Nội dung của quyền bảo vệ phát triển rừng đã được cụ thể hóa thông qua khuôn khổ pháp lý của chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) của Việt Nam. Nghiên cứu này sẽ tìm hiểu về vai trò của dịch vụ môi trường rừng trong việc thực hiện quyền bảo vệ và phát triển rừng trong quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại Việt Nam. Nghiên cứu cũng sẽ đánh giá những thành tựu và thách thức của việc thực thi chính sách này, đặc biệt là đối với các cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng ở Việt Nam. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ và phát triển rừng dựa vào cộng đồng một cách công bằng, bền vững.
1. Giới thiệu
Tại Việt Nam, kể từ năm 2004, sau khi Luật Đất đai năm 2003 và Luật Bảo vệ và Phát triển rừng được sửa đổi, bổ sung và thi hành, quản lý rừng dựa vào cộng đồng (QLRDVCĐ) đã chính thức được công nhận là một chính sách sử dụng đất quan trọng, có tính đến các yêu cầu bảo tồn và phát triển cụ thể của địa phương1. Mô hình này cho phép người dân địa phương liên kết với chính quyền địa phương hoặc tham gia vào các chương trình tái trồng rừng. Sau khi được áp dụng tại một số vùng miền núi, mô hình QLRDVCĐ đã cho thấy sự phù hợp với tri thức, phong tục tập quán truyền thống của người dân địa phương và đảm bảo sinh kế cho người dân địa phương bên cạnh việc quản lý, bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng2. Có nhiều bằng chứng cho thấy rừng do cộng đồng quản lý có hiệu quả bảo tồn cao hơn các hình thức bảo tồn từ trên xuống3. Hơn nữa, QLRDVCĐ có thể góp phần cải thiện sinh kế và trao quyền cho cộng đồng địa phương4.
Quyền bảo vệ và phát triển rừng được thể hiện qua chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) và đã chính thức được đưa ra như một sáng kiến trên toàn quốc năm 2011 tại Việt Nam. Từ năm 2004, Việt Nam đã thiết lập cơ sở pháp lý để thực hiện chương trình quốc gia về PFES thông qua Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 (Đến năm 2016, Quốc hội ban hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng sửa đổi). Vào năm 2008, Quyết định số 380/QD-TTG của Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng tại các tỉnh Sơn La và Lâm Đồng. Năm 2010, Nghị định số 99/2010/NĐ-CP được ban hành chính thức thực hiện chính sách PFES trên toàn quốc từ ngày 1/1/2011. Với chính sách này, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á ban hành và thực hiện chính sách PFES trên phạm vi toàn quốc5.
Những người tham gia vào chương trình PFES bao gồm cả chủ rừng và những người được giao đất để bảo tồn rừng, bao gồm cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng, đủ điều kiện được thanh toán cho các dịch vụ bảo vệ môi trường rừng (PFES). Các nghiên cứu về chính sách dịch vụ môi trường rừng tại Việt Nam chỉ ra rằng chính sách PFES có nhiều tác động tới bảo tồn rừng và nâng cao sinh kế người dân địa phương. Đồng thời, PFES đã huy động được nguồn lực tài chính của tư nhân vào bảo tồn rừng để giảm bớt gánh nặng tài chính cho ngân sách nhà nước6. Trái lại, nghiên cứu của Tô và Dressler (2019) lại chỉ ra rằng thực tế chính sách PFES không tác động rõ ràng đến bảo tồn rừng hoặc sinh kế của người dân địa phương. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cũng chỉ ra những hạn chế còn tồn tại của chính sách này như tính thiếu công bằng trong phân phối lợi ích do cơ chế quản lý quyền sử dụng đất và thanh toán thiếu minh bạch7. Thậm chí, có nghiên cứu còn chỉ ra rằng, chính sách PFES còn làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng thu nhập của các cộng đồng cư dân sống phụ thuộc vào rừng do phân phối lợi ích không đồng đều giữa các cộng đồng và khu vực8. Để giải quyết vấn đề này, Chu và cộng sự (2019) đã đề xuất rằng Việt Nam cần xây dựng một mô hình tối ưu để đảm bảo tính hiệu quả của chính sách cũng như việc phân phối lợi ích công bằng giữa các bên liên quan.
2. Quyền bảo vệ và phát triển rừng trong quản lý rừng dựa vào cộng đồng thông qua chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES)
Người dân và cộng đồng tham gia vào quản lý rừng dựa vào cộng đồng không phải với tư cách là chủ rừng mà thông qua hợp đồng khoán với chủ rừng. Thông qua hợp đồng khoán, cộng đồng đã tham gia bảo vệ và phát triển rừng. Quyền bảo vệ và phát triển rừng của cộng đồng trong hình thức quản lý rừng dựa vào cộng đồng được thể hiện ở 3 loại hình như sau: một là hoạt động bảo vệ rừng, hai là hoạt động phòng chống cháy rừng, và ba là hoạt động trồng rừng. Hoạt động bảo vệ rừng (BVR) của người dân và cộng đồng được cụ thể hóa thông qua các hoạt động như sau: (1) Tuần tra, kiểm tra BVR, (2) Phát hiện, ngăn chặn, báo cáo các hành vi vi phạm luật bảo vệ và phát triển rừng, (3) Tham gia giải tỏa các diện tích đât lâm nghiệp bị lấn chiếm; các vị trí khai thác khoáng sản trái phép. Cách thức tổ chức cho hoạt động này sẽ là: (a) Chủ rừng giao khoán BVR cho các nhóm hộ theo hợp đồng và trả lương theo quí hoặc doanh nghiệp thuê nhân công theo hợp đồng. (b)Tổ chức các nhóm BVR để phối hợp cùng triển khai hoạt động với các lực lượng chức năng khác. Hoạt động phòng chống cháy rừng của người dân và cộng đồng đó là: (1) Nhận khoán xây dựng Pa Nô tuyên truyền; làm đường PCCCR, làm chòi canh lửa, thu gom vật liệu cháy, (2) Tham gia chữa cháy rừng. Cách thức tổ chức cho hoạt động này sẽ là: (a) Hợp đồng thuê nhân công theo tổ, nhóm, cá nhân hoặc doanh nghiệp huy động nhân công theo thời vụ, (b) Tập huấn kỹ thuật cho người dân, (c) Chủ rừng giám sát thi công và nghiệm thu công trình. Hoạt động trồng rừng của người dân và cộng đồng tham gia đó là: (1) Cung cấp nhân công để thực hiện các công trình lâm sinh. (2) Nhận khoán chăm sóc rừng trồng 3 năm đầu. (3) Nhận khoán BVR mới trồng. Cách thức tổ chức cho hoạt động này sẽ là: (a) Khoán gọn theo diện tích cho người dân. (b) Chủ rừng cung cấp cây giống, vật tư, thiết bị và hướng dẫn kỹ thuật. (c) Chủ rừng giám sát thi công và nghiệm thu công trình.
Lợi ích mà người dân/cộng đồng có được khi tham gia tham gia QLRDVCĐ và thực hiện quyền bảo vệ và phát triển rừng đó là nhận được phí chi trả dịch vụ môi trường rừng thông qua bên trung gian là chủ rừng thể hiện tại Điều 63b của Luật Lâm nghiệp năm 2017: Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư có hợp đồng nhận khoán bảo vệ và phát triển rừng với chủ rừng là tổ chức do Nhà nước thành lập thì được chi trả dịch vụ môi trường rừng. Điều 65 của Luật Lâm nghiệp năm 2017 quy định rõ quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng.
Theo Nghị định 99/2010/ND-CP, PFES là cơ chế tài chính trong đó người được hưởng dịch vụ rừng có trách nhiệm chi trả cho bên cung cấp dịch vụ môi trường rừng. Mục tiêu của chính sách này là giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, đồng thời tạo nguồn tài chính ổn định để bảo vệ và phát triển rừng hiệu quả hơn. Ngoài ra, theo Nghị định này, các loại dịch vụ môi trường rừng (FES) bao gồm bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo tồn cảnh quan và đa dạng sinh học cho du lịch, hấp thụ carbon, cung cấp nguồn nguồn lương thực cũng như các giống cây tự nhiên, và cung cấp nước cho nuôi trồng thủy sản (theo Điều 61 Luật Lâm nghiệp năm 2017).
Năm 2010, Chính phủ Việt Nam đã ban hành mức chi trả cố định cho các dịch vụ bảo vệ lưu vực sông, điều tiết và duy trì nước cũng như làm đẹp cảnh quan. Chính phủ cũng đã xác định các đối tượng cụ thể sử dụng FES và chịu trách nhiệm thanh toán các khoản phí FES này, chẳng hạn như các công ty cấp nước, nhà máy thủy điện và các công ty du lịch. Các nhà cung cấp dịch vụ nhận thanh toán FES là các chủ rừng, bao gồm cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng, Vườn quốc gia (NP) và Khu bảo tồn (PA). Nguồn thu từ PFES đã trở thành nguồn tài chính quan trọng của ngành lâm nghiệp nhờ tăng nguồn thu cho các chủ rừng, giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển rừng9.
Theo quy định tại Thông tư số 80/2011/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc xác định số tiền nộp bình quân một ha rừng được quy định như sau: Giám đốc Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng cấp tỉnh (DBFF) xác định mức số tiền thanh toán từ mỗi người sử dụng PFES để trả cho nhà cung cấp FES. Chủ rừng là tổ chức nhà nước (MNPA) ký hợp đồng với các nhóm bảo vệ rừng (cộng đồng, hộ gia đình) và chịu trách nhiệm xác định số tiền chi trả cho các nhóm nhận khoán10. Do vậy, có thể thấy rằng, quyền của người cung cấp dịch vụ môi trường rừng (thông qua việc ký kết hợp đồng khoán trồng rừng) mà không phải là chủ rừng chủ yếu là quyền lợi về kinh tế. Tức là họ được chi trả một khoản phí nhất định theo quy định của Nhà nước thông qua quỹ chi trả dịch vụ môi trường rừng. Nguồn ngân sách của quỹ này được lấy từ nguồn thu của các công ty cấp nước, nhà máy thủy điện và các công ty du lịch. Các nhà cung cấp dịch vụ là chủ rừng nhận thanh toán phí dịch vụ môi trường và dùng tiền này để chi trả phí dịch vụ cho các nhóm nhận khoán mà không phải là chủ rừng.
Tổ bảo vệ rừng của cộng đồng Tu Mơ Rông phối hợp với Ban Quản lý rừng phòng hộ Tu Mơ Rông, Kon Tum tuần tra bảo vệ rừng.
Nguồn: baodantoc.vn
3. Một số thành tựu và thách thức trong việc thực hiện quyền bảo vệ và phát triển rừng trong quản lý rừng dựa vào cộng đồng thông qua chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES)
Trong những năm gần đây, các chính sách lâm nghiệp đã có tác động tích cực đến hoạt động quản lý bảo vệ rừng. Điều đó tạo động lực cho cộng đồng địa phương tham gia các chương trình bảo vệ rừng, khuyến khích kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật để phát triển nông nghiệp, tạo thu nhập ổn định nhằm giảm áp lực lên tài nguyên rừng. Do sinh kế của người dân địa phương phụ thuộc vào rừng nên người dân sống ở đó có những kiến thức cơ bản liên quan đến bảo vệ và phát triển rừng như địa hình rừng, phân loại thực vật, động vật, sử dụng đất rừng. Họ còn đóng góp một nguồn lao động tiềm năng rất lớn cho hoạt động bảo vệ rừng nên việc hướng dẫn, đào tạo kỹ thuật về bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng cho cộng đồng địa phương là rất quan trọng. Chính quyền địa phương đang có nhiều cơ hội hơn để nhận được hỗ trợ tài chính từ các chương trình phi chính phủ trong nước và quốc tế để phát triển nông nghiệp bền vững và bảo tồn tài nguyên. Các chương trình này đang được thực hiện với mục đích tạo việc làm và cải thiện thu nhập bền vững, sau đó giảm áp lực lên tài nguyên thiên nhiên và giúp bảo tồn đa dạng sinh học địa phương11.
Thực tế cho thấy, tại Việt Nam thì cộng đồng dân cư là đối tượng thích hợp để quản lý các diện tích rừng phòng hộ xa dân cư nơi mà các tổ chức, cơ quan Nhà nước gặp khó khăn trong các hoạt động quản lý bảo vệ rừng. Điểm tích cực của hình thức quản lý rừng này thể hiện ở sự tham gia có hiệu quả của cộng đồng vào các hoạt động quản lý bảo vệ những diện tích rừng không thuộc quyền sử dụng của họ12. Trong thời gian qua, một số diện tích rừng đã được Nhà nước thử nghiệm giao cho cộng đồng thôn, buôn quản lý đều thu được kết quả tốt, chất lượng rừng ngày càng được nâng lên rõ rệt. Do đó, QLRDVCĐ đang trở thành phương thức quản lý rừng có hiệu quả được quan tâm, khuyến khích phát triển13.
Nghiên cứu của Nguyễn Minh Đức và cộng sự năm 2021 và 2024 cho thấy rằng Chính sách PFES dựa vào cộng đồng có hiệu quả cao trong việc thúc đẩy người dân tham gia bảo vệ rừng. Chính sách đã tạo được động lực để cộng đồng tích cực bảo rừng. Động lực này lớn hơn nhiều động lực kinh tế nếu thực hiện PFES trực tiếp cho từng hộ dân. Lý do là vì khi chi trả dịch vụ rừng dựa vào cộng đồng, cộng đồng có được nguồn tài chính đều đặn và đủ để trang trải cho các hoạt động tuần tra bảo vệ rừng thường xuyên. Thêm vào đó, cơ chế này đã kích hoạt và phát huy cơ chế quản lý rừng dựa vào cộng đồng. Nhờ có nguồn kinh phí từ chính sách PFES và cộng đồng có quyền quản lý nguồn kinh phí này, quy ước quản lý rừng cộng đồng được văn bản hóa, được xây dựng với sự đồng thuận cao của người dân và đi vào cuộc sống với khả năng bảo đảm cơ chế giám sát cộng đồng chặt chẽ và có hiệu lực. Ở Điện Biên, nơi hầu hết các khu rừng do cộng đồng quản lý, các khoản thanh toán được thực hiện cho các nhóm hoặc cộng đồng chứ không phải cho cá nhân. Ngược lại, ở Hòa Bình và Sơn La, các khoản thanh toán được thực hiện trực tiếp cho các nhà cung cấp cá nhân hoặc cho các cộng đồng sau đó phân phối cho các nhà cung cấp cá nhân. Sự khác biệt này phản ánh mức độ tham gia khác nhau của cộng đồng vào việc thực hiện PFES14. Một số cộng đồng, mặc dù được thanh toán trực tiếp, vẫn tự nguyện thành lập một quỹ cộng đồng, đóng góp 10% đến 50% số tiền nhận được cho các hoạt động bảo vệ rừng hoặc phân phối đều cho tất cả các hộ gia đình15. Do vậy, chính sách PFES cũng đạt được một số thành công nhất định trong việc thúc đẩy quản lý rừng dựa vào cộng đồng. Thành công này không chỉ đến từ việc giao rừng cho cộng đồng quản lý và thực hiện thanh toán thông qua cộng đồng. Yếu tố quan trọng mang lại thành công là chính sách có thể kích thích và thúc đẩy năng lực tự quản của cộng đồng địa phương, đặc biệt là đưa cơ chế thực thi của cộng đồng vào thực tiễn.
Thành tựu đáng chú ý nữa đó là việc sử dụng các tổ chức xã hội do Nhà nước lãnh đạo để nâng cao hiểu biết của người dân về giá trị rừng. PFES tiến hành các hoạt động truyền thông thông qua các tổ chức xã hội này. Ở những vùng khó khăn như Tây Bắc Việt Nam, các hộ gia đình địa phương duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức xã hội, chẳng hạn như hội Phụ nữ, Nông dân và Đoàn Thanh niên, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện cho người dân tiếp cận các nguồn lực để sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế, bao gồm tín dụng và các kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Do đó, thông qua các hoạt động truyền thông của các tổ chức này, nhận thức của người dân về giá trị rừng có được nâng cao và sự cải thiện này được kỳ vọng sẽ định hướng hành vi của họ theo mục tiêu bảo vệ rừng theo chính sách PFES16. Tô và Dressler cũng cho rằng PFES đóng vai trò là công cụ để Nhà nước, thông qua các tổ chức chính trị - xã hội của mình, duy trì quyền kiểm soát đối với ngành lâm nghiệp nói chung và đạt được mục tiêu bảo vệ rừng nói riêng17.
Những thách thức trong quá trình triển khai QLRDVCĐ, các cộng đồng làm lâm nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, trong đó có trình độ học vấn thấp, sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa giữa các dân tộc và người trồng rừng. Họ cũng thiếu trang thiết bị, phương tiện thiết yếu. Nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ nhân viên có tay nghề cao, chưa đủ để quản lý hiệu quả. Với các chương trình hỗ trợ sinh kế hoặc chương trình bảo tồn địa phương, có khả năng bị rút vốn hoặc thiếu vốn khi thực hiện dự án do ngân sách nhà nước hạn chế để thực hiện nhiều chương trình cùng một lúc18. Mặc dù chính sách PFES cũng tạo ra các động lực kinh tế để thay đổi hành vi của người dân ở cấp hộ gia đình, những hỗ trợ từ việc chi trả dịch vụ môi trường rừng này mới chỉ đóng góp 1,8% thu nhập của hộ gia đình và không tương xứng với những nỗ lực bỏ ra để bảo vệ rừng19. Do đó, có lý do khi cho rằng bất chấp những nỗ lực của Chính phủ nhằm tăng mức thanh toán cho bảo vệ rừng, sự điều chỉnh này vẫn ở mức tối thiểu và chưa chuyển đổi cách tiếp cận chính sách sang cơ chế thị trường20.
Nghiên cứu trường hợp tại xã Đạ Tông, tỉnh Lâm Đồng đã chỉ ra rằng sự tham gia của người dân và cộng đồng vào công tác QLR ở địa bàn xã Đạ Tông phổ biến ở 2 hình thức đó là đóng góp lao động và chia sẻ trách nhiệm, ở mức độ của sự tham gia là do tác động của thuyết phục, giáo dục mà có. QLRDVCĐ đã tạo được nguồn sinh kế cho các hộ gia đình (HGĐ). Trong cơ cấu thu nhập của các nhóm HGĐ, ngoài nguồn thu chính từ cà phê thì thu nhập từ khoán BVR cũng có tỷ trọng lớn. Đặc biệt thu nhập từ khoán BVR có ảnh hưởng mạnh nhất đối với các HGĐ nhóm nghèo, chiếm tỷ trọng tới 54% trong cơ cấu thu nhập của các HGĐ nhóm này. Cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, sử dụng đất lâm nghiệp sai mục đích và trình độ nhận thức hạn chế của người dân đang là những hạn chế gây nhiều cản trở đối với sự tham gia của người dân vào QLR ở địa bàn nghiên cứu. Vì vậy, xác lập rõ ràng quyền sử dụng đất và nghĩa vụ của chủ rừng để tạo hành lang pháp lý; xây dựng cơ chế đặc thù của địa phương để khuyến khích các chủ rừng tăng cường cung ứng các dịch vụ công cộng; đẩy mạnh sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp, chính quyền địa phương và cộng đồng là những giải pháp ưu tiên hàng đầu để thu hút sự tham gia của người dân vào QLR21.
4. Một số giải pháp để tăng quyền bảo vệ và phát triển rừng trong quản lý rừng dựa vào cộng đồng thông qua chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) tại Việt Nam
Thứ nhất, cần xây dựng cơ chế khuyến khích cho cả hai phía, dựa trên nguyên tắc cùng có lợi, cụ thể là nếu chủ rừng tích cực phối hợp với cộng đồng để cùng quản lý rừng thì rừng của họ sẽ được bảo vệ rừng hiệu quả hơn. Trong khi đó nếu cộng đồng hưởng ứng tích cực và tham gia các hoạt động quản lý rừng cùng với chủ rừng sẽ đem lại nguồn thu nhập ổn định và có cơ hội phát triển sinh kế dựa vào dịch vụ môi trường rừng. Bên cạnh đó, trong quá trình thực thi chính sách cần có các giải pháp về sinh kế thay thế cho nhóm hộ nghèo để họ không bị thiệt thòi khi mất đi nguồn sinh kế từ rừng. Đồng thời, cần có cơ chế đặc thù của địa phương để khuyến khích các chủ rừng tăng cường cung ứng các dịch vụ công cộng như du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng... với sự tham gia của cộng đồng để kết hợp vừa bảo tồn môi trường sinh thái vừa tạo nguồn thu nhập ổn định cho người dân địa phương, tạo động lực kinh tế cho việc bảo vệ rừng và hỗ trợ sinh kế và phát triển kinh tế cho các dân tộc thiểu số.
Thứ hai, chính sách PFES cũng nên được sử dụng kết hợp giữa lợi ích kinh tế và các cơ chế phi kinh tế, bao gồm sự tham gia của cộng đồng và các phương pháp tiếp cận do Nhà nước tác động, để khuyến khích các hộ gia đình địa phương bảo vệ rừng22. Trong điều kiện nguồn tài chính còn hạn hẹp không đủ để tạo ra động lực kinh tế cho từng hộ dân thì việc thúc đẩy cơ chế PFES dựa vào cộng đồng là hợp lý. Thêm vào đó, để cơ chế này phát huy hiệu quả thì cần tăng cường nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của bảo vệ rừng, năng lực tự quản của cộng đồng, đặc biệt là năng lực quản lý nguồn tài chính từ PFES đảm bảo hợp lý và minh bạch. Cần củng cố các tổ chức cộng đồng hiện có tại các thôn để nâng cao năng lực của cộng đồng. Khi các chế độ tự quản của cộng đồng về cơ chế giám sát, khen thưởng và trừng phạt trong quản lý rừng được kích hoạt hiệu quả, sự tham gia của cộng đồng vào việc thực hiện PFES và quản lý rừng sẽ mang lại kết quả tích cực23. Đồng thời, cần rà soát, bổ sung các qui định trong Qui ước đã xây dựng để Qui ước thực sự gần gũi với người dân, tránh tính hình thức, dễ dàng đi vào cuộc sống của họ, tạo điều kiện để phát huy vai trò đích thực của cộng đồng địa phương. Cũng cần tiếp tục nâng cao vai trò của các tổ chức cộng đồng và mạng lưới xã hội để tăng cường hiệu quả của chính sách trong việc thúc đẩy thái độ và hành vi bảo vệ rừng trong cộng đồng.
Cuối cùng, cũng cần đẩy mạnh sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp, chính quyền địa phương và cộng đồng trong việc xây dựng kế hoạch, thực thi và giám sát các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng để thu hút sự tham gia của cộng đồng.
TS. Phan Thanh Thanh
Viện Nghiên cứu Con người, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 41/2024
---
Bài viết này là một sản phẩm của đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2024 “Thực hiện quyền quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại Lào Cai” do TS. Phan Thanh Thanh làm chủ nhiệm, Viện Nghiên cứu Con người là cơ quan chủ trì.
Tài liệu tham khảo
Tài liệu Tiếng Việt:
1. Hà, Trần Việt, Nguyễn Trọng Mận, Phạm Thị Quỳnh, 2020. “Thực trạng và giải pháp cho quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại xã Đạ Tông, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng”. Tạp chí khoa học và công nghệ lâm nghiệp 1 (2020): 044-052.
2. Minh, Đức Nguyễn, Diệp Đỗ Thị, và Huyền Đỗ Thị Thanh, 2021. "Chi trả dịch vụ môi trường rừng dựa vào cộng đồng: Nghiên cứu tại huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên", Tạp chí Kinh tế và Phát triển 291 (2) (2021): 45-55.
3. Trần Việt Hà, Phạm Quang Vinh, Kiều Trí Đức, Vũ Tiến Hưng, Phạm Xuân Phương, Trần Văn Châu, 2015. Sổ tay hướng dẫn thực hiện mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng cho các Ban quản lý rừng phòng hộ tại tỉnh Nghệ An. Dự án USAID.
4. Quốc hội, 2013. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
5. Chính phủ, 2010. Nghị định về tổ chức và quản lý hệ thống rừng đặc dụng. Số 117/2010/NĐ-CP.
6. Chính phủ, 2010. Nghị định về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Số 99/2010/NĐ-CP.
Tài liệu Tiếng Anh:
1. Alemagi, D., Hajjar, R., David, S., & Kozak, R. A. (2012). Benefits and barriers to certification of community-based forest operations in Cameroon: An exploratory assessment. Small-Scale Forestry, 11, 417-433.
3. Bayrak, M. M., & Marafa, L. M. (2020). REDD+ as a vehicle for community-based forest management? Critical insights from Vietnam. Small-scale Forestry, 19(1), 57-81.
5. Maryudi, A., & Krott, M. (2012). Local struggle for accessing state forest property in a montane forest village in Java, Indonesia.
6. McElwee, P., Van Le, H. T., Nghiem, T., & Vu, H. T. D. (2022). The challenges of collective PES: Insights from three community-based models in Vietnam. Ecosystem Services, 56, 101438.
7. Nath, T. K., Jashimuddin, M., & Inoue, M. (2016). Community-based forest management (CBFM) in Bangladesh (Vol. 22). Switzerland: Springer.
8. Pham, T. V. (2015, June). Lessons and Experiences from Implementation of PFES in Vietnam. In ASFN Workshop Inle Lake, Shan State, Myanmar (pp. 1-3).