu sớm nhất của khuyết tật để kịp thời chẩn đoán và điều trị có hiệu quả.

Quy định riêng về quyền của Người cao tuổi khuyết tật: Người khuyết tật có quyền ưu tiên trong khám bệnh, chữa bệnh khoản 2 Điều 23 Luật Người khuyết tật năm 2010: "Ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh cho ... người cao tuổi khuyết tật theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh". Khoản 3 Điều 44 Luật này quy định: "Người khuyết tật là ... người cao tuổi được hưởng mức trợ cấp cao hơn đối tượng khác cùng mức độ khuyết tật". Khoản 4 Điều 3 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 quy định: "ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh đối với trường hợp ... người từ đủ 80 tuổi trở lên". Chế độ ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh đối với người khuyết tật được thực hiện thông qua các hình thức như: miễn, giảm viện phí, hỗ trợ sinh hoạt phí, chi phí đi lại, chi phí điều trị.

Quy định riêng về quyền của người khuyết tật là người dân tộc thiểu số: khoản 1 Điều 2 Quyết định 53/2015/QĐ-TTg quy định về đối tượng được hưởng chính sách nội trú bao gồm: Người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, người khuyết tật. Theo Khoản 1 Điều 3 quyết định này, người dân tộc thiểu số được là người khuyết tật được hưởng học bổng chính sách với mức 100% mức lương cơ sở/tháng.

2. Thực trạng bảo đảm quyền của nhóm khuyết tật tổn thương kép ở Việt Nam

a) Những kết quả đạt được và hạn chế trong bảo đảm quyền của phụ nữ khuyết tật

Phụ nữ khuyết tật được đảm bảo các quyền con người cơ bản theo quy định của pháp luật về quyền của người khuyết tật nói chung. Tuy nhiên, theo Điều tra Quốc gia về người khuyết tật Việt Nam 2016 đã cho thấy khả năng bình đẳng trong gia đình của phụ nữ thấp hơn nam giới là người khuyết tật: "Chủ hộ là nữ thì phụ nữ khuyết tật chiếm 8,38%, so với chủ hộ nữ không khuyết tật là 91,62% trong khi chủ hộ là nam thì nam giới khuyết tật chiếm 19,04% so với chủ hộ nam không khuyết tật là 80,96%"3.

Về quyền sở hữu, có nhiều nghiên cứu về thực trạng tiếp cận quyền đất đai của phụ nữ đã được thực hiện cho thấy đa số nam giới vẫn đang nắm giữ hoặc đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nghiên cứu của UNDP (2013) cho thấy 60% nam giới trong khi chỉ có 20% phụ nữ được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất4. Như vậy, có thể thấy con số này sẽ còn thấp hơn với phụ nữ là người khuyết tật.

Về bạo lực với phụ nữ: Kết quả Điều tra Quốc gia về bạo lực với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 chỉ ra cứ 3 phụ nữ thì có 1 phụ nữ (32%) cho biết từng bị chồng/bạn tình bạo lực thể xác và/hoặc tình dục trong đời và 8,9% trong vòng 12 tháng qua. Tỷ lệ này ở nông thôn cao hơn ở thành thị và tất cả các hình thức bạo lực do chồng/bạn tình gây ra đối với phụ nữ khuyết tật đều cao hơn so với phụ nữ không khuyết tật. Số liệu cho thấy, 33% phụ nữ khuyết tật từng bị bạo lực thể xác do chồng/bạn tình gây ra so với 25,3% ở nhóm phụ nữ không bị khuyết tật5. "Phụ nữ khuyết tật có tỷ lệ bị chồng/bạn tình bạo lực cao hơn những phụ nữ không bị khuyết tật"6. "Tỷ lệ phụ nữ khuyết tật bị xâm hại tình dục khi còn nhỏ (6,4%) cao hơn so với những phụ nữ không bị khuyết tật (4,4%)"7. Đây là những con số cho thấy bạo lực dựa trên cơ sở giới và cơ sở khuyết tật tạo nên tính tổn thương kép rất cao cho phụ nữ khuyết tật.

Về lao động việc làm: Tỷ lệ người khuyết tật tham gia lực lượng lao động năm 2023 là 23,9%, thấp hơn 53,5 điểm phần trăm so với người không khuyết tật (77,4%), chênh lệch này lớn hơn so với năm 2016 (50,4 điểm phần trăm)8 và con số này sẽ thể hiện rõ nét trong vấn đề việc làm của phụ nữ khuyết tật khi mà tỉ lệ phụ nữ thường làm các công việc không được trả lương vẫn còn cao. Vấn đề này sẽ tạo ra nguy cơ loại trừ với phụ nữ khuyết tật khỏi môi trường lao động có thu nhập cao trước bối cảnh công nghệ số ngày càng phát triển, trong khi phụ nữ thiếu nguồn lực tài chính để sở hữu điện thoại và sử dụng Internet cũng như kỹ năng công nghệ thấp.

Về chăm sóc sức khoẻ sinh sản: đã có những chương trình, dự án hỗ trợ tăng cường các biện pháp can thiệp chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục cho người khuyết tật được triển khai. Mặc dù vậy, vẫn còn có thách thức thực hiện chăm sóc sinh sản của phụ nữ khuyết tật: "Nhóm khuyết tật trí tuệ được tiếp cận các thông tin về sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục thường tập trung vào việc sử dụng các biện pháp tránh thai hơn là việc tại sao phải sử dụng các biện pháp này. Chăm sóc sức khỏe cho các bà mẹ mang thai là người khuyết tật còn tồn tại các phân biệt đối xử như chưa được cung cấp các hỗ trợ chuyên biệt như phiên dịch ký hiệu và tài liệu hướng dẫn phù hợp với khuyết tật"9. Tự chủ trong vấn đề tình dục và quyết định việc mang thai và sinh con là những điều quan trọng của phụ nữ theo Công ước quốc tế về chống lại mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Với thực trạng nêu trên, phụ nữ sẽ bị hạn chế thụ hưởng các quyền con người khác như kết hôn và lập gia đình, cũng như lao động và học tập.

b) Những kết quả đạt được và hạn chế trong bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật

Trẻ em luôn là đối tượng được Đảng và Nhà nước quan tâm, chăm lo, đặc biệt là đối với trẻ em khuyết tật. Nhiều chính sách an sinh xã hội được triển khai với trẻ em khuyết tật.

Về giáo dục cho trẻ em khuyết tật: Theo số liệu thống kê của Đề án trợ giúp người khuyết tật Việt Nam giai đoạn 2012 - 2020 khuyến nghị nội dung đưa vào Đề án giai đoạn 2021-2030, "số trẻ khuyết tật được đi học ở Việt Nam đã tăng gấp 10 lần trong 2 thập kỷ qua. Tỷ lệ đi học đúng tuổi cấp tiểu học của trẻ khuyết tật khoảng 88,7%, trung học phổ thông là 33,6%"10. Việc gia tăng số lượng trẻ khuyết tật được đi học, đặc biệt là mô hình giáo dục hòa nhập thể hiện khả năng tiếp cận giáo dục. Một số cơ sở giáo dục được trang bị cơ sở vật chất phù hợp (đường dốc, nhà vệ sinh, sách chữ nổi, v.v..), có giáo viên được đào tạo về giáo dục trẻ khuyết tật. "Quỹ Vì trẻ em khuyết tật Việt Nam phát động chương trình "Tiếp sức đến trường" năm 2025, hướng đến trao 1.200 suất học bổng cho học sinh khuyết tật tại 12 tỉnh, thành trên cả nước"11. Mặc dù vậy, Báo cáo điều tra độc lập về người khuyết tật chỉ ra: "nhiều trẻ em khuyết tật còn chưa được đến trường. Đối với nhóm trẻ khuyết tật trí tuệ và nhóm trẻ thần kinh, tâm thần, mới chỉ có 9% số trẻ em trong vùng được khảo sát tại TP. Đà Nẵng và tỉnh Thừa Thiên Huế đang đi học và có đến 59% số em đã đi học và hiện đang bỏ học12. "Trong số những người khuyết tật đi học, khi phỏng vấn người trưởng thành khuyết tật, phát hiện 53,7% đã từng bỏ học và số lượng người đi học thì có 64,5% gặp khó khăn liên quan đến tình trạng khuyết tật"13; "Việc di chuyển, đi lại và tiếp cận từ nhà đến trường của trẻ gặp nhiều rào cản, đặc biệt đối với nhóm trẻ em khu vực nông thôn và miền núi, do đặc điểm đường làng, lối xóm thường nhỏ, ven ruộng"14.

Khó khăn về hệ thống giáo viên vẫn là một thách thức lớn đối với nhu cầu học tập của học sinh khuyết tật. Hiện cả nước có 4 trường Đại học sư phạm và 3 trường Cao đẳng Sư phạm thành lập khoa Giáo dục đặc biệt và mở các mã ngành đào tạo giáo viên dạy trẻ khuyết tật và hàng năm, các trường này đào tạo được gần 600 giáo viên dạy trẻ khuyết tật. Hàng năm tập huấn giáo dục hòa nhập cho 600 - 700 cán bộ quản lý và từ 2.000 - 2.500 giáo viên mầm non, trung học cơ sở, trung học phổ thông cốt cán của 63 tỉnh/thành phố về nghiệp vụ giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật để những người này tiến hành tập huấn, hướng dẫn cho giáo viên tại các địa phương về giáo dục hòa nhập, tiếp tục phát triển mạng lưới giáo viên dạy trẻ khuyết tật trong cả nước15.

Về chăm sóc y tế cho trẻ em khuyết tật: Tỷ lệ người khuyết tật và người không khuyết tật có bảo hiểm y tế khám chữa bệnh miễn phí chia theo nhóm tuổi năm 2023, tỉ lệ trẻ em khuyết tật trong độ tuổi từ 0-15 có bảo hiểm y tế khám chữa bệnh miễn phí đạt 98%16. Các chương trình sàng lọc và can thiệp sớm được triển khai trên cả nước: "toàn quốc đã xây dựng được 7 trung tâm sàng lọc, trong đó có 5 trung tâm khu vực; đồng thời thiết lập mạng lưới sàng lọc trước sinh và sơ sinh từ Trung ương đến tuyến xã ở 63 tỉnh, thành phố, bước đầu đáp ứng được nhu cầu về sàng lọc, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh"17. Mặc dù có nhiều kết quả tích cực song việc chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em khuyết tật còn nhiều khó khăn: cụ thể như tỉ lệ được chăm sóc sức khoẻ giữa các vùng miền còn có khoảng cách, trẻ em khuyết tật ở vùng sâu vùng xa, miền núi, hải đảo được tiếp cận y tế khó khăn hơn so với trẻ em ở các vùng khác.

c) Những kết quả đạt được và hạn chế trong bảo đảm quyền của người cao tuổi khuyết tật

Pháp luật và chính sách ưu đãi đưa ra những yêu cầu quan trọng trong bảo đảm quyền của người cao tuổi là người khuyết tật. Người cao tuổi khuyết tật được hưởng chính sách ưu đãi về bảo hiểm y tế và chăm sóc sức khoẻ, được miễn giảm các dịch vụ vui chơi giải trí và đi lại công cộng. Tuy nhiên, việc thực thi quyền của người cao tuổi khuyết tật vẫn còn một số khó khăn bất cập.

Về chăm sóc đối với người cao tuổi khuyết tật: Ở Việt Nam hiện nay có 11,70% người cao tuổi (tương đương với khoảng 1,47 triệu người cao tuổi) có ít nhất một khuyết tật về chức năng (nhìn; nghe; đi bộ hoặc bước lên cầu thang; ghi nhớ hoặc tập trung chú ý; và giao tiếp bằng ngôn ngữ thông thường), trong đó lứa tuổi 60-69 chiếm 4,7%, 70-79 chiếm 12,54% và trên 80 chiếm 36,95%. Ở trong mỗi chức năng này, tỷ lệ khuyết tật có sự khác biệt theo nhóm tuổi, giới tính, dân tộc và khu vực sống giống như tự đánh giá sức khỏe ở trên18. Báo cáo này cũng chỉ ra yêu cầu cần được chăm sóc/hỗ trợ trong sinh hoạt hàng ngày của họ với tỉ lệ trong lứa tuổi 60-69 là 1,29%, 70-79 là 3,8% và trên 80 là 16,73%. Bên cạnh đó, việc chăm sóc người cao tuổi phần lớn vẫn do người thân trong gia đình (vợ/chồng, các con và các cháu) thực hiện, trong khi chăm sóc tại cộng đồng hoặc tại cơ sở chăm sóc còn hết sức hạn chế19. Việc thiếu cơ sở chăm sóc người cao tuổi khuyết tật hiện nay sẽ tạo ra áp lực lớn cho gia đình, xã hội khi Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ dân số già vào năm 2036 với khoảng 22 triệu người cao tuổi.

Về an sinh xã hội của người cao tuổi khuyết tật: "Trong năm 2024, hơn 3,3 triệu người cao tuổi đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp hàng tháng; 1,2 triệu người cao tuổi hưởng trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng; gần 1,4 triệu người cao tuổi hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Gần 44 nghìn người đang được nuôi dưỡng, chăm sóc tại các cơ sở trợ giúp xã hội; 95% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế, 32% người cao tuổi được lập hồ sơ quản lý theo dõi sức khỏe ban đầu"20. Đó là những thành tựu quan trọng trong thực hiện bảo đảm quyền an sinh xã hội của người cao tuổi. Tuy nhiên, "hiện nay chỉ khoảng 39% người cao tuổi được hưởng lương hưu hoặc trợ cấp xã hội; 61% còn lại phụ thuộc trực tiếp vào con cái hoặc làm việc tự do"21.

Về tình trạng cô đơn của người cao tuổi khuyết tật: "Trong số những người đang góa vợ/chồng, cho thấy phụ nữ cao tuổi chiếm tới hơn 85,21% ở tất cả các nhóm tuổi. Kết quả này cũng tương tự như trong phân tích của Tổng cục Thống kê (2021). Xét dưới góc độ chăm sóc người cao tuổi đây là thực trạng đáng quan tâm vì việc phải sống một mình do góa vợ/chồng - trong đó phụ nữ chiếm tỷ lệ lớn - khiến cho người cao tuổi nói chung và đặc biệt là phụ nữ nói riêng có thể gặp nhiều vấn đề về sức khỏe thể chất và tinh thần"22 và tỉ lệ này sẽ là một chỉ báo đối với sự cô đơn tăng lên ở người khuyết tật cao tuổi.

d) Những kết quả đạt được và hạn chế trong bảo đảm quyền của người dân tộc thiểu số khuyết tật

Người dân tộc thiểu số luôn được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong mọi chính sách phát triển.

Trong tiếp cận giáo dục: Theo Báo cáo của UNICEF năm 2023, khoảng 65% trẻ em khuyết tật dân tộc thiểu số từ 6-14 tuổi đã được đi học tiểu học, tăng so với khoảng 50% vào năm 2016. Trong giai đoạn 2020 - 2023, Việt Nam đã huy động được hơn 79.000 người học xóa mù chữ. Riêng các tỉnh có đồng bào dân tộc thuộc "Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030" đã huy động được gần 54.000 người xóa mù chữ. Trong đó có hơn 33.000 người theo học lớp mức độ 1 với khoảng 28.000 học viên là người dân tộc thiểu số (86,2%) và hơn 21.600 người theo học lớp mức độ 2 với khoảng 16.000 học viên là người dân tộc thiểu số (74,9%)23. Tuy nhiên, tỷ lệ học sinh khuyết tật và trẻ em dân tộc thiểu số đi học tiểu học thấp hơn các nhóm trẻ khác tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông trên toàn quốc còn thấp (59%), trong đó tỷ lệ ở trẻ em dân tộc thiểu số chỉ có 16%. Và 85% trẻ em trong các hộ gia đình khá giả có kỹ năng tính toán cơ bản, trong đó tỉ lệ này ở các gia đình nghèo chỉ có 55%24.

Bên cạnh đó, vấn đề của phụ nữ dân tộc thiểu số khuyết tật hạn chế trong tiếp cận giáo dục và đào tạo nghề; thiếu cơ hội việc làm và phát triển kinh tế; hạn chế trong tiếp cận dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe; hạn chế tiếp cận thông tin và chính sách là 4 rào cản25 được nhận định ảnh hưởng tới việc thực thi quyền của phụ nữ khuyết tật là người dân tộc thiểu số nói riêng và người khuyết tật nói chung.

Từ phân tích thực trạng nêu trên cho thấy Việt Nam đã có nhiều nỗ lực bảo đảm quyền của người khuyết tật nói chung cũng như người khuyết tật tổn thương kép nói chung. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế bắt nguồn từ những nguyên nhân như: hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, chưa quy định đầy đủ các vấn đề liên quan đến quyền của người khuyết tật; nhận thức và hiểu biết của cộng đồng về người khuyết tật tổn thương kép còn hạn chế; công nghệ, hạ tầng và tài chính và nguồn nhân lực đầu tư cho nhóm khuyết tật vẫn còn thấp và đặc biệt là tình trạng thiếu nguồn dữ liệu để đáp ứng chuyển đổi số, bảo đảm quyền của nhóm người khuyết tật.

3. Một số kiến nghị, đề xuất bảo đảm quyền của nhóm người khuyết tật tổn thương kép

a) Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền của nhóm người khuyết tật tổn thương kép

Cần hoàn thiện khái niệm về người khuyết tật theo hướng thay đổi cách tiếp cận từ góc độ y tế sang tiếp cận dựa trên quyền. Cụ thể là việc xác định tình trạng khuyết tật chưa chia theo 4 hướng thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà chỉ nhìn nhận trên phương diện dạng tật biểu hiện ra bên ngoài và gắn với "lao động, học tập và sinh hoạt". Cần chỉnh sửa khái niệm này theo sát với CRPD, bên cạnh đó, thống nhất và xoá bỏ trong tất cả các văn bản quy phạm pháp luật, biển hiệu, tên cơ quan về việc sử dụng thuật ngữ "người khuyết tật" thay cho "người tàn tật".

Xây dựng Luật Bình đẳng và không phân biệt đối xử: ở nước ta hiện nay chưa có văn bản pháp luật riêng để ghi nhận nguyên tắc nhân phẩm, bình đẳng, tôn trọng và không phân biệt đối xử đối với người khuyết tật và các nhóm xã hội dễ bị tổn thương khác như phụ nữ, người cao tuổi, người khuyết tật, người thuộc nhóm LGBTIQ, người lao động di trú, người dân tộc thiểu số...

b) Xây dựng hệ thống dữ liệu toàn diện về người khuyết tật, trong đó có dữ liệu về nhóm người khuyết tật tổn thương kép

Việc xây dựng một hệ thống dữ liệu toàn diện về là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm quyền con người và quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. Đây không chỉ là vấn đề về quản lý thông tin, dữ liệu của việc xây dựng nền tảng cơ bản phục vụ xây dựng Chính phủ số quốc gia, mà còn là cơ sở quan trọng để hoạch định chính sách, phân bổ nguồn lực, theo dõi tiến trình thực hiện các cam kết quốc tế về quyền của người khuyết tật. Điều 31 của Công ước về quyền của người khuyết tật yêu cầu các quốc gia thu thập dữ liệu thống kê và thông tin nghiên cứu nhằm xây dựng và thực hiện các chính sách phù hợp26. Thống nhất chuẩn đo lường và phân loại khuyết tật theo hướng tiếp cận của WHO và Công ước CRPD; chỉ rõ tiêu chuẩn phân loại và đo lường khuyết tật thống nhất, bổ sung các thông tin chuyên sâu về nhóm người khuyết tật tổn thương kép như phụ nữ khuyết tật, người dân tộc thiểu số khuyết tật, trẻ em khuyết tật, người cao tuổi khuyết tật; bổ sung cơ chế chia sẻ, khai thác dữ liệu hiệu quả giữa các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức xã hội và người dân.

c) Đầu tư nguồn nhân lực có kiến thức và kỹ năng chuyên môn về người khuyết tật

Cần đầu tư đào tạo hệ thống phiên dịch ngôn ngữ chính quy qua việc xây dựng trường, lớp đào tạo chính quy, có mã ngành, mã nghề và được Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp bằng cho phiên dịch ngôn ngữ dành cho người khuyết tật. Họ sẽ là những nhân sự quan trọng, là cầu nối tạo nên sự thuận lợi giữa người khuyết tật với người thực hiện bảo đảm quyền trong quá trình thực thi các quyền con người, như tiếp cận hệ thống tư pháp thủ tục tố tụng; khám bệnh, chữa bệnh; tiếp cận thông tin, truyền thông, giáo dục, lao động. Bên cạnh đó cũng cần đào tạo đội ngũ y bác sĩ và cán bộ cơ sở y tế có chuyên môn về về tuổi, giới tính, dân tộc... Việc đào tạo hệ thống giáo viên để giảng dạy cho học sinh khuyết tật và dạy nghề cho người khuyết tật có phương pháp giảng dạy chuyên sâu về giáo dục hòa nhập cũng là một yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền học tập suốt đời của người khuyết tật, trong đó có nhóm khuyết tật tổn thương kép.

d) Đầu tư nguồn lực công nghệ và đào tạo kỹ năng số cho người khuyết tật

Công nghệ tạo cơ hội cho người khuyết tật có thể học tập và lao động dễ dàng hơn từ môi trường số, không đòi hỏi đi lại hoặc điều kiện tài chính như trong môi trường thực. Trong khi tài chính để sở hữu điện thoại thông minh hay kỹ năng sử dụng công nghệ đối với nhóm khuyết tật tổn thương kép cũng là một thách thức không nhỏ. Vì vậy cần có chính sách hỗ trợ từ Nhà nước cho công nghệ và đào tạo kỹ năng số cho người khuyết tật, thúc đẩy cơ hội tiêu dùng, lao động và kinh doanh trên nền tảng số, bắt kịp với sự phát triển của quốc gia thông qua việc hỗ trợ vốn, giảm thuế và đào tạo kỹ năng.

TS. Trần Thị Hồng Hạnh

Viện Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 46 (6/2024)

---

Tài liệu trích dẫn

(1) Arthur O’Reilly, The right to decent work of persons with disabilities, International Labour Office - Geneva, tr.48.

(2) Marianne Schulze (2010), Understanding the UN Convention on the rights of persons with disabilities, Handicap International, tr.66.

(3) Báo cáo Điều tra Quốc gia về người khuyết tật 2016.

(4) "Cần có nhiều biện pháp nhằm đảm bảo quyền sở hữu đất đai của phụ nữ ở Việt Nam", tại trang https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=74310, truy cập ngày 20/5/2025.

(5);(6);(7) "Kết quả Điều tra Quốc gia về bạo lực với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019", tại trang https://vietnam.unfpa.org/sites/default/files/pub-pdf/0._bao_cao_chinh.pdf.

(8) Báo cáo Điều tra về người khuyết tật 2023.

(9) ISEE và UNDP, Xoá bỏ kỳ thị, quan điểm và đánh giá của người khuyết tật, NXB Tri thức, 12/2017.

(10) Báo cáo kết quả thực hiện Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020 (Đề án 1019) của Ủy ban quốc gia về người khuyết tật Việt Nam.

(11) "Ngành Y tế luôn phối hợp tích cực cùng toàn xã hội thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em khuyết tật"; tại trang https://moh.gov.vn/hoat-dong-cua-lanh-dao-bo/-/asset_publisher/TW6LTp1ZtwaN/content/nganh-y-te-luon-phoi-hop-tich-cuc-cung-toan-xa-hoi-thuc-hien-cong-tac-cham-soc-suc-khoe-tre-em-khuyet-tat?inheritRedirect=false&redirect=https%3A%2F%2Fmoh.gov.vn%3A443%2Fhoat-dong-cua-lanh-dao-bo%3Fp_p_id%3D101_INSTANCE_TW6LTp1ZtwaN%26p_p_lifecycle%3D0%26p_p_state%3Dnormal%26p_p_mode%3Dview%26p_p_col_id%3Drow-0-column-2%26p_p_col_count%3D2 , truy cập ngày 15/5/2025.

(12);(13);(14) Liên hiệp Hội về người khuyết tật tại Việt Nam, Báo cáo độc lập về tình hình thực thi Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật tại Việt Nam, bản nộp 20/4/2021 cho Ủy ban LHQ về quyền của Người khuyết tật. Đoạn 26; Đoạn 27; Đoạn 32.

(15) Báo cáo kết quả thực hiện Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020 (Đề án 1019) của Ủy ban quốc gia về người khuyết tật Việt Nam

(16) Báo cáo Điều tra về người khuyết tật 2023

(17)  https://www.cantho.gov.vn/wps/portal/!ut/p/z1/ /

(18);(19) Tổng cục Thống kê, Quỹ Dân số Liên hợp quốc UNFPA, From the People of Japan.

NGƯỜI CAO TUỔI VIỆT NAM: Phân tích từ Điều tra Biến động dân số và Kế hoạch hóa gia đình năm 2021.

(20) "Ngân sách chi 32 nghìn tỷ đồng cho trợ cấp xã hội trong năm 2024", tại trang:

https://vneconomy.vn/ngan-sach-chi-32-nghin-ty-dong-cho-tro-cap-xa-hoi-trong-nam-2024.htm.

(21) https://laodong.vn/cong-doan/khoang-61-nguoi-cao-tuoi-tai-viet-nam-khong-co-luong-huu-va-tro-cap-xa-hoi-1278806.ldo.

(22) Tổng cục Thống kê, Quỹ Dân số Liên hợp quốc UNFPA, From the People of Japan.

(23) "Chương trình MTQG 1719 - bệ đỡ phát triển vùng đồng bào dân tộc thiều số", tại trang https://mst.gov.vn/chuong-trinh-mtqg-1719-be-do-phat-trien-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-197240119172648257.htm.

(24) "Để hy vọng trở thành hành động thiết thực, Những dấu ấn của Unicef tại Việt Nam năm 2024", tại trang https://www.unicef.org/vietnam/vi/media/17551/file/Nhung%20dau%20an%20cua%20UNICEF%20Viet%20Nam%20nam%202024.pdf, truy cập ngày 01/4/2025.

(25) "Không để phụ nữ khuyết tật vùng dân tộc thiểu số và miền núi bị bỏ lại phía sau", tại trang https://www.hoilhpn.org.vn/CmsView-EcoIT-portlet/html/print_cms.jsp?articleId=535301, truy cập ngày 01/4/2025.

(26) Điều 31 Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật quy định:

"1. Quốc gia thành viên cam kết thu thập các thông tin cần thiết, trong đó có dữ liệu thống kê và nghiên cứu, để thuận lợi trong việc xây dựng và thi hành các chính sách nhằm thực hiện Công ước này.

2. Thông tin thu được theo điều này phải được tách lọc nếu cần và dùng để phục vụ đánh giá thi hành nghĩa vụ của quốc gia thành viên theo Công ước này, cũng như để phát hiện và giải quyết những trở ngại mà người khuyết tật phải đối mặt khi thực hiện các quyền của người khuyết tật"".