Các chính sách pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực tư pháp luôn đặc biệt chú trọng đến vấn đề quyền con người, hướng tới sự cân bằng giữa việc bảo vệ quyền con người và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật trong tố tụng hình sự. Trong khuôn khổ bài viết này, nhóm tác giả sẽ phân tích, đánh giá thực tiễn bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, từ đó kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong quá trình này.
1. Thực tiễn bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự
Theo Nghị quyết số 27-NQ/TW về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, một trong những quan điểm lãnh đạo xuyên suốt của Đảng ta là “lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển của đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”. Do đó, bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là một trong những mục tiêu quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.[1]
Tại Điều 8 đến Điều 16 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 ghi nhận nhiều nguyên tắc nhằm bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự như nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân... Cũng theo quy định tại Điều 60 và Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, các quyền của bị can, bị cáo được liệt kê khá cụ thể, bảo đảm hạn chế vi phạm quyền con người trong quá trình tố tụng hình sự, bao gồm các quyền cơ bản như: quyền được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; quyền được trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa; quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định... Nhìn chung, Việt Nam ghi nhận khá đầy đủ các quyền con người trong quá trình tố tụng hình sự làm cơ sở bảo đảm thực thi, bảo vệ quyền con người của các cá nhân, đặc biệt là các bị can, bị cáo. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn một số vướng mắc trong quá trình thực thi và áp dụng các quy định này, ví dụ quyền bào chữa; hay hạn chế trong xác định căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam vẫn còn tồn tại gây hậu quả nghiêm trọng về sức khoẻ và tinh thần cho các cá nhân liên quan. Cụ thể:
Thứ nhất, quyền bào chữa trong tố tụng hình sự
Quyền bào chữa lần đầu tiên trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1989. Về nội dung, so với Hiến pháp năm 1980 thì quyền bào chữa trong Bộ luật Tố tụng hình sự thời điểm này đã được áp dụng cả với bị can kể từ khi có quyết định khởi tố bị can, chứ không chỉ dừng ở việc bảo đảm quyền bào chữa trong phiên tòa xét xử. Tiếp theo đó, quyền bào chữa không ngừng mở rộng phạm vi áp dụng, đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định quyền bào chữa của cả người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. [2] Điều này nhằm bảo đảm mục tiêu những cá nhân là người tình nghi thực hiện tội phạm nên cần thiết phải có quyền bào chữa để bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của họ, góp phần bảo đảm quyền con người trong quá trình tố tụng hình sự.
Đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được nghiên cứu, khắc phục được những bất cập trong quy định trước đây. Theo quy định hiện hành, những đối tượng có quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa gồm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt; người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ; bị can; bị cáo. Tuy nhiên, quy định này vẫn tồn tại một số hạn chế trong việc thực hiện quyền bào chữa.
i) Việc quy định các quyền của người bị buộc tội, nhất là bị cáo còn chưa đầy đủ để bảo đảm cho họ thực hiện tốt nhất quyền tự bào chữa của mình như quyền được chủ động gặp người bào chữa, quyền được tư vấn pháp luật, quyền được đọc, ghi chép và yêu cầu sao chụp bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa; quyền được ghi chép, sử dụng các tài liệu theo quy định pháp luật tại phiên tòa của bị cáo; quyền được biết các kết quả của hoạt động điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự… Ngoài ra, việc người bị tạm giữ, bị can không được thực hiện, thực hiện không kịp thời, không đầy đủ quyền bào chữa và còn nhiều hạn chế trong bảo đảm cho Luật sư thực hiện quyền bào chữa. Hiện nay, vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất trong giới luật sư là vấn đề cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho Luật sư.[3]
ii) Khoản 3 Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật thì người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành thu thập. Tuy nhiên, đây là quy định mở và hầu như khó áp dụng trong thực tế, vì nó phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể tham gia tố tụng. Thiết nghĩ, cần quy định rõ hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan đó đối với yêu cầu thu thập chứng cứ, tài liệu của người bào chữa, để bảo đảm quyền bào chữa được phát huy đúng tác dụng bảo đảm quyền con người của nó.
iii) Tại điểm đ khoản 1 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bào chữa được xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng có liên quan đến người mà mình bào chữa. Từ nội hàm của quy định này, có thể hiểu nếu người bào chữa không tham gia hoạt động tố tụng thì không được xem biên bản của hoạt động đó, trong khi tòa án vẫn được xét xử khi người bào chữa vắng mặt. Vì vậy, trong trường hợp người bào chữa vắng mặt theo quy định thì người bào chữa không được xem biên bản là một sự bất hợp lý.[4]
Thứ hai, hạn chế trong xác định căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Trong 7 năm, từ năm 2015 đến năm 2022, số lượng người bị tạm giữ sau đó cơ quan bắt giữ trả tự do chiếm một tỷ lệ đáng quan tâm trên tổng số người bị tạm giữ. Năm 2015, tỷ lệ này là 1,5%, năm 2016 là 2,8%, năm 2017 là 2,3%, năm 2018 là 1,9%, năm 2019 là 1,6%, năm 2020 là 1,7%, năm 2021 là 1,1%[5] . Đối với biện pháp ngăn chặn tạm giam, số bị can bị tạm giam sau đó được trả tự do khi có quyết định đình chỉ từ năm 2015 - 2021 trung bình là hơn 200 trường hợp[6]. Điều này cho thấy, cơ quan tiến hành tố tụng xác định căn cứ tạm giữ, tạm giam không chính xác, đôi khi lạm dụng biện pháp ngăn chặn trên, gây ảnh hưởng đến quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện của bị can, bị cáo. Ngoài ra, tình trạng quá hạn tạm giữ, tạm giam còn tiếp diễn. Số bị can, bị cáo quá hạn tạm giam cụ thể năm 2015 là 445; năm 2016 là 373; năm 2017 là 339; năm 2018 là 138; năm 2019 là 50; năm 2020 là 44; năm 2021 là 73[7]. Điều này xuất phát từ nhiều bất cập, một trong số đến từ việc khuôn khổ quy định chưa hoàn thiện.
Về nguyên tắc, biện pháp tạm giam chỉ được áp dụng khi đây là biện pháp cuối cùng nhằm bảo đảm các quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự. Trước khi áp dụng tạm giam, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần kiểm tra các biện pháp ngăn chặn khác trước khi áp dụng tam giam. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp thay thế tạm giam hiện nay còn nhiều quan điểm. Quan điểm 1: áp dụng tam giam trước, sau đó áp dụng các biện pháp thay thế như: bảo lãnh, đặt tiền. Quan điểm 2: trước khi áp dung biện pháp tạm giam, các cơ quan cần xem xét các biện pháp khác, nếu xét thấy không cần phải tạm giam thì có thể áp dụng: cấm đi khởi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền để bảo đảm. Theo đó, quan điểm thứ hai phù hợp hơn hết, vì quan điểm này góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp và trong tố tụng hình sự. Do cho đến nay chưa có hướng dẫn cụ thể nên trong thời gian tới cần có văn bản hướng dẫn để áp dụng thống nhất nội dung này. Ngoài ra, tại Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định biện pháp ngăn chặn “bắt bị can, bị cáo để tạm giam”; như vậy sẽ dẫn đến cách hiểu “Bắt người là một biện pháp để thực hiện tạm giam”. Đây là cách hiểu không đúng; bởi lẽ, nếu xem“bắt bị can, bị cáo để tạm giam” là một biện pháp để thực hiện lệnh tạm giam thì việc ngăn chặn bị can, bị cáo thực hiện lệnh tạm giam dựa trên căn cứ pháp lý nào. Bên cạnh đó, đối chiếu với quy định bắt người trong các trường hợp (bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang…) thì Điều 113 chưa quy định cụ thể các căn cứ áp dụng đối với biện pháp này. Đây cũng là một trong các biện pháp ngăn chặn, do đó cũng phải bảo đảm đầy đủ năm yếu tố: căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định, trình tự, thủ tục và thời hạn tiến hành. Nếu chúng ta bỏ ngỏ vấn đề này hoặc quy định không cụ thể và không rõ ràng thì trong thực tế quyền con người, quyền tự do công dân sẽ rất dễ bị xâm phạm khi áp dụng. Nguyên nhân là do sự suy diễn hoặc tùy tiện áp dụng của các cơ quan tiến hành tố tụng. Mặc khác, vì đây là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc nhất trong tố tụng hình sự, tước bỏ quyền tự do của con người, công dân, nên pháp luật phải bảo đảm được tính chặt chẽ và thống nhất nội dung khi đưa ra áp dụng trong thực tế.[8]
Thứ ba, tình trạng oan, sai vẫn còn tồn tại
Theo Bộ trưởng Lê Thành Long, về giải quyết các vụ, việc yêu cầu bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, năm 2021, các cơ quan giải quyết bồi thường trên cả nước đã thụ lý 106 vụ việc, đã giải quyết xong 17 vụ việc, đình chỉ 7 vụ việc, đạt tỉ lệ 22,64%. Tổng số tiền Nhà nước phải bồi thường là hơn 5,9 tỉ đồng. Còn 82 vụ việc đang giải quyết. Năm 2022, cả nước thụ lý 103 vụ việc, trong đó thụ lý mới 26 vụ việc, từ kỳ trước chuyển sang 77 vụ việc. 41 vụ việc đã có văn bản giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật (đạt tỉ lệ 40%), đình chỉ 10 vụ việc (đạt tỉ lệ 10%). Tổng số tiền Nhà nước phải bồi thường là hơn 26 tỉ đồng, đã chi trả hơn 14,4 tỉ đồng. 52 vụ việc đang tiếp tục giải quyết (chiếm tỉ lệ 50%).[9]
Hiện nay, các cơ quan điều tra và cơ quan tư pháp tại Việt Nam đã và đang không ngừng nỗ lực trong công tác phòng chống đấu tranh với tội phạm trên cơ sở đúng người đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và hạn chế tình trạng oan sai. Tuy nhiên, vấn đề oan sai vẫn diễn ra, dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng, đặt ra nhiều trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến oan sai, trong đó do quy định pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự có những vấn đề còn bất cập so với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời, công tác hướng dẫn, giải thích luật thực hiện chưa thường xuyên và đồng bộ dẫn đến việc áp dụng pháp luật thiếu thống nhất. Mặc dù hệ thống pháp luật hình sự và tố tụng hình sự ngày càng hoàn thiện nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề như thiếu các hướng dẫn cụ thể về các tình tiết định tính như “hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng; số lượng lớn, rất lớn, đặc biệt lớn; quy mô thương mại, động vật được ưu tiên bảo vệ”... Việc phân biệt giữa tội phạm với hành vi vi phạm pháp luật còn nhiều phức tạp, đặc biệt là những tội phạm về kinh tế, môi trường... Nhiều thủ tục tố tụng còn rườm rà, phức tạp, thời hạn tố tụng chưa hợp lý, căn cứ bắt, tạm giữ, tạm giam chưa chặt chẽ... gây khó khăn cho các cơ quan tố tụng hình sự trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.[10] Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền của cá nhân chịu oan sai cả về vật chất tinh thần, mà còn nhiều hậu quả nghiêm trọng khác, đặt ra một trách nhiệm bồi thường, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan tư pháp, của nhà nước và ngân sách của quốc gia.
Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên xét xử vụ án hình sự. Nguồn: baothainguyen.vn
2. Kiến nghị hoàn thiện việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự
Mặc dù tinh thần của pháp luật tố tụng hình sự là phải xử lý công minh, không làm oan người vô tội nhưng ở vị thế độc quyền chân lý nên sự chủ quan từ phía các cơ quan chức năng là khó tránh khỏi[11]. Do đó, nhóm tác giả đưa ra một số kiến nghị để tháo gỡ những vướng mắc về quyền con người trong tố tụng hình sự, góp phần xây dựng hệ thống pháp luật tố tụng hình sự theo đúng nhiệm vụ đã đề ra là xử lý công bằng, minh bạch, kịp thời nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, như sau:
Thứ nhất, về quyền bào chữa.
Như đã trình bày, quyền này không chỉ cần được bảo đảm trong giai đoạn xét xử mà người bị tình nghi, người bị buộc tội cần phải được tiếp cận sớm hơn. Thời điểm tiếp cận trợ giúp pháp lý phải được bảo đảm ngay từ giai đoạn tiền tố tụng. Vì trong giai đoạn đầu các đối tượng thường dễ bị bức cung, “mớm cung”, bị đòi hối lộ hoặc các hành vi tương tự khác. Nghị quyết số 67/187 ngày 20/12/2012 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về Nguyên tắc và những hướng dẫn về tiếp cận trợ giúp pháp lý trong hệ thống tư pháp hình sự[12], trong đó đặc biệt nhấn mạnh quyền trợ giúp pháp lý là quyền cơ bản trong pháp luật hình sự và là một phần cấu thành của quyền con người được quy định trong ICCPR. Nguyên tắc 3 quy định về trợ giúp pháp lý cho những người bị tình nghi hoặc bị buộc tội hình sự như sau: “Các Quốc gia cần bảo đảm tất cả những người bị bắt, bị tạm giam, bị tình nghi hoặc buộc tội phạm tội hình sự, bị tù có thời hạn hoặc bị kết án tử hình đều có quyền được trợ giúp pháp lý ở tất cả các giai đoạn trong quá trình tố tụng hình sự. Trợ giúp pháp lý cần được cung cấp mà không tính đến các điều kiện của một người, nếu như lợi ích công lý đòi hỏi như vậy, chẳng hạn trong trường hợp khẩn cấp hoặc do tính chất phức tạp của vụ việc hoặc tính nghiêm trọng của hình phạt có thể được áp dụng”. Theo đó, tiền tố tụng là giai đoạn các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện việc xác minh, thu thập chứng cứ và áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi ra quyểt định khởi tố[13]. Nếu được trợ giúp pháp lý từ đầu thì vấn đề tiếp cận công lý của người bị tình nghi, người bị buộc tội sẽ được bảo đảm hơn (từ việc được hỗ trợ tư vấn pháp luật đến tự thu thập chứng cứ). Do đó, các chủ thể này cần thiết được cơ quan điều tra cung cấp thông tin về quyền chủ động tiếp cận trợ giúp pháp lý ngay thời điểm tiền tố tụng (trừ trường hợp liên quan đến tội xâm phạm an ninh quốc gia).
Bên cạnh đó, về vấn đề cấp giấy đăng ký bào chữa ngoài thẩm quyền thuộc cơ quan điều tra của Công an nhân dân, cần thiết bổ sung hướng dẫn cụ thể thẩm quyền của các cơ quan như Toà án và cơ quan điều tra của quân đội nhân dân. Thêm vào đó, cần quy định cụ thể các hành vi vi phạm pháp luật khi tiến hành bào chữa của người bào chữa là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền huỷ bỏ việc đăng ký bào chữa của người đó theo quy định tại điểm b khoản 7 Điều 78 BLTTHS hiện hành[14]. Việc thiếu quy định cụ thể dẫn đến trường hợp xác định theo ý chí chủ quan của cơ quan có thẩm quyền hoặc không đồng bộ trong vấn đề áp dụng quy định này vào thực tiễn làm ảnh hưởng đến sự thống nhất và công bằng trong quá trình tố tụng.
Vấn đề yêu cầu hỗ trợ thu thập tài liệu, chứng cứ cần bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 81 BLTTHS về nghĩa vụ khi cơ quan có thẩm quyền được người bào chữa yêu cầu như sau: “Trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì người bào chữa có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập. Cơ quan được yêu cầu xác định nội dung yêu cầu thuộc thẩm quyền thì có nghĩa vụ hỗ trợ người bào chữa thu thập tài liệu, chứng cứ. Nếu không thuộc thẩm quyền thì phải chuyển đơn yêu cầu đến cơ quan có thẩm quyền và thông báo đến người bào chữa. Trong trường hợp từ chối thì phải thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do không hỗ trợ”.
Đối với vướng mắc trong việc áp dụng quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 73 trong trường hợp thay đổi hoặc bổ sung người bào chữa dẫn đến vấn đề bị hạn chế tiếp cận tài liệu kiến nghị điều chỉnh nội dung này như sau: Người bào chữa có quyền xem biên bản về hoạt động tố tụng, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa.
Thứ hai, về vấn đề tạm giữ, tạm giam cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, xác định rõ các nội dung:
Căn cứ áp dụng: Cần hướng dẫn rõ cơ sở để xác định áp dụng biệp pháp này gồm ý chí của bị can khi thực hiện hành vi là cố ý hay vô ý, khả năng tiếp tục phạm tội và thái độ của đối tượng trong quá trình hợp tác điều tra (có gây cản trở cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành các thủ tục tố tụng hay không). Cần nhấn mạnh rằng không nên xác định dựa trên cơ sở phân loại tội phạm vì việc phân loại chỉ phản ảnh một phần vụ án và bị can chưa bị định tội nên việc đối xử như tội phạm là thiếu công bằng và khách quan. Song, đối với người đã được xoá án tích cững cần được đối xử như người có nhân thân tốt[15], cần được đối xử bình đẳng với các chủ thể khác và không thể dựa vào điều này để ra quyết định tạm giam.
Thẩm quyền ra quyết định: Cần tuân thủ đúng quy trình tố tụng đối với việc ra quyết định áp dụng biện pháp tạm giam, tạm giữ thuộc về Thủ trưởng, Phó thủ trưởng của cơ quan điều tra và phải được Viện kiểm sát phê chuẩn. Các quyết định khi được đưa ra cần tuân thủ đúng quy trình này, vì Cơ quan điều tra nắm rõ được tính chất của vụ án. Tuy nhiên, không phải trong mọi tình huống cơ quan điều tra đều đưa ra phán đoán chính xác. Do đó, cần có sự giám sát, phê chuẩn của Viện kiểm sát để bảo đảm sự khách quan của quyết định.
Thứ ba, về vấn đề oan, sai. Cơ quan tiến hành tố tụng cần nắm chắt nguyên tắc suy đoán vô tội trong quy trình tố tụng, góp phần hạn chế sự chủ quan, duy ý chí trong quá trình giải quyết vụ án. Cần ban hành văn bản dưới luật để giải thích rõ các nội dung định tính trong quy định của BLTTHS, công tác thu thập chứng cứ dựa trên các tiêu chí, định lượng cụ thể giúp cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đúng và đồng bộ. Đồng thời cần sự phân định rõ ràng giữa các hành vi vi phạm hành chính và hành vi phạm tội, ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm hình sự rất “mong manh”, nhưng những tác động của một hành vi được đánh giá là tội phạm có sức ảnh hưởng đến một người lớn hơn gấp bội so với hành vi thông thường. Cho nên, việc kết luận một hành vi là có tội hay không có tội đòi hỏi cơ quán tiến hành tố tụng phải cân nhắc thận trọng và chịu trách nhiệm cá nhân, tổ chức nếu xảy ra tình huống oan, sai. Một kết luận sai lầm không chỉ ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, cuộc sống của người bị kết án, mà còn có tác động mạnh mẽ đến gia đình và số phận của rất nhiều người. Vì thế, cần thiết quy định rõ về việc chịu trách nhiệm trước người bị oan, không chỉ dừng lại ở việc công khai xin lỗi hay bổi thường thiệt hại. Như vậy mới bảo đảm bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng được tuân thủ nghiêm minh, hạn chế những kết luận vội vàng, thiếu trách nhiệm từ phía các cơ quan có thẩm quyền.
Kết luận
Nhìn chung, pháp luật Việt Nam đã và đang có nhiều động thái tích cực trong việc bảo vệ quyền con người trong quá trình tố tụng. Những quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 đã chú trọng hơn trong vấn đề này, đáp ứng và thực thi nghiêm túc yêu cầu thực tiễn và quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người trong quá trình tư pháp. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, một số vấn đề về quyền con người vẫn chưa được bảo đảm dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng. Qua đánh giá thực tiễn, nhóm tác giả cũng đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vấn đề bảo vệ quyền con người trong quá trình tố tụng hình sự, bảo đảm đủ tính nghiêm minh, tạo môi trường giáo dục, răn đe cho các đối tượng nhưng cũng bảo bảo đảm các quyền cơ bản của con người trong hoạt động tư pháp.
ThS. Lê Huỳnh Phương Chinh
Nghiên cứu sinh Luật Kinh tế - Đại học Kinh tế Luật – Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
GVC, Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ
Ngô Thị Khánh Linh
Học viên Cao học Luật Kinh tế, Trường Đại học Cần Thơ
Nguyễn Thị Hoàng Hân
Học viên Cao học Luật Kinh tế, Trường Đại học Cần Thơ
[1] Nguyễn Văn Nam, “Bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự đáp ứng yêu cầu Nghị quyết số 27-NQ/TW”, Cổng thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân – Tỉnh Nghệ An, xem tại https://vienkiemsat.nghean.gov.vn/nghien-cuu/bao-dam-bao-ve-quyen-con-nguoi-trong-giai-doan-khoi-to-dieu-tra-vu-an-hinh-su-dap-ung-yeu-cau-ng-693329, [truy cập ngày 25/02/2025]
[2] Điều 11 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003.
[3] Đặng Đình Thái, “Bàn về quyền con người trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, https://tapchitoaan.vn/ban-ve-quyen-con-nguoi-trong-to-tung-hinh-su9786.html, [truy cập ngày 26/02/2025]
[4] Tăng Văn Hoàng, Nguyễn Văn Hoàng, “Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội thông qua thực hiện quyền bào chữa trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Điện tử Luật sư Việt Nam, xem tại https://lsvn.vn/ba-o-da-m-quye-n-con-nguo-i-cu-a-nguo-i-bi-buo-c-to-i-thong-qua-thu-c-hie-n-quye-n-ba-o-chu-a-trong-to-tu-ng-hi-nh-su-1703432509-a139149.html, [truy cập ngày 26/02/2025]
[5] Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Báo cáo tổng kết công tác của ngành Kiểm sát nhân dân từ năm 2015 - 2021. Hà Nội, 2021.
[6] Trần Thị Thu Hiền, “Hoàn Thiện quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 nhằm bảo đảm quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện của bị can, bị cáo trong Tố tụng Hình sự”, Tạp chí Quản lý nhà nước - Số 320 (9/2022)
[7] Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Báo cáo tổng kết công tác của ngành Kiểm sát nhân dân từ năm 2015 - 2021. Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án từ năm 2015 - 2021. Hà Nội, 2021.
[8] Bảo đảm quyền con người trong áp dụng biện pháp bắt, giữ người trong tố tụng hình sự, xem tại https://hvctcand.bocongan.gov.vn/nha-nuoc-va-phap-luat/bao-dam-quyen-con-nguoi-trong-ap-dung-bien-phap-bat-giu-nguoi-trong-to-tung-hinh-su-5157, [truy cập ngày 26/02/2025]
[9] Phạm Đông, “Tồn đọng các vụ bồi thường oan sai do hồ sơ vụ án không đầy đủ, thất lạc”, Báo Lao động https://laodong.vn/thoi-su/ton-dong-cac-vu-boi-thuong-oan-sai-do-ho-so-vu-an-khong-day-du-that-lac-1250389.ldo, [truy cập ngày 26/02/2025]
[10] Nguyễn Thị Hạnh Quyên, Hoàng Thịnh, “Một số giải pháp về phòng ngừa oan, sai, bỏ lọt tội phạm trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, https://danchuphapluat.vn/mot-so-giai-phap-ve-phong-ngua-oan-sai-bo-lot-toi-pham-trong-hoat-dong-to-tung-hinh-su-nham-bao-dam-quyen-con-nguoi-quyen-cong-dan-o-nuoc-ta-hien-nay, [truy cập ngày 26/02/2025]
[11] Hoàng Đình Duyên, “Chính sách pháp luật tố tụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, xem tại https://danchuphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-to-tung-hinh-su-theo-tinh-than-nghi-quyet-dai-hoi-lan-thu-xiii-cua-dang, [truy cập ngày 03/3/2025]
[12] 67/ 187 United Nations Principles and Guidelines on Access to Legal Aid in Criminal Justice Systems : resolution / adopted by the General Assembly, https://docs.un.org/en/A/RES/67/187, 20/12/2012, truy cập ngày 04/3/2025.
[13] Phan Thanh Quang, “Hoàn thiện quy định pháp luật về “Trợ giúp pháp lý tố tụng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, xem tại https://danchuphapluat.vn/hoan-thien-quy-dinh-phap-luat-ve-tro-giup-phap-ly-to-tung, [truy cập ngày 04/3/2025]
[14] Nguyễn Chí Hiếu, Trần Văn Toán, “Một số vấn đề pháp lý liên quan đến thủ tục đăng ký bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Điện tử Luật sư Việt Nam, https://lsvn.vn/mot-so-van-de-phap-ly-lien-quan-den-thu-tuc-dang-ky-bao-chua-trong-to-tung-hinh-su-viet-nam1635870301-a111257.html, [truy cập ngày 05/3/2025]
[15] Một số vướng mắc khi áp dụng quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự về áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo, Trang thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, xem tại https://vienkiemsat.haiduong.gov.vn/trao-doi-nghiep-vu/mot-so-vuong-mac-khi-ap-dung-quy-dinh-tai-diem-c-d-khoan-2-dieu-119-bo-luat-to-tung-hinh-su-ve-ap-dung-bien-phap-tam-giam-doi-voi-bi-can-bi-cao-4881.html, [truy cập ngày 05/3/2025]