Nhằm mục đích đánh giá pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Việt Nam về phương diện bảo đảm quyền con người của phụ nữ, nghiên cứu này: 1) Thiết lập cơ sở lý luận của vấn đề qua việc làm sáng tỏ phạm vi và đối tượng của việc bảo đảm quyền phụ nữ trong tư pháp hình sự; 2) Tiếp cận bằng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền, lấy các chuẩn mực pháp lý quốc về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự để đánh giá mức độ đáp ứng của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này (bao gồm: Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự và Luật thi hành án hình sự). Theo đó, đề xuất những nội dung, phương hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Việt Nam nhằm tăng cường hiệu quả bảo đảm quyền con người của phụ nữ.

Trong các văn kiện pháp lý, các hoạt động nghiên cứu cũng như thực tiễn về quyền con người trên thế giới, phụ nữ luôn được đề cập đến với tư cách là một trong “các nhóm xã hội dễ bị tổn thương” (vulnerable groups) - là khái niệm chỉ tới những nhóm người có nguy cơ cao bị tổn thương về quyền con người1. Vì tính dễ tổn thương đó nên quyền phụ nữ cần được bảo vệ chặt chẽ hơn quyền con người nói chung bởi “hệ thống các quy phạm và cơ chế về quyền con người nói chung về cơ bản là không đủ, thậm chí đôi khi không phù hợp nếu áp dụng một cách máy móc với các nhóm người dễ bị tổn thương”2. Hệ thống các quy định pháp luật bảo vệ quyền con người nói chung trong lĩnh vực tư pháp hình sự cũng vậy, sẽ là không đủ và không hoàn toàn thích hợp để bảo vệ các quyền con người của phụ nữ vốn phản ánh đặc thù giới và dễ tổn thương. Hơn nữa, quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự còn có tính chất dễ tổn thương “kép” do họ ở vào thế yếu trong quan hệ này - hoặc là nạn nhân đã bị tổn thương quyền con người do tội phạm hoặc là người bị tước đoạt quyền con người do bị cáo buộc, bị kết án, phải chấp hành án. Do đó, việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ phải được đặt ra một cách chuyên biệt trên nền của chế độ bảo hộ quyền con người nói chung trong pháp luật về tư pháp hình sự.
Được thiết lập với một trong các nhiệm vụ chính là bảo vệ công lý và quyền con người nhưng liệu rằng hệ thống các quy định pháp luật về tư pháp hình sự ở Việt Nam hiện nay đã đủ khả năng để bảo đảm các quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự? Nhằm trả lời câu hỏi đó, phương pháp tiếp cận dựa trên quyền sẽ được áp dụng để đánh giá các quy định pháp luật Việt Nam về tư pháp hình sự trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ. Tức là, đánh giá các quy định này trên cơ sở những chuẩn mực quốc tế về quyền con người của phụ nữ, chỉ ra những khoảng trống và đề xuất phương hướng bổ sung, hoàn thiện nhằm đáp ứng các chuẩn mực chung và thúc đẩy tối đa việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự. Tuy nhiên, trước đó, cần phải thiết lập cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu bằng cách xác định phạm vi và đối tượng của việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự.  
1. Phạm vi và đối tượng bảo đảm quyền con người của phụ nữ bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự
1.1. Phạm vi bảo đảm quyền con người của phụ nữ bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự
Bảo đảm quyền con người của phụ nữ bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự được xác định dựa trên hai phạm vi: “Quyền con người của phụ nữ”(1) và “Tư pháp hình sự” (2). Nếu không tìm hiểu bản chất của vấn đề mà chỉ xem xét về mặt thuật ngữ thì khái niệm “quyền con người của phụ nữ” có thể gây hiểu lầm rằng quyền con người của phụ nữ khác với quyền con người nói chung hoặc quyền con người của nam giới. Thậm chí, thuật ngữ này còn có thể tạo ra liên tưởng về việc giới hạn hẹp lại phạm vi quyền con người của nữ giới so với các quyền con người phổ biến của cá nhân nói chung. Tuy nhiên, “quyền con người là các đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn từ các phẩm giá vốn có của tất cả mọi người”3. Do vậy, để nhận thức đúng đắn về quyền con người của phụ nữ, hai nhà hoạt động nữ quyền nổi tiếng Charlotte Bunch và Samantha Frost - giảng viên Đại học Illinois đã giải thích trong cuốn Bách khoa toàn thư thế giới về phụ nữ: Những vấn đề và tri thức toàn cầu về phụ nữ như sau: “Quyền con người của phụ nữ là những quyền con người được nhìn qua lăng kính giới”4. Thống nhất với quan điểm này, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cho rằng khái niệm quyền của phụ nữ là sự tiếp cận quyền con người theo nghĩa xác định hơn, nó phản ánh những quyền của đối tượng cụ thể, được quy định trong pháp luật luôn đi kèm với sự xem xét những yếu tố thuộc về tâm - sinh lý của giới nữ5. Theo đó, khái niệm quyền con người của phụ nữ phải được hiểu trong bối cảnh gắn kết chặt chẽ của hai yếu tố: quyền con người và đặc thù giới của phụ nữ. Nói cách khác, quyền con người của phụ nữ là các quyền con người phản ánh những đặc thù giới tính của phụ nữ. 
Đặc thù giới về mặt sinh học và thiên chức xã hội đã mang lại cho phụ nữ một loại quyền con người riêng mà nửa kia của thế giới không có là quyền thực hiện thiên chức làm mẹ và được bảo hộ đặc biệt đối với thiên chức này. Đặc thù giới tất nhiên cũng không làm mất đi bất kỳ một quyền con người nào của phụ nữ bởi vì không ai có thể phủ nhận việc phụ nữ là con người. Tuy nhiên, đặc thù giới có thể khiến một số quyền con người ở phụ nữ dễ bị tổn thương hoặc tổn thương nặng hơn so với quyền ấy ở nam giới. Ví dụ như do đặc điểm sinh học của cơ thể nên quyền tự do và an toàn tình dục của phụ nữ dễ bị xâm hại hơn; do định kiến xã hội hoặc quan niệm tín ngưỡng về giới, phụ nữ dễ bị kỳ thị, phân biệt đối xử; đặc điểm thể chất và chức năng sinh sản, vai trò xã hội... khiến phụ nữ dễ trở thành nạn nhân của bạo lực, tình trạng ngược đãi hoặc lạm dụng; do tình cảm, quan niệm giới tính nên phụ nữ đau khổ hơn nam giới nếu bị tổn thương cơ thể mà làm giảm giá trị thẩm mỹ; v.v... Như vậy, đặc điểm giới mang lại cho phụ nữ quyền con người đặc thù, đồng thời khiến cho nhiều quyền con người của phụ nữ dễ bị tổn thương hơn. Vì lẽ đó, trong thực tiễn pháp lý, nội dung bảo vệ quyền phụ nữ của các văn kiện của quốc tế cũng như quốc gia thường tập trung vào việc bảo vệ quyền thực hiện thiên chức làm mẹ của phụ nữ và các quyền con người dễ bị tổn thương do chủ thể của quyền là phụ nữ như: quyền bình đẳng giới; quyền tự do và an toàn về tình dục; quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền tự do hôn nhân... Bởi vậy, dưới góc độ bảo vệ quyền con người, khái niệm quyền con người của phụ nữ không bao gồm tất cả quyền con người thuộc về một cá nhân nữ giới mà chỉ giới hạn trong phạm vi: các quyền con người đặc thù giới mà chỉ riêng phụ nữ mới có và các quyền con người dễ bị tổn thương (hoặc tổn thương nặng hơn hẳn) do chủ thể của quyền ấy là phụ nữ. Khái niệm này không làm hẹp lại các quyền con người của phụ nữ so với quyền con người nói chung mà chỉ nhằm nhấn mạnh yêu cầu bảo vệ chặt chẽ hơn đối với một số quyền con người ở phụ nữ.
Theo phạm vi đã chỉ ra ở trên, việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự hướng tới bảo đảm các quyền con người cần được bảo đảm chuyên biệt do gắn liền với đặc thù giới tính của phụ nữ trong tư pháp hình sự. “Tư pháp hình sự là một lĩnh vực chủ yếu của quyền tư pháp, mà mọi hoạt động của nó liên quan đến việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội”6. Bởi vậy, đề cập đến “tư pháp hình sự” có nghĩa nói đến các hoạt động thực thi quyền lực tư pháp trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Các hoạt động này được tiến hành trên cơ sở pháp lý chủ yếu là Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự và Luật thi hành án hình sự (ngoài ra còn có các luật về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tư pháp hình sự…). Theo đó, pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự có thể hiểu là pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự.
Những phân tích trên cho phép xác định rằng: Về mặt phạm vi, bảo đảm quyền con người của phụ nữ bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự là bảo đảm những quyền con người đặc thù giới hoặc dễ tổn thương do giới tính của phụ nữ bằng các quy định pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự.
1.2. Đối tượng bảo đảm quyền con người của phụ nữ bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự
Đối tượng được bảo đảm quyền con người của phụ nữ chắc chắn phải là phụ nữ. Tuy nhiên, trong khái niệm này, chúng tôi cũng nhấn mạnh rằng “phụ nữ” ở đây chỉ gồm những người là những người mang giới tính nữ một cách tự nhiên, không phân biệt về tuổi tác, xuất thân, thành phần xã hội, địa vị, tình trạng kinh tế hay bất cứ yếu tố nào khác; không bao gồm những người chuyển giới thành phụ nữ và ngược lại, phụ nữ đã chuyển giới thành nam giới. Sự thừa nhận về giới tính của những người chuyển giới còn là vấn đề đang tranh cãi và có nhiều bất đồng về mặt pháp lý. Tuy nhiên, việc giải quyết vấn đề quyền con người của họ chắc chắn phải gắn liền với những đặc thù riêng của việc chuyển giới. Do đó, theo chúng tôi, việc ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền con người của những chủ thể đó sẽ được đặt ra trong khuôn khổ vấn đề quyền con người của nhóm LGBT (người đồng tính, song tính, chuyển giới)7 mà không phải ở đây - trong nghiên cứu về quyền con người của phụ nữ.
Mặc dù quyền con người của phụ nữ là quyền của mọi cá nhân có giới tính nữ nhưng không phải tất cả họ đều là đối tượng cần được bảo đảm quyền phụ nữ bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự mà chỉ có những phụ nữ tham gia vào các quan hệ xã hội trong lĩnh vực tư pháp hình sự và ở địa vị yếu thế trong quan hệ đó.
Luật hình sự là ngành luật về tội phạm và hình phạt, các quy phạm của ngành luật này xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Nhà nước coi là tội phạm và quy định hình phạt đối với các tội phạm đó. Vì vậy, bản thân luật hình sự có chức năng bảo vệ đối với các quyền con người (bao gồm quyền con người của phụ nữ) khỏi sự xâm hại của những hành vi có tính chất tội phạm. Bên cạnh đó, luật hình sự còn phải bảo đảm quyền con người của phụ nữ phạm tội vì trong quan hệ pháp luật hình sự thì người phạm tội là bên yếu thế. Quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội (gồm cá nhân và pháp nhân phạm tội theo quy định pháp luật hiện hành) khi người này thực hiện tội phạm8. Trong mối quan hệ đó, nhân danh công lý, Nhà nước có quyền tội phạm hóa bất kỳ hành vi nào mà Nhà nước cho rằng nguy hiểm đối với xã hội và quy định, áp đặt hình thức xử lý - trừng phạt đối với người thực hiện hành vi đó. Nếu quyền lực áp đảo của Nhà nước trong mối quan hệ này được thực thi cùng với sự bất cẩn, tùy tiện sẽ đem đến thiệt hại nghiêm trọng về quyền con người vì các biện pháp cưỡng chế hình sự có thể tước đoạt những giá trị quyền con người quan trọng nhất. Như vậy, bảo đảm quyền con người của phụ nữ bằng pháp luật hình sự hướng tới hai đối tượng khác nhau là nạn nhân của các tội xâm phạm quyền con người của phụ nữ và người phụ nữ phạm tội.
Luật tố tụng hình sự là ngành ngành luật quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự - tức là quy định những trình tự, thủ tục mà cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành để xem xét, đánh giá một hành vi cụ thể có phải là tội phạm được quy định trong bộ luật hình sự hay không, người thực hiện hành vi có phải chịu trách nhiệm hình sự không và chịu trách nhiệm hình sự như thế nào. Do đó, mối quan hệ mà luật tố tụng hình sự điều chỉnh cũng là một quan hệ bất bình đẳng với thế yếu thuộc về người tham gia tố tụng. Cơ quan/người tiến hành tố tụng thực thi quyền lực nhà nước, có quyền áp đặt các biện pháp cưỡng chế luật định đối với người tham gia tố tụng; người tham gia tố tụng, có nghĩa vụ phải chấp hành các biện pháp cưỡng chế do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng. Đồng thời, xét về vị thế, lực lượng, người tham gia tố tụng luôn là bên yếu thế trước người/cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự phải hướng tới đối tượng yếu thế trong quan hệ này là người tham gia tố tụng. Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định người tham gia tố tụng gồm nhiều thành phần khác nhau, trong đó, nhóm người có nguy cơ cao bị tổn thương về quyền con người là: Bị hại - vốn đã bị tổn thương quyền con người do tội phạm; người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo - những người thường phải chịu định kiến là kẻ xấu và các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự hầu hết được quy định để áp dụng đối với họ. 
Như vậy, bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong tố tụng hình sự không hướng tới tất cả các đối tượng là nữ giới trong quan hệ tố tụng hình sự mà chỉ hướng tới những phụ nữ yếu thế, dễ bị tổn thương quyền con người trong quan hệ này như: nữ bị hại; nữ bị can; nữ bị cáo; nữ giới bị tố cáo, khởi tố, bị bắt giữ. Khi xác định rõ đối tượng như vậy có thể bị phản biện bởi quan điểm rằng các nữ cán bộ tiến hành tố tụng cũng cần được bảo đảm quyền con người của phụ nữ bằng pháp luật tố tụng hình sự vì các quyền ấy cũng có thể bị xâm hại do hành vi chống đối, trả thù của tội phạm. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng những hành vi chống đối, trả thù đó hướng tới xâm phạm trật tự tư pháp mà việc làm tổn thương đến quyền con người chỉ là biện pháp, không phải mục đích. Việc tấn công cán bộ tiến hành tố tụng không có mục đích nhằm vào những quyền đặc thù giới tính của họ mà nhằm gây ra tổn thương đối với bất kỳ quyền con người nào của họ để chống lại công vụ họ đang hoặc đã thực hiện. 
Trong Luật thi hành án hình sự, việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ hướng tới đối tượng yếu thế trong quan hệ thi hành án hình sự là người chấp hành án - người bị hạn chế một số quyền công dân để trả giá cho tội phạm họ đã thực hiện. Người chấp hành án sẽ bao gồm cả những người chấp hành bản án tuyên vô tội, người chấp hành bản án tuyên có tội nhưng không kèm theo quyết định hình phạt và người chấp hành bản án có tội kèm theo hình phạt. Tuy nhiên, chỉ người phải chấp hành hình phạt mới là đối tượng cần bảo đảm quyền con người trong thi hành án vì trạng thái đang bị hạn chế hoặc tước đoạt quyền con người bộc lộ rõ sự yếu thế trước nguy cơ bị xâm hại quyền con người9. Theo đó, đối tượng cần bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong thi hành án hình sự là người phụ nữ phải chấp hành hình phạt.
Thông qua phân tích các quan hệ pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự có thể xác định: đối tượng bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự bao gồm những phụ nữ là người phạm tội, nạn nhân của tội phạm, bị can, bị cáo, người bị tố cáo, khởi tố, bị bắt giữ, người bị hại, người đang chấp hành án. 
Đối tượng cùng với phạm vi các quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự đã xác định ở trên cho phép đưa ra định nghĩa cơ sở của nghiên cứu này như sau: Bảo đảm quyền con người của phụ nữ bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự là bảo đảm bằng quy định pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự các quyền con người đặc thù giới hoặc dễ tổn thương do giới tính của những phụ nữ là người phạm tội, nạn nhân của tội phạm, bị can, bị cáo, người bị tố cáo, khởi tố, bị bắt giữ, người bị hại, người đang chấp hành án hình sự.
2. Yêu cầu của pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của phụ nữ bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự
Với tư cách con người, phụ nữ được bảo đảm mọi quyền con người mà pháp luật quốc tế thừa nhận đối với cá nhân. Tuy nhiên, như đã đề cập, các quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự có tính chất dễ tổn thương “kép” do bản thân phụ nữ đã là nhóm xã hội dễ tổn thương lại mang thêm địa vị người yếu thế trong tư pháp hình sự. Vì vậy, bên cạnh những yêu cầu về bảo đảm các quyền con người nói chung, pháp luật quốc tế còn đặt ra những đòi hỏi riêng biệt để nhấn mạnh việc bảo vệ một số quyền con người đặc thù và dễ bị tổn thương trong tư pháp hình sự của phụ nữ. 
2.1. Yêu cầu của pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người đặc thù giới của phụ nữ bằng pháp luật trong tư pháp hình sự
Quyền con người đặc thù của phụ nữ là quyền được bảo hộ thiên chức làm mẹ. Với đặc điểm sinh học của giống cái, phụ nữ mang thai, sinh nở và là người đóng vai trò quan trọng nhất trong việc chăm sóc, giáo dục con cái để duy trì sự sống tiếp nối của nhân loại. Ý nghĩa thiêng liêng của thiên chức làm mẹ vốn đã yêu cầu chế độ bảo hộ đặc biệt, hơn nữa, khi mang thai, sinh nở, nuôi con nhỏ, phụ nữ lại ở trong trạng thái dễ bị tổn thương hơn hẳn, càng đòi hỏi sự quan tâm, bảo vệ. Vì vậy, đạo luật quốc tế về nhân quyền đầu tiên - Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 - đã khẳng định: “Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt” (khoản 2 Điều 25). Khoản 2 Điều 10 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 tiếp tục nhấn mạnh: “Cần dành sự bảo hộ đặc biệt cho các bà mẹ trong một khoảng thời gian thích đáng trước và sau khi sinh con”. Yêu cầu về những biện pháp đặc biệt nhằm bảo vệ thiên chức làm mẹ cũng được đặt ra tại nhiều Điều của Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ của Liên hợp quốc năm 1979 (CEDAW).
Trên cơ sở ghi nhận chế độ bảo hộ đặc biệt đối với thiên chức làm mẹ của phụ nữ, pháp luật quốc tế trực tiếp yêu cầu pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự phải loại bỏ việc thi hành hình phạt tử hình đối với phụ nữ nhằm bảo hộ thiên chức làm mẹ của họ. Khoản 5 Điều 6 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: “Không được thi hành án tử hình đối với phụ nữ đang mang thai”; Điểm 3 trong Những bảo đảm nhằm bảo vệ quyền của những người đang phải đối mặt với án tử hình năm 1984 nhấn mạnh thêm: “Không được thi hành án tử hình đối với những phụ nữ có thai, các bà mẹ đang nuôi con nhỏ”. Yêu cầu bảo hộ thiên chức làm mẹ của phụ nữ cũng được đặt ra khi thi hành hình phạt tước đoạt tự do ở quy tắc số 23a trong Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân năm 1955: “Ở các nhà tù dành cho phụ nữ, phải có khu vực đặc biệt để phục vụ cho việc chăm sóc và điều trị cần thiết trước và sau khi sinh”. Nguyên tắc số 5 trong Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào năm 1988 của Liên Hợp quốc nhấn mạnh rằng: Những biện pháp được áp dụng theo pháp luật để bảo vệ quyền và địa vị đặc biệt của phụ nữ, nhất là phụ nữ có thai và các bà mẹ đang cho con bú đang bị giam giữ, cầm tù không bị coi là phân biệt đối xử và luôn phải được cơ quan tư pháp cũng như cơ quan có thẩm quyền khác quan tâm. 
2.2. Chuẩn mực quốc tế về bảo đảm quyền con người dễ tổn thương do chủ thể của quyền là phụ nữ trong tư pháp hình sự
Quyền con người là phẩm giá vốn có của mọi thành viên trong gia đình nhân loại, bất phân địa vị, giới tính, tôn giáo, dân tộc… Theo lẽ đó, phụ nữ và nam giới được pháp luật bảo hộ những quyền con người bình đẳng như nhau. Tuy nhiên, pháp luật quốc tế nhấn mạnh yêu cầu về việc bảo đảm một số quyền con người ở phụ nữ do tính chất dễ tổn thương của họ.
Thứ nhất, quyền bình đẳng giới của phụ nữ: Bình đẳng giới là trạng thái ngang bằng giữa các cá nhân về điều kiện và cơ hội hưởng thụ mọi nhân quyền bất chấp sự khác biệt giới tính. Quyền bình đẳng này được ghi nhận ngay tại những lời đầu tiên của Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, sau đó được cụ thể hóa bởi các văn kiện như: Công ước về trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ năm 1952, Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ năm 1952, Công ước về chống phân biệt đối xử trong giáo dục, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966...; được nhấn mạnh lại bởi Công ước CEDAW năm 1979. Trong đó, khoản 2 và 7 Điều 2 của Công ước CEDAW đã đòi hỏi pháp luật quốc gia phải: “Thông qua các biện pháp pháp lý và các biện pháp thích hợp khác, kể cả việc trừng phạt trong những trường hợp cần thiết, nhằm ngăn cấm mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ”; và “Hủy bỏ tất cả quy định hình sự quốc gia mà tạo nên sự phân biệt đối xử với phụ nữ”.
Thứ hai, quyền tự do, an ninh cá nhân và quyền tự do, an toàn về tình dục của phụ nữ: Tự do và an ninh cá nhân “là quyền cơ bản của con người, phản ánh trạng thái tồn tại của con người trong đó mỗi cá nhân được bảo đảm về mặt pháp lý cho sự bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tự do thân thể”10. Quyền tự do và an toàn về tình dục mặc dù không được định nghĩa, ghi nhận độc lập trong các văn kiện pháp lý về quyền con người nhưng về cơ bản có thể hiểu đó là quyền bảo đảm cho cá nhân sự tự chủ trong việc thực hiện các vi tình dục nhằm đáp ứng nhu cầu sinh lý của bản thân trên cơ sở bảo toàn sức khỏe và nhân phẩm. Cũng có thể hiểu rằng, tự do và an toàn tình dục là một khía cạnh của quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm, cũng là một bộ phận của an ninh cá nhân. 
Do trong thực tiễn đa số nạn nhân của nạn buôn bán người, bạo lực trên cơ sở giới, bạo lực tình dục đều là phụ nữ nên nhiều văn kiện pháp lý quốc tế đã được ban hành để đề ra những yêu cầu liên quan đến bảo vệ tự do, an ninh cá nhân của phụ nữ như: Công ước quốc tế ngày 30/9/1921 về trấn áp việc buôn bán phụ nữ và trẻ em; Công ước quốc tế ngày 11/10/1933 về trấn áp việc buôn bán phụ nữ ở mọi lứa tuổi; Công ước về trấn áp việc buôn bán người và bóc lột mại dâm người khác năm 1949; Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực với phụ nữ của Liên hợp quốc năm 1993; Nghị định thư về ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000. Để bảo vệ nhân phẩm, quyền tự do và an toàn về tình dục, tự do và an ninh cá nhân của phụ nữ, các văn kiện này yêu cầu quốc gia thành viên phải: Tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp để xóa bỏ mọi hình thức bạo lực chống lại phụ nữ, bao gồm bạo lực tình dục, buôn bán và bóc lột mại dâm phụ nữ; hình sự hóa và trừng trị hành vi buôn bán (qua bất kỳ hình thức mua bán, vận chuyển, chuyển giao người nào), môi giới, dụ dỗ, bóc lột tình dục phụ nữ.
Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực với phụ nữ của Liên hợp quốc năm 1993 đặc biệt nhấn mạnh việc xóa bỏ mọi hình thức bạo lực về thể chất, tình dục và tâm lý đối với phụ nữ được thực hiện bởi bất kỳ chủ thể nào. Tại Điều 4 Tuyên bố này đòi hỏi các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc phải: Không ngừng ngăn chặn điều tra và trừng trị những hành vi bạo lực đối với phụ nữ; Trừng trị và xử lý những việc làm sai phạm với những phụ nữ là nạn nhân của bạo lực; Tạo điều kiện cho phụ nữ là nạn nhân của bạo lực được tiếp cận với các cơ chế tư pháp để được giải quyết một cách công bằng, hiệu quả và được bồi thường những thiệt hại họ phải gánh chịu do bạo lực; Không để xảy ra tình trạng pháp luật thiếu nhạy bén với những vấn đề giới là nguyên nhân tái diễn bạo lực đối với phụ nữ; bảo đảm các cán bộ thực thi pháp luật và các chính sách để ngăn chặn, điều tra, trừng trị bạo lực đối với phụ nữ được đào tạo nhằm giúp họ nhạy bén trước những nhu cầu của phụ nữ (các điểm 3, 4, 6, 9 của Điều 4).
Nguy cơ trở thành nạn nhân của bạo lực trên cơ sở giới của phụ nữ càng cao hơn khi họ ở trong tình trạng đang bị tước đoạt tự do. Để ngăn ngừa nguy cơ đó, Quy tắc 8a trong Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân năm 1955 yêu cầu: “Nam và nữ phải được giam giữ riêng càng xa càng tốt trong các nhà tù riêng. Trong một nhà tù tiếp nhận cả nam và nữ thì khu dành cho nữ phải hoàn toàn riêng biệt”. Những yêu cầu cụ thể hơn được nhấn mạnh tại quy tắc 53 của Văn kiện này như: khu nhà tù riêng của tù nhân nữ phải do nhân viên nữ quản lý; phạm nhân nữ chỉ do cán bộ, nhân viên, nữ trông nom và giám sát; cán bộ, nhân viên nam không được vào khu dành riêng cho phạm nhân nữ trừ khi có một nữ nhân viên trại giam đi kèm; v.v..
Điều 10 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị của Liên Hợp quốc năm 1966 cũng yêu cầu đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm những người bị tước đoạt tự do cũng được các Bình luận chung giải thích bao gồm những tiêu chuẩn như: Phụ nữ phải được giam giữ tách riêng khỏi nam giới; việc khám xét thân thể phải theo cách thức phù hợp để bảo đảm nhân phẩm của người bị khám xét, người khám xét phải cùng giới tính với người bị khám xét11.
Như vậy, trên nền tảng của việc bảo đảm quyền con người nói chung trong tư pháp hình sự, pháp luật quốc tế còn đặt ra những yêu cầu riêng về việc bảo đảm một số quyền con người đặc thù và dễ tổn thương ở phụ nữ. Việc đáp ứng các yêu cầu đó chính là một tiêu chí cơ bản để đánh giá pháp luật quốc gia trên phương diện bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự.

Thư viện dành cho phạm nhân nữ ở trại giam Thủ Đức (Bình Thuận). Nguồn: dangcongsan.vn

3. Bảo đảm quyền con người của phụ nữ bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Việt Nam hiện nay
3.1. Bảo đảm quyền con người đặc thù giới của phụ nữ 
Để bảo hộ thiên chức làm mẹ, Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam năm 2015 quy định là tội phạm và xử lý một số hành vi xâm hại thiên chức này; đe dọa trừng phạt nghiêm khắc những hành vi phạm tội với phụ nữ mà làm tổn hại đến quyền thực hiện thiên chức làm mẹ; giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, loại trừ hoặc trì hoãn thi hành một số hình phạt nhằm bảo hộ thiên chức làm mẹ. 
Cụ thể, các hành vi xâm phạm thiên chức làm mẹ được BLHS năm 2015 hiện hành quy định là tội phạm bao gồm: Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại tại Điều 187; tội phá thai trái phép tại Điều 316. Trong đó, tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại chính là một hình thức kinh doanh cơ thể phụ nữ, rẻ dúng nhân phẩm của họ, đồng thời khiến người phụ nữ mang thai hộ phải thực hiện thiên chức làm mẹ một cách bất đắc dĩ. Phá thai trái phép là hành vi phá thai thực hiện bởi người không có thẩm quyền hoặc tại cơ sở y tế không có thẩm quyền phá thai gây hậu quả tổn hại tính mạng, sức khỏe của người bị phá thai.
BLHS năm 2015 cũng đưa ra biện pháp xử lý nghiêm khắc những hành vi phạm tội với phụ nữ mà làm tổn hại đến quyền thực hiện thiên chức làm mẹ thông qua việc quy định tình tiết “phạm tội đối với phụ nữ có thai” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với mọi loại tội phạm (điểm i khoản 1 Điều 52). Bên cạnh đó, tình tiết phạm tội với phụ nữ mà biết là đang có thai được ghi nhận là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt đối với nhiều tội phạm như: Tội giết người; tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; hành hạ người khác; tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy; tội làm chết người trong khi thi hành công vụ; tội bức tử; tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ; tội lây truyền HIV cho người khác; tội cố ý truyền HIV cho người khác; tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật; tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật; tội cướp tài sản; tội cưỡng đoạt tài sản; tội cướp giật tài sản; tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình; tội cưỡng bức lao động; tội bắt cóc con tin; tội ra bản án trái pháp luật; tội ra quyết định trái pháp luật; tội dùng nhục hình; tội bức cung; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật. Đây đều là các tội phạm có tính chất bạo lực hoặc đe dọa tính mạng, sức khỏe con người nên việc phạm các tội đó với phụ nữ đang có thai vừa gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng hơn so với nạn nhân bình thường, vừa thể hiện tính chất tàn bạo, dã man của hành vi phạm tội. 
Mặt khác, về phương diện trách nhiệm hình sự và hình phạt, BLHS còn định ra việc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, loại trừ hoặc trì hoãn thi hành một số hình phạt để thể hiện chế độ bảo hộ đặc biệt đối với thiên chức làm mẹ. Tình tiết “người phạm tội là phụ nữ có thai” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng chung đối với mọi loại tội phạm tại điểm n khoản 1 Điều 51. Đặc điểm tâm - sinh lý có ảnh hưởng tiêu cực đến hành của người phụ nữ mới sinh con cũng được xem xét để khoan hồng đối với người phụ nữ phạm tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ tại Điều 124 BLHS năm 2015. Vì xem xét ảnh hưởng nặng nề của những tâm lý tiêu cực trong giai đoạn vừa mới sinh con của người phụ nữ nên các nhà làm luật đã cho phép áp dụng tội danh giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ có hình phạt cao nhất không quá 02 năm tù. Nếu không được cân nhắc đặc điểm này thì người đó có thể đối mặt với án tù chung thân hoặc tử hình theo quy định về tội giết người với tình tiết tăng nặng giết người dưới 16 tuổi ở điểm b khoản 1 Điều 123 Bộ luật này. 
BLHS năm 2015 cũng cho phép trì hoãn, đình chỉ, chấm dứt sớm hoặc hủy bỏ áp dụng một số chế tài để tạo điều kiện cho việc thực hiện thiên chức làm mẹ của người phụ nữ phạm tội. Quy định về hoãn chấp hành hình phạt tù tại Điều 67 của Bộ luật quy định trường hợp người bị xử phạt tù là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn chấp hành cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi. Nếu người phụ nữ đang chấp hành hình phạt tù mà có thai, sinh con thì sẽ được tạm đình chỉ việc chấp hành cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi theo quy định của Điều 68. Việc tha tù trước thời hạn đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi được quy định ưu tiên về điều kiện so với các đối tượng khác. Theo Điều 66 BLHS năm 2015 thì điều kiện về thời gian đã chấp hành hình phạt của phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng chỉ là ít nhất một phần ba hình phạt tù có thời hạn và 12 năm đối với tù chung thân, trong khi những người bình thường phải đáp ứng điều kiện là ít nhất đã chấp hành một phần hai hình phạt tù có thời hạn và 15 năm đối với tù chung thân. Đặc biệt, hình phạt tử hình được loại trừ hoàn toàn cả việc áp dụng lẫn thi hành đối với phụ nữ mang thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi theo quy định của Điều 40. Theo đó, hình phạt tử hình không được áp dụng, nếu đã áp dụng thì không thi hành và sẽ không bao giờ thi hành nữa. Hình phạt tử hình đã áp dụng mà không thi hành được chuyển thành hình phạt tù chung thân. Tình tiết có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi được công nhận làm căn cứ cho việc loại trừ hình phạt tử hình cho dù tình tiết đó xuất hiện vào lúc người phụ nữ thực hiện tội phạm, lúc bị xét xử hay đã bị tuyên án nhưng chưa thi hành. 
Thể hiện sự bảo hộ đặc biệt đối với thiên chức làm mẹ, BTTHS Việt Nam năm 2015 cho phép không áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ. Theo khoản 4 Điều 119 Bộ luật này thì trong trường hợp có căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam để phục vụ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nhưng bị can, bị cáo là người có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì sẽ không áp dụng biện pháp này, trừ khi việc không tạm giam bị can, bị cáo khiến cho vụ án không giải quyết được hoặc nguy hiểm cho xã hội.
Trong thi hành án phạt tù, Luật thi hành án hình sự năm 2019 của Việt Nam quy định chế độ đối xử riêng với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong đó, phạm nhân nữ có thai phải tiếp tục chấp hành án phạt tù hoặc phạm nhân đưa con dưới 36 tháng tuổi cùng vào trại giam thì được bố trí nơi giam riêng, phù hợp. Phạm nhân nữ có thai được khám thai định kỳ hoặc đột xuất, được chăm sóc y tế trong trường hợp cần thiết, được giảm thời gian lao động, được hưởng chế độ ăn, uống bảo đảm sức khỏe. Phạm nhân nữ có thai được nghỉ lao động trước và sau khi sinh con theo quy định của pháp luật về lao động. Trong thời gian nghỉ sinh con, phạm nhân được bảo đảm tiêu chuẩn, định lượng ăn theo chỉ dẫn của cán bộ y tế, được cấp phát thực phẩm, đồ dùng cần thiết cho việc chăm sóc trẻ sơ sinh. Phạm nhân nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi được bố trí thời gian phù hợp để chăm sóc, nuôi dưỡng con; được nghỉ lao động để chăm sóc con ốm (các Điều 30 và 51).
Bên cạnh đó, đưa ra bảo đảm cuối cùng đối với thiên chức làm mẹ trong chuỗi hoạt động tư pháp hình sự, Điều 80 và 81 Luật thi hành án hình sự năm 2019 quy định trước khi thi hành án tử hình bắt buộc phải kiểm tra và lập biên bản xác minh người bị thi hành án không có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Nếu phát hiện tình trạng có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì cơ quan thi hành án phải hoãn thi hành án và báo cáo cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ việc thi hành án tử hình. 
3.2. Bảo đảm quyền con người dễ tổn thương do giới tính của phụ nữ 
Để bảo đảm quyền bình đẳng giới trong tư pháp hình sự, nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp pháp luật, không bị phân biệt đối xử về giới hay bất kỳ yếu tố nào khác được tuyên bố trong nguyên tắc xử lý tội phạm tại Điều 3 BLHS năm 2015 và nguyên tắc tố tụng hình sự tại Điều 9 BLTTHS năm 2015. Điều 4 Luật thi hành án hình sự năm 2019 cũng tuyên bố nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân - bao gồm quyền bình đẳng trước pháp luật - trong thi hành án hình sự. Cùng với việc bảo đảm quyền bình đẳng, không bị phân biệt về giới trước pháp luật về tư pháp hình sự, pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền bình đẳng giới trước sự xâm hại của tội phạm bằng cách quy định tội xâm phạm quyền bình đẳng giới tại Điều 165 BLHS năm 2015 với các khung hình phạt gồm: phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù đến 02 năm. So với các BLHS trước đó ở Việt Nam, hình phạt đối với tội xâm phạm quyền bình đẳng giới trong BLHS hiện hành có tính chất nghiêm khắc hơn.
Ngoài ra, để bảo đảm quyền tự do, an ninh cá nhân, tự do và an toàn tình dục của phụ nữ, các quy định pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Việt Nam tội phạm hóa và trừng trị nghiêm khắc những hành vi xâm phạm các quyền này, đồng thời đặt ra các biện pháp để tôn trọng và phòng ngừa việc tổn thương quyền đó xảy ra trong tố tụng hình sự, thi hành án hình sự. Những hành vi xâm phạm tự do, an ninh cá nhân, tự do và an toàn tình dục chủ yếu nhằm vào nạn nhân là nữ giới bị BLHS năm 2015 quy định là tội phạm bao gồm: hiếp dâm (Điều 141 và 142); cưỡng dâm (Điều 143 và 144); Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục với người đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146); mua bán người (Điều 150 và 151); chứa mại dâm (Điều 327); môi giới mại dâm (Điều 328); bạo lực gia đình (cụ thể là ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người nuôi dưỡng mình ở Điều 185). Trong các quy định này, những tình tiết như: phạm tội tình dục mà làm nạn nhân có thai hoặc mua bán người vì mục đích mại dâm được ghi nhận là những tình tiết làm tăng nặng khung hình phạt nghiêm khắc hơn hẳn đối với người phạm tội. Những quy định đó thể hiện sự quan tâm bảo vệ đặc biệt đối với sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ.
Trong pháp luật tố tụng hình sự và thi hành án hình sự, nhiều quy định về đối xử riêng với phụ nữ được đặt ra để bảo đảm an ninh cá nhân, nhất là nhân phẩm của họ. Chẳng hạn, Điều 194 BLTTHS năm 2015 quy định “Việc khám xét người phải do người cùng giới thực hiện và có người khác cùng giới chứng kiến. Việc khám xét không được xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị khám xét”. Theo đó, khi tiến hành khám xét người trong tố tụng hình sự thì phụ nữ phải được khám bởi phụ nữ và phải có người cùng giới chứng kiến nhằm bảo vệ danh dự, nhân phẩm cho người bị khám. Ngoài ra, trong thi hành án phạt tù, Luật thi hành án hình sự năm 2019 quy định phạm nhân nữ phải được giam giữ riêng (khoản 2 Điều 30). Chế độ lao động của phạm nhân được quy định ở Điều 32 quy định: cấm sử dụng lao động nữ vào các công việc mà theo quy định pháp luật là không được phép sử dụng lao động nữ. Chế độ mặc và tư trang của phạm nhân ở Điều 49 quy định ngoài tiêu chuẩn tư trang chung, phạm nhân nữ được cấp thêm đồ dùng cần thiết cho vệ sinh của phụ nữ; v.v..
4. Những vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện để nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người của phụ nữ bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Việt Nam
Như vậy, đánh giá, phân tích các quy định pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Việt Nam hiện nay (Bộ luật Hình sự, BLTTHS và Luật thi hành án hình sự) cho thấy các quy định này cơ bản đã đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về bảo đảm quyền con người của phụ nữ. Tuy nhiên, trên lập trường nữ quyền, các quy định này vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tối đa các quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự.
Trước hết, trong quy định về tội phạm, BLHS Việt Nam còn chưa tội phạm hóa một số hành vi xâm phạm quyền con người của phụ nữ hoặc chưa cân nhắc thỏa đáng khía cạnh nữ tính, nữ quyền. Một số hành vi xâm phạm nghiêm trọng quyền con người chủ yếu nhằm vào phụ nữ chưa được ghi nhận là tội phạm trong BLHS Việt Nam hiện hành như: quấy rối tình dục và phá thai vì lý do giới tính. Hành vi quấy rối tình dục ở Việt Nam chỉ có thể xử lý về hình sự nếu thực hiện đối với trẻ em theo Điều 146 BLHS năm 2015 về tội dâm ô với người dưới 16 tuổi. Hành vi quấy rối tình dục với người lớn không bị xử lý về hình sự trong khi “quấy rối và hăm dọa tình dục ở nơi làm việc, trong các cơ sở giáo dục và những nơi khác” là hành vi đã bị Điều 2 Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực với phụ nữ năm 1993 của Liên hợp quốc nhìn nhận là một loại bạo lực tình dục cần lên án. Phá thai vì lý do giới tính rõ ràng là một hành vi tàn ác, vô nhân đạo và có tính chất phân biệt đối xử. Quyền sống cũng như những nhân quyền tối thiểu khác vốn dĩ bình đẳng ở mọi cá nhân nên việc bị khước từ cơ hội sống chỉ vì lý do mang giới tính nữ là một sự bất bình đẳng rõ ràng đối với phụ nữ. Chấm dứt sự sống của một thai nhi phát triển đến mức có thể xác định được giới tính không khác biệt với giết người vì bào thai ở giai đoạn đó đã có cơ thể tương đối hoàn chỉnh gần như con người thực sự. Hơn nữa, phá thai vì lý do giới tính còn dẫn đến mất cân bằng giới, đe dọa an ninh dân số. Tuy nhiên, do ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng trọng nam khinh nữ, dòng tộc phụ quyền nên hành vi phá thai vì lý do giới tính còn xảy ra ở Việt Nam. Vì vậy, sự cần thiết phải tội phạm hóa hành vi này. 
Ngoài ra, một số quy định về tội phạm trong BLHS cũng chưa cân nhắc đầy đủ khía cạnh nữ tính và lập trường nữ quyền, đặc biệt trên phương diện hậu quả của tội phạm. Tình tiết phạm tội đối với phụ nữ có thai hoặc phạm tội tình dục làm nạn nhân có thai được BLHS năm 2015 hiện hành ghi nhận là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc định khung tăng nặng hình phạt. Ngược lại, tình tiết thể hiện tính nguy hiểm cao hơn của tội phạm là “làm cho nạn nhân bị sảy thai” lại không được ghi nhận vị trí tương tự. Trong khi bạo lực nói chung, nhất là bạo lực tình dục với phụ nữ có thai rất dễ xảy ra loại tổn thương này và việc sảy thai không chỉ gây đau khổ thể xác, tinh thần trầm trọng ngay khi xảy ra mà có thể ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe sinh sản, khả năng làm mẹ. Một tình tiết khác liên quan đến hậu quả của tội phạm cần được cân nhắc trên phương diện nữ tính là thương tích có ảnh hưởng đến thẩm mỹ của cơ thể. Xét về mức độ tổn hại sức khỏe, sức lao động thì loại tổn thương này không bị coi là nghiêm trọng. Nếu theo quy định của BLHS năm 2015 hiện hành về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134) thì tổn thương thẩm mỹ không cấu thành tội này trừ khi gây ra bằng a-xít hoặc hóa chất nguy hiểm. Trong khi đó, tổn thương thẩm mỹ đối với phụ nữ đặc biệt gây ra đau khổ và ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống cá nhân. BLHS cũ (năm 1999) có ghi nhận trường hợp gây thương tích không nghiêm trọng (dưới 11%) nhưng để lại cố tật cho nạn nhân - bao gồm tổn thương thẩm mỹ - là hậu quả làm cấu thành tội phạm hoặc tăng nặng hình phạt đối với tội phạm ấy. Tuy nhiên, ở BLHS hiện hành quy định này không còn nữa, tức là đã mất đi sự cân nhắc cần thiết về yếu tố “nữ tính” trong quan điểm lập pháp.
Pháp luật hình sự Việt Nam cũng không có quy định phù hợp về hình phạt để bảo đảm quyền con người của phụ nữ mặc dù thừa nhận phụ nữ là nhóm xã hội dễ tổn thương và có những đặc thù khác biệt. Chẳng hạn như đối với người dưới 18 tuổi, các hình phạt tước đoạt tự do bị hạn chế áp dụng. Điều này cũng có thể xem xét để áp dụng tương tự đối với phụ nữ phạm tội vì các tội phạm do phụ nữ thực hiện thường ít có tính bạo lực, ít đe dọa an ninh công cộng. Hơn nữa, những tổn thất xảy ra đối với bản thân người phụ nữ bị tách khỏi gia đình nghiêm trọng hơn hẳn đối với bản thân họ và thân nhân so với trường hợp nam giới bị tước đoạt tự do. Vì vậy, các nhà làm luật cũng từng bước nên cân nhắc việc hạn chế áp dụng hình phạt tù đối với phụ nữ phạm tội không có tính bạo lực hoặc đe dọa an ninh công cộng. 
Pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam thỏa mãn các chuẩn mực cơ bản về quyền con người của phụ nữ tuy nhiên chưa có quy định nhằm bảo đảm tính nhạy cảm giới của hệ thống các cơ quan, cán bộ tư pháp. Trong pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam chưa đặt ra quy định nào đòi hỏi về giới tính hay kiến thức về tâm lý giới của cán bộ tư pháp tham gia giải quyết các vụ án hình sự mà nạn nhân là phụ nữ hoặc người bị tố giác, bị can, bị cáo là phụ nữ... Để tránh tổn thương quyền con người và cân nhắc không đầy đủ lợi ích của phụ nữ vì lý do hệ thống tư pháp hình sự thiếu tính nhạy cảm giới thì rất cần đặt ra những yêu cầu như: cán bộ điều tra, ít nhất một thành viên Hội đồng xét xử trong những vụ án như vậy phải là nữ giới, những người tiến hành tố tụng phải được đào tạo kiến thức về giới, bình đẳng giới...
Trong thi hành án hình sự, mô hình các trại giam ở Việt Nam hoàn toàn không được thiết kế phù hợp với phụ nữ. Với tỉ lệ phụ nữ phạm tội khoảng 10% tổng số tội phạm và phụ nữ trong trại giam thấp hơn tỷ lệ này nên ở Việt Nam không có trại giam dành riêng cho nữ phạm nhân mà chỉ giam giữ riêng nữ phạm nhân cho các nhà tù thiết kế nam tính. Điều đó chắc chắn là một cản trở lớn cho việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong thi hành án phạt tù. Đối với phạm nhân nữ, cần thiết phải có loại hình trại giam chuyên biệt dành cho họ. Ở đó sẽ thiết kế khác biệt hơn về không gian sinh hoạt, phương tiện phục vụ vệ sinh cá nhân; bố trí cán bộ y tế có chuyên môn phụ khoa, sức khỏe sinh sản; chế độ thăm nom của thân nhân cởi mở, thân thiện hơn; cách ngành nghề lao động cải tạo phù hợp với nữ giới và đào tạo nghề phù hợp cho phụ nữ tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành án; v.v..
Tóm lại, trong lĩnh vực tư pháp hình sự, các quyền con người của phụ nữ có tính chất dễ tổn thương “kép” do bản thân phụ nữ đã là một nhóm xã hội dễ tổn thương về quyền con người, hơn nữa, lại mang thêm địa vị người yếu thế trong tư pháp hình sự. Do đó, việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ phải được đặt ra một cách chuyên biệt trong tư pháp hình sự trên nền tảng của việc bảo đảm các quyền con người nói chung. Tuy nhiên, bảo đảm quyền con người của phụ nữ bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự không hướng tới bảo đảm mọi quyền con người của một cá nhân có giới tính nữ mà chỉ hướng tới phạm vi giới hạn là: bảo đảm những quyền con người đặc thù của riêng nữ giới hoặc quyền con người dễ tổn thương do giới tính của của chủ thể quyền ấy là nữ bằng các quy định pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án. Đối tượng bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự bao gồm những phụ nữ ở địa vị yếu thế trong quan hệ tư pháp hình sự. Cụ thể, những phụ nữ là người phạm tội, nạn nhân của tội phạm, bị can, bị cáo, người bị tố cáo, khởi tố, bị bắt giữ, người bị hại, người đang chấp hành án. 
Phân tích các quy định pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Việt Nam hiện nay và cho thấy rằng, các quy định này cơ bản đã đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về bảo đảm quyền con người của phụ nữ. Tuy nhiên, trên lập trường nữ quyền, các quy định này đòi hỏi vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tối đa hơn nữa các quyền con người của phụ nữ trong tư pháp hình sự và thực hiện một cách khả thi trong thực tiễn.
 

TS. Trần Thị Hồng Lê

Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

PGS. TS. Trịnh Tiến Việt

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 4/2020

---

Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thị Báo (chủ biên), Bảo đảm quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2016.
2. Mai Đắc Biên (chủ biên), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2020.
3. Lê Văn Cảm, Một số vấn đề cấp bách của khoa học pháp lý Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012.
4. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2015.
5. Charlotte Bunch and Samantha Frost, “Women’s human rights: An introduction” in International Encyclopedia of Women: Global Women's Issues and Knowledge, Routledge, New York, USA, 2000.
6. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011.
7. Vũ Công Giao, Ngô Minh Hương (đồng chủ biên), Tiếp cận dựa trên quyền con người - Lý luận và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016.
8. Vũ Công Giao, trong sách Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011. 
9. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2001.
10. Tường Duy Kiên, Nguyễn Duy Sơn, “Lý luận về quyền con người, quyền công dân”, trong Giáo trình cao cấp lý luận chính trị: Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2018.
11. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2011.
12. Đào Trí Úc, Vũ Công Giao (đồng chủ biên), Cải cách tư pháp vì một nền tư pháp liêm chính, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014.
13. Đào Trí Úc, Luật hình sự Việt Nam Quyển 1 - Những vấn đề chung, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000.
14. United Nation, Human Rights: Question and Answers, New York and Geneva, 2006.
15. Wolfgang Benedek, Tìm hiểu về quyền con người, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2008.