Bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số để thúc đẩy các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển theo Điều 5 Hiến pháp năm 2013 là vấn đề hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, việc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số hiện nay ở nước ta cũng gặp không ít khó khăn, thách thức, cần được nhận diện một cách toàn diện để từ đó có những giải pháp hữu hiệu trong thời gian tới.

1. Quan niệm và ý nghĩa bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trong điều kiện hội nhập quốc tế
a) Quan niệm về bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số
Khái niệm “dân tộc thiểu số” được dùng phổ biến trong các văn bản chính thức của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Theo đó, dân tộc thiểu số là dân tộc có số dân ít (có thể có hàng trăm, hàng nghìn cho đến hàng triệu) cư trú trong một quốc gia thống nhất có nhiều dân tộc, trong đó có một dân tộc có số dân đông nhất. Như vậy, ở nước ta dân tộc Kinh là dân tộc đa số, 53 dân tộc khác là các dân tộc thiểu số. 
Quyền của các dân tộc thiểu số được hiểu là những quyền đặc thù, chung của một dân tộc - tộc người nhất định, mà để được hưởng thụ các quyền này cần phải là thành viên của tộc người đó. Nhưng không phải tất cả các quyền của các tộc người đều đòi hỏi phải thực hiện bằng cách thức tập thể, mà có thể được thực hiện cả với tư cách cá nhân, như được nói tiếng nói hay mặc trang phục của dân tộc  mình. Quyền của dân tộc thiểu số, trong đó có quyền trợ giúp pháp lý của họ, được hiểu, được thực hiện trên cả 2 phương diện: quyền bình đẳng và quyền ưu tiên như sau:
(i) Quyền bình đẳng với dân tộc đa số, đồng thời, đảm bảo các chính sách nhằm phát triển các dân tộc thiểu số;
(ii) Quyền bình đẳng giữa các dân tộc - tộc người với nhau, đồng thời có chính sách đối với các dân tộc rất ít người, các dân tộc sống trong điều kiện đặc biệt khó khăn; 
(iii) Ngoài quyền bình đẳng như dân tộc đa số, người dân tộc thiểu số còn được Đảng, Nhà nước ưu tiên hỗ trợ bằng các chủ trương, chính sách, pháp luật để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững, không bị bỏ lại phía sau.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, công tác bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số là trách nhiệm trước tiên và cơ bản của Nhà nước; đồng thời các cá nhân, gia đình, cộng đồng và các tổ chức chính trị, xã hội,... đều có nghĩa vụ sử dụng các cách thức, biện pháp để hiện thực hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn về quyền của các dân tộc thiểu số đồng thời ngăn ngừa sự lạm dụng, vi phạm quyền của họ trong thực tế. Việc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số không chỉ giới hạn ở những giá trị quyền con người có tính thường nhật (sinh kế, việc làm, thu nhập, ăn, uống, mặc, nhà ở, chữa bệnh, học tập,...), mà cả các giá trị chung của một cộng đồng người với tư cách là một dân tộc - tộc người bình đẳng trong một quốc gia đa dân tộc, như quyền tham gia chính trị, quyền giữ gìn, phát triển, phát huy bản sắc văn hóa, quyền an ninh và an toàn xã hội,... 
b) Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số 
Một là, thúc đẩy xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội nhằm bảo đảm sự phát triển bao trùm, bền vững theo hướng đa dạng mà thống nhất 
Bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi đói nghèo phải được giải quyết một cách căn bản. Yêu cầu tất yếu đó cho thấy, bảo đảm quyền kinh tế cho mọi người, quyền bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế, đòi hỏi chương trình giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới phải được kết nối để cơ bản hướng mạnh vào giảm sự phân cách giàu nghèo giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc đa số.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là một xã hội người khá giả và giàu có với số lượng ngày càng đông trong khi số lượng người nghèo ngày càng giảm. Để thực hiện được yêu cầu bắt buộc này, vấn đề quan trọng hiện nay là Nhà nước phải giữ vững vai trò điều tiết vĩ mô bằng các công cụ thích hợp, ví dụ chính sách thuế và hỗ trợ về đầu tư phát triển,... thực hiện việc điều tiết, phân phối lợi ích và bảo đảm phúc lợi xã hội, chú trọng đến các vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời có chiến lược đẩy nhanh phát triển kinh tế các vùng này tiệm cận dần các vùng đồng bằng,…
Hai là, thúc đẩy bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết là quyền bình đẳng về chính trị, chống mọi biểu hiện chia rẽ, kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti dân tộc,…; về kinh tế là bảo đảm sự bình đẳng trong quan hệ lợi ích kinh tế giữa các dân tộc; về văn hóa là bảo đảm sự bình đẳng trong bảo tồn, phát triển, phát huy bản sắc, truyền thống văn hóa; v.v..  Việc thực hiện quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số là trách nhiệm chung của tất cả mọi người, của tất cả các cơ quan nhà nước và các tổ chức thuộc hệ thống chính trị - xã hội các cấp, chứ không chỉ là trách nhiệm riêng của cơ quan nhà nước tại vùng có đông các dân tộc thiểu số sinh sống hay của bản thân đồng bào. Trong đó trọng tâm là:
- Trong quản lý nhà nước, quyền bình đẳng giữa các dân tộc được bảo đảm trước hết trong công tác lãnh đạo và sử dụng cán bộ. Nhà nước có chính sách ưu tiên con em các dân tộc ít người, giúp đỡ về mặt vật chất, động viên về mặt tinh thần để họ tích cực học tập nâng cao trình độ về mọi mặt. Nhà nước dành tỷ lệ nhất định số cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số trong biên chế của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là cơ quan nhà nước đóng trên địa bàn miền núi, biên giới, hải đảo, nơi có nhiều đồng bào dân tộc ít người sinh sống; đồng thời có những chính sách khuyến khích người có năng lực đến phục vụ tại những khu vực này. Chính sách ưu tiên trong công tác cán bộ dân tộc thiểu số thể hiện ở việc quy định chế độ đãi ngộ về vật chất, tinh thần đối với những người làm việc tại các khu vực này, để tạo điều kiện thuận lợi cho họ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, góp phần thúc đẩy bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số.
- Trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, Nhà nước luôn quan tâm đưa ra những chính sách, giải pháp ưu tiên phù hợp để tạo điều kiện phát triển mọi mặt của đồng bào dân tộc thiểu số, như: chú ý thực hiện đầu tư xây dựng các công trình quan trọng về kinh tế, quốc phòng, an ninh ở vùng các dân tộc thiểu số, để một mặt, khai thác tiềm năng kinh tế, mặt khác, xoá bỏ từng bước sự chênh lệch giữa các vùng trong đất nước, thúc đẩy nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số. Nhà nước có những chính sách hỗ trợ đối với những người tham gia xây dựng vùng kinh tế mới, có kế hoạch và thường xuyên tổ chức điều động và phân bổ lao động tới các vùng này.
Ba là, thúc đẩy bảo đảm giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc để cùng phát triển.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Tôn trọng, bảo vệ và thực hiện sự đa dạng mà thống nhất của quyền văn hóa các dân tộc - tộc người. Bởi lẽ, sẽ không thể thống nhất vững chắc và lành mạnh nền văn hóa dân tộc - quốc gia nếu dựa trên cơ sở đơn nhất hóa văn hóa. Nếu coi sự thống nhất văn hóa từ sự đa dạng văn hóa và thông qua sự đa dạng văn hóa, thì muốn củng cố sự thống nhất ấy, phải bảo tồn, phát triển và phát huy trong thực tế sự đa dạng bản sắc văn hóa, đặc biệt sự đa dạng của bản sắc văn hóa tộc người và văn hóa địa phương (văn hóa vùng miền).

Quyền tiếp cận giáo dục là một trong số các quyền cần được bảo đảm
đối với trẻ em dân tộc thiểu số. Nguồn: cema.gov.vn.


2. Một số khó khăn, thách thức trong việc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số
Thứ nhất, về quyền sống, quyền có việc làm và bảo đảm các điều kiện tối thiểu.
Đồng bào các dân tộc thiểu số phần lớn sống tại vùng núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, với kết cấu hạ tầng còn yếu kém, sản xuất chưa phát triển nên khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản. Các điều kiện về bảo đảm lương thực, nhu cầu mặc và chỗ ở an toàn vẫn còn là thách thức đối với một số vùng, nhóm dân cư sinh sống tại các khu vực có môi trường tự nhiên không thuận lợi. Chất lượng giáo dục, nguồn nhân lực hạn chế và có khoảng cách khá xa so với mặt bằng chung của xã hội; lao động trong độ tuổi qua đào tạo thấp; vẫn còn tình trạng một bộ phận dân cư mù chữ hoặc tái mù chữ, cộng với trình độ văn hóa thấp đã hạn chế khả năng tiếp cận và thụ hưởng các thành quả phát triển gắn với tiêu chí về các quyền cơ bản. 
Vì thế, khả năng tự bảo vệ các quyền cơ bản, quyền công dân của cá nhân được pháp luật thừa nhận cũng hạn chế. Hệ thống chính trị cơ sở và năng lực đội ngũ cán bộ còn yếu kém; nhiều vấn đề bức xúc chậm được giải quyết,... tạo kẽ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng, kích động gây chia rẽ trong một số dân tộc thiểu số . 
Thứ hai, về quyền tiếp cận các dịch vụ giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe.
- Về quyền tiếp cận dịch vụ giáo dục: mặt bằng giáo dục, trình độ dân trí của đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn còn có khoảng cách đáng kể với người Kinh. Chất lượng nguồn nhân lực đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số thiếu và một bộ phận yếu về trình độ chuyên môn. Theo đánh giá của Ủy ban Dân tộc và Bộ Giáo dục và Đào tạo tại diễn đàn thường niên về phát triển dân tộc thiểu số, chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng miền, giữa các dân tộc còn cao và có nguy cơ ngày càng rộng ra. Công tác quản lý giáo dục dân tộc chưa theo kịp thực tiễn phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi; công tác chỉ đạo còn thiếu linh hoạt và mang nặng thủ tục hành chính; công tác tham mưu ban hành một số chính sách cụ thể chưa phù hợp với tình hình thực tế. Tại các trường chuyên biệt vùng DTTS vẫn còn thiếu nhiều phòng học, thiếu nhà ở bán trú, bếp ăn, công trình vệ sinh và các điều kiện sinh hoạt, học tập khác. Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý còn thiếu về số lượng, năng lực một bộ phận giáo viên còn có đời sống còn khó khăn nên chưa yên tâm công tác.
- Về quyền tiếp cận y tế và chăm sóc sức khỏe: do điều kiện phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều giữa các vùng, miền nên đang gia tăng sự bất bình đẳng trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội; trong đó có dịch vụ chăm sóc sức khỏe mà đồng bào dân tộc thiểu số có nhu cầu rất lớn. Công tác phòng chống dịch bệnh chưa đáp ứng yêu cầu, bởi nhận thức của đồng bào còn hạn chế, phong tục, tập quán lạc hậu. Do thiếu thông tin về chính sách bảo hiểm y tế nên tần suất khám chữa bệnh bảo hiểm y tế của đồng bào thấp; kết dư quỹ bảo hiểm y tế lớn trong khi người dân lại chưa được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ kỹ thuật trong chăm sóc sức khỏe cơ bản. Tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống ở một số dân tộc còn diễn ra, đòi phải có giải pháp can thiệp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng dân số ở khu vực dân tộc ít người (dưới 1 vạn người),1 đặc biệt rất ít người (dưới 1.000 người).
Thứ ba, về quyền tham gia chính trị, tham gia quản lý nhà nước, xã hội và tiếp cận thông tin.
- Về quyền tham gia chính trị, tham gia quản lý nhà nước và xã hội: Hiện tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị các cấp còn rất thấp so với người Kinh tại đa số các tỉnh. Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê và Ủy ban Dân tộc, tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số trong ủy ban nhân dân tỉnh, huyện mới đạt khoảng 11,32%. Năng lực, trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ thôn, bản, phum, sóc ở mức thấp. Nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số có trình độ đại học và trên đại học mới đạt 2,8%; riêng người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 1,1%, thấp hơn 4 lần so với toàn quốc2. Theo thống kê của nhiệm kỳ 2016-2020, chỉ có 6,94% số cán bộ công chức người DTTS đảm đương các chức vụ từ cấp huyện trở lên; trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, số Ủy viên Trung ương chính thức và dự khuyết người DTTS chỉ chiếm 10%; trong Quốc hội khóa XIV có 86 đại biểu của 32 nhóm DTTS3.
- Về quyền tiếp cận thông tin: đối với chương trình cấp phát báo miễn phí, nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, chính sách phát miễn phí báo, tạp chí, tờ gấp pháp luật hiện không mang tính thiết thực và lãng phí. Nguyên nhân là đa số người dân tộc thiểu số trong độ tuổi lao động, trung niên và người già không đọc được chữ, kể cả chữ của dân tộc mình. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện chính sách này, việc kiểm tra, rà soát, điều chỉnh số lượng, địa chỉ các đối tượng thuộc vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo được cấp ấn phẩm báo, tạp chí còn chậm. Công tác kiểm tra việc vận chuyển, phát hành các ấn phẩm báo, tạp chí tại các địa phương chưa thường xuyên và chặt chẽ, nên còn tồn đọng báo, tạp chí tại không ít thôn, bản. Các chương trình tiếng dân tộc còn thiếu tính chuyên biệt; kết cấu các chương trình phát thanh tiếng dân tộc nhìn chung còn đơn điệu; một chương trình chỉ có thời lượng 30-45 phút và mỗi ngày chỉ có 1 chương trình nên kết cấu của 12 chương trình của 12 tiếng dân tộc trên VOV tương đối giống nhau, ít cải biến từ nhiều năm nay4.
Thứ tư, về quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, ngôn ngữ truyền thống.
Đồng bào các dân tộc thiểu số hiện nay đang gặp không ít khó khăn trong thực hiện quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII chỉ ra: “Chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền còn lớn; đời sống văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn”5. Bản sắc và giá trị văn hóa cốt lõi tốt đẹp của các dân tộc thiểu số chưa làm được nhịp cầu vững chắc, kết nối gắn bó chặt chẽ giữa các dân tộc; ở nhiều vùng, văn hóa chưa thể hiện vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển. Ảnh hưởng của văn hóa người Kinh và tệ nạn xã hội gia tăng trong vùng dân tộc thiểu số. Xu hướng biến đổi văn hóa theo văn hóa của dân tộc Kinh và một số dân tộc có dân số đông đang diễn ra mạnh mẽ. Hậu quả là văn hóa truyền thống của một số dân tộc thiểu số bị mai một, mất dần bản sắc, ngôn ngữ,6... Đồng thời với quá trình đó, lại du nhập các tệ nạn xã hội mới như: tiêm chính ma túy, mại dâm, lây nhiễm HIV tăng nhanh; tội phạm trộm cắp, cướp giật, đánh bạc, buôn bán phụ nữ, trẻ em,... diễn biến phức tạp. Từ đó làm biến động phong tục, tập quán, đạo đức, lối sống và đang tác động tiêu cực đến đời sống xã hội vùng dân tộc thiểu số cũng như quyền của người dân tộc thiểu số.
3. Một số phương hướng thúc đẩy bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số
Để bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong thời gian tới, cần tập trung một số phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, hoàn thiện thể chế về dân tộc thiểu số.
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật về dân tộc thiểu số khá phong phú, từng bước tạo cơ sở pháp lý ngày càng đầy đủ cho việc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về dân tộc thiểu số, theo đó cần có các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao, ở cấp độ luật, để điều chỉnh một cách toàn diện đối với đối tượng đặc thù này.
Hai là, xây dựng chiến lược lồng ghép, tích hợp quyền của các dân tộc thiểu số.
Quyền của các dân tộc thiểu số phải được lồng ghép vào hoạt động của các cơ quan công quyền, các tổ chức xã hội, giáo dục, báo chí, truyền thông và các chiến lược, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt ở vùng có đông đồng bảo dân tộc thiểu số sinh sống. Tiêu chí này nhằm đáp ứng mục đích: phát triển, quản lý xã hội phải phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số như đã được quy định tại Điều 2, Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965.
Ba là, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu về bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số.
Các cơ quan có thẩm quyền trong nước cần tạo cơ hội và điều kiện cho các hoạt động nghiên cứu này (và những nghiên cứu khác có liên quan) để thúc đẩy nâng cao và phổ biến sâu rộng hơn hiểu biết về bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trong xã hội.
Bốn là, xây dựng hệ thống thông tin toàn diện về các dân tộc thiểu số.
Một mặt, không thể xây dựng luật pháp, chính sách có chất lượng, phù hợp nếu không có cơ chế, biện pháp thu thập dữ liệu, thông tin trung thực, khách quan và tình hình mọi mặt của các dân tộc thiểu số. Mặt khác, kết quả bảo đảm thực tế các quyền cũng phải được phản ảnh qua hệ thống thông tin như vậy. Hệ thống này nó thường bao gồm các đánh giá của các nhóm dân tộc thiểu số, đánh giá của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức quốc tế.
Năm là, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các dân tộc thiểu số.
Để quyền của các dân tộc thiểu số được bảo đảm thì việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số là phương hướng quan trọng. Nhà nước và các địa phương cần tập trung mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, đem lại cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc cho đồng bào.

Th.S Nguyễn Thị Hồng Thắng

Giảng viên Trường Đại học Y Hà Nội

Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 5/2022

-----

Tài liệu trích dẫn
(1) Rà soát các chính sách y tế chăm sóc sức khỏe cho đồng bào vùng miền núi, dân tộc, http://tapchidantoc.ubdt.gov.vn/2013-03-12/6989c0004edba46daab7ebaddb9ab336-cema.htm, ngày 11/4/2013.
(2) Hà Thị Khiết (2018), Tăng cường công tác phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số - cơ sở quan trọng để thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc, Tạp chí cộng sản số 10/2018.
(3) Chính phủ, Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và MN, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn giai đoạn 2021 - 2030, tr.22
(4) Bình Minh (2017), Hệ thống phát thanh tiếng dân tộc còn nhiều hạn chế, bất cập, https://infonet.vn/he-thong-phat-thanh-tieng-dan-toc-con-nhieu-han-che-bat-cap-post237302.info, ngày 9/9/2017.