Ngày nay, sự phát triển của khoa học kĩ thuật đã mang lại những sản phẩm công nghệ thiết thực phục vụ đời sống của con người. Song đối mặt với điều đó là những sản phẩm, thiết bị bị loại bỏ sau khi đã hết thời hạn sử dụng hoặc bị hư hỏng góp phần gia tăng đáng kể lượng rác thải điện tử. Rác thải điện tử đã và đang trở thành vấn nạn lớn của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích những quy định của pháp luật về quản lý rác thải điện tử, từ đó đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý rác thải điện tử nhằm bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam.
Ảnh minh hoa. Nguồn: monre.gov.vn
Đặt vấn đề
Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và mức sống của người dân ngày càng được cải thiện, nhu cầu sử dụng thiết bị điện tử trong những năm gần đây có xu hướng gia tăng. Đặc biệt, quá trình hội nhập quốc tế khiến cho việc sản xuất và kinh doanh thiết bị điện tử tại Việt Nam trở thành điểm đến của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước, do vậy, thị trường sản xuất và kinh doanh thiết bị điện tử trở nên nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Để cạnh tranh với nhau, mỗi doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thiết bị điện tử đều đặt ra những chiến lược riêng như giảm giá thành sản phẩm, đưa ra mẫu mã mới, phát minh thêm công năng..., do vậy, người tiêu dùng cũng liên tục thay thế các thiết bị điện tử của mình, kể cả trong trường hợp thiết bị điện tử vẫn còn tác dụng, dẫn đến tốc độ phát sinh lượng lớn chất thải điện tử vào môi trường. Theo số liệu thống kê của GESP, riêng năm 2019, Việt Nam có 514.000 tấn sản phẩm điện tử được đưa ra thị trường, phát sinh 257.000 tấn chất thải điện tử, với mức bình quân 2.7kg/người[1]. Cùng với đó, theo thống kê từ Viện Khoa học và Công nghệ môi trường, Đại học Bách khoa Hà Nội cũng đưa ra số liệu thống kê, rằng mỗi năm, Việt Nam phát sinh khoảng 100.000 tấn chất thải điện tử, ước tính đến năm 2025, riêng lượng rác thải tivi có thể lên tới 250.000 tấn[2]. Do đó, việc nghiên cứu các quy định pháp luật điều chỉnh việc áp dụng quản lý rác thải điện tử, thực tiễn thực hiện các quy định đó để đưa ra các đề xuất hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 là hết sức cần thiết.
1. Khái quát về rác thải điện tử
Rác thải điện tử, còn được gọi là chất thải điện tử, là các thiết bị điện, điện tử hoặc một phần của thiết bị điện – điện tử bị thải bỏ sau một thời gian sử dụng.
Xã hội càng phát triển thì vấn đề rác thải điện tử ngày càng trở thành mối hiểm họa mà nhiều nước phải đối đầu, nhất là đối với nhóm các nước đang phát triển, bao gồm cả Việt Nam. Việc sử dụng các thiết bị điện tử cho mục đích gia đình và thương mại đã tăng nhanh chóng. Rác thải điện tử thường bao gồm một loạt các vật liệu nguy hiểm bao gồm kim loại, chất gây ô nhiễm, bảng mạch, màn hình máy tính, màn hình ti vi, màn hình điện thoại mạch điện, nhựa và hỗn hợp kim loại - nhựa. Do đó, để đảm bảo được cuộc sống bền vững, môi trường trong lành thì quản lý môi trường trong đó có quản lý rác thải điện tử đóng vai trò hết sức quan trọng. Bởi, việc quản lý được rác thải điện tử sẽ giảm thiểu nguồn đất, nước và không khí bị ô nhiễm bởi các chất độc có trong rác thải điện tử xâm nhập và phát tán ra môi trường. Việc xử lí được các chất độc hại có trong rác thải điện tử có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí đúng cách, đúng quy trình sẽ làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên.
Mặc khác, quản lý tốt rác thải điện tử sẽ kiểm soát số lượng, chủng loại, con đường thải ra môi trường của rác thải điện tử, từ đó có biện pháp xử lý phù hợp đúng cách. Ngoài ra, việc quản lý góp phần hỗ trợ cho công tác dự báo liên quan đến các vấn đề về rác thải điện tử để cộng đồng có thể biết từ đó có các biện pháp phòng ngừa, ứng phó tránh tình trạng bị động.
Quản lý rác thải điện tử góp phần nâng cao ý thức của người tiêu dùng về sử dụng và thải bỏ thiết bị điện, điện tử một cách bền vững, từ đó thúc đẩy các giải pháp tái chế và sửa chữa, tái sử dụng lại các vật dụng điện, điện tử góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xanh.
2. Thực trạng pháp luật về quản lý về rác thải điện tử ở Việt Nam
Thứ nhất, quy định về việc quản lý rác thải điện tử tại nguồn phát sinh
Việc quản lý rác thải tại nguồn phát sinh là một trong những yêu cầu tất yếu của công tác bảo vệ môi trường. Việt Nam đã có những quy định của pháp luật: Quyết định số 2149/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, mục tiêu tầm nhìn đến 2050; Quyết định số 450/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược quốc gia bảo vệ môi trường tầm nhìn đến năm 2030,…Đặc biệt tại khoản 1 Điều 72 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 (Luật BVMT năm 2020) đã quy định về yêu cầu chung về quản lý chất thải rắn sinh hoạt, chất thải nguy hại và chất thải rắn công nghiệp thông thường và quy định tại Điều 56 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP về yêu cầu chung về quản lý chất thải rắn. Pháp luật môi trường quy định rõ thẩm quyền cấp giấy phép môi trường chi tiết tại Điều 41 Luật BVMT năm 2020. Tại Nghị định 08/2022/NĐ-CP quy định chủ nguồn thải phải khai báo chất, loại chất thải nguy hại trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép môi trường hoặc nội dung môi trường. Căn cứ vào Nghị định 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, tại phần Phụ lục II của Nghị định này có quy định rác thải điện tử (sản xuất linh kiện, thiết bị điện, điện tử với công suất lớn, trung bình) là loại hình sản xuất kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ nguy hại cho môi trường. Trách nhiệm phòng ngừa sự cố môi trường được quy định tại Điều 122 của Luật BVMT năm 2020. Chủ nguồn của rác thải điện tử phải có trách nhiệm trong việc thực hiện các kế hoạch, biện pháp, các trang thiết bị phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, phải thường xuyên kiểm tra, áp dụng biện pháp quản lý tại nơi lưu giữ rác thải điện tử, ngăn ngừa nguy cơ xảy ra sự cố ô nhiễm môi trường.
Trách nhiệm phòng ngừa sự cố môi trường không chỉ thuộc về chủ nguồn rác thải điện tử mà còn thuộc về cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương (Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh), có trách nhiệm điều tra, thống kê cơ sở dữ liệu, xây dựng năng lực phòng ngừa nguy cơ sự cố môi trường ở địa phương. Đối việc việc quản lý rác điện tử thì chính các doanh nghiệp sản xuất thiết bị điện tử trong nước và chủ nhập khẩu rác thải điện tử từ nước ngoài phải được cấp giấy phép môi trường có trách nhiệm phòng ngừa ô nhiễm môi trường, quản lý toàn bộ trong quá trình phát sinh, phân loại, thu gom, tái sử dụng,... rác thải điện tử hoặc phải có trách nhiệm chuyển giao cho cơ sở có chức năng, giấy phép môi trường để xử lý. Chủ nguồn của rác thải điện tử phải có trách nhiệm với chính rác thải điện tử, nếu không phân loại, thu gom, tái sử dụng được thì phải chuyển giao cho cơ sở có khả năng thực hiện. Nhưng trên thực tế, vẫn còn trường hợp, chủ nguồn không có khả năng phân loại, thu gom mà tiến hành đổ trực tiếp rác thải điện tử ra môi trường hay việc chủ nguồn chuyển giao rác thải điện tử cho cơ sở không có chuyên môn, không được cấp giấy phép môi trường để xử lý.
Quy định của pháp luật đã chỉ ra trách nhiệm quản lý rác thải điện tử sẽ ngay tại nguồn mà nó phát sinh ra bên ngoài. Tuy nhiên, quy định về quản lý rác thải điện tử thông qua việc quản lý chất thải rắn, chất thải nguy hại lại chỉ có áp dụng tại các doanh nghiệp, chủ nhập khẩu rác thải điện tử mà không áp dụng đối với người tiêu dùng. Vì Nhà nước chưa tiến hành việc quản lý rác thải điện tử từ người tiêu dùng, chưa kiểm soát số lượng người tiêu dùng thải rác thải điện tử ra bên ngoài, cũng như chưa có cơ quan chức năng, quản lý nhà nước trực tiếp tiến hành việc thu gom rác thải điện tử. Có thể thấy, đối với quy định của pháp luật về quản lý rác thải điện tử tại nguồn ngày nay thì tất cả các chủ nguồn thải đều phải thực hiện quy định về quản lý chất thải nguy hại trong đó có rác thải điện tử. Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn chung chung và chưa có hướng dẫn cụ thể, việc phân loại rác thải điện tử còn diễn ra đơn lẻ, chưa tập trung.
Thứ hai, quy định về việc thu gom, vận chuyển rác thải điện tử
Căn cứ tại khoản 3 Điều 83 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 thì việc vận chuyển chất thải nguy hại phải được lưu chứa và vận chuyển bằng thiết bị, phương tiện chuyên dụng phù hợp đến cơ sở xử lý chất thải. Phương tiện vận chuyển chất thải nguy hại phải lắp đặt thiết bị định vị; hoạt động theo tuyến đường và thời gian mà Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định. Trong quá trình này, chủ nguồn thải có thể tự tiến hành thu gom, vận chuyển nếu có đủ các điều điện đáp ứng theo quy định của pháp luật và được cấp phép. Nếu chủ nguồn của rác thải điện tử không có khả năng, năng lực, trình độ để có thể thực hiện việc thu gom và vận chuyển theo quy định của pháp luật thì phải chuyển giao rác thải điện tử cho cơ sở có giấy phép thực hiện việc thu gom, vận chuyển rác thải điện tử. Việc tiến hành thu gom này sẽ giúp dễ dàng hơn cho khâu vận chuyển và khâu tiến hành tái chế rác thải điện tử. Ngoài ra, thu gom rác thải điện tử sẽ góp phần giảm gây ô nhiễm môi trường, giảm thiểu chi phí vận chuyển, xử lý rác thải điện tử.
Bên cạnh đó, căn cứ tại Điều 37 Thông tư 02/2022/TT-BTNMT thì việc vận chuyển chất thải nguy hại còn phải đáp ứng những yêu cầu kỹ thuật về bảo vệ môi trường đối với phương tiện vận chuyển chất thải nguy hại: (1) Đối với một số loại phương tiện vận chuyển chất thải nguy hại, (2) Đối với việc vận chuyển chất thải nguy hại trên tàu thủy, xà lan, tàu hỏa. (3) Khi phương tiện vận chuyển chất thải nguy hại khi đang hoạt động phải được trang bị các thiết bị, dụng cụ, vật liệu.
Như vậy, đối với việc vận chuyển rác thải điện tử cũng cần phải đáp ứng những yêu cầu theo quy định của pháp luật. Khi tiến hành vận chuyển thì rác thải điện tử cần có phương tiện chuyên dụng để tiến hành vận chuyển rác thải điện tử đến nơi xử lý chất thải. Phương tiện vận chuyển cần phải tuân theo những yêu cầu nhất định như: xe tải thùng hở thì phải phủ bạt, phải có thiết bị liên lạc, vật liệu thấm hút, thiết bị phòng cháy chữa cháy,... các yêu cầu được quy định chi tiết và khoa học một cách cụ thể để đảm bảo việc ngăn ngừa các chất độc hại ra bên ngoài khi lưu thông, giảm thiểu tối đa rủi ro có thể xảy đến khi đang vận chuyển rác thải điện tử.
Thứ ba, quy định về về xử lý, tiêu hủy rác thải điện tử
Hoạt động xử lý chất thải nguy hại theo khoản 3 điều 8 Nghị định 08/2022/NĐ-CP là quá trình sử dụng các giải pháp công nghệ, kỹ thuật (khác với sơ chế) để giảm, loại bỏ, cô lập, cách ly, đốt cháy, tiêu hủy, thải chất thải và các yếu tố nguy hại trong chất thải. Do đó, hoạt động xử lý rác thải điện tử cũng chính là việc áp dụng, sử dụng các công nghệ, giải pháp kỹ thuật phù hợp để tiến hành việc loại bỏ, cô lập, cách ly, đốt cháy, tiêu hủy, thải chất thải các chất nguy hại, kim loại nặng có trong rác thải điện tử.
Theo quy định tại Điều 84 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 thì xử lý chất thải nguy hại phải được xử lý bằng công nghệ phù hợp và đáp ứng quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, đối với hoạt động xử lý chất thải nguy hại này, Nhà nước có những chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động đầu tư, cung cấp dịch vụ xử lý chất thải nguy hại. Đặc biệt là các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư vào cơ sở hạ tầng để thực hiện xử lý chất thải nguy hại ở cấp vùng và đồng xử lý chất thải nguy hại.
Vậy để có thể xử lý, tiêu hủy rác thải điện tử nói riêng thì các cơ sở, doanh nghiệp tiến hành hoạt động xử lý, tiêu hủy rác thải điện tử phải đáp ứng được tất cả các yêu cầu, quy định có giấy phép môi trường, yêu cầu về nhân sự có chuyên môn phụ trách về bảo vệ môi trường, công nghệ xử lý rác thải điện tử, quy trình vận hành an toàn công nghệ, phương tiện, thiết bị chuyên dụng, có kế hoạch quản lý môi trường, an toàn lao động cho người lao động, ký quỹ bảo vệ môi trường, việc xử lý rác thải điện tử phải phù hợp với quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia thì mới có thể thực hiện hoạt động xử lý, tiêu hủy rác thải điện tử.
Thứ tư, quy định xử lý vi phạm pháp luật về rác thải điện tử
Pháp luật hiện nay quy định về việc xử lý vi phạm hành chính, dân sự, hình sự. Ngoài ra, quy định của pháp luật về phòng ngừa, ứng phó rác thải điện tử là điều cần thiết, bởi khi có sự cố rác thải điện tử thì hậu quả rất nặng nề. Do vậy, công tác phòng ngừa, ứng phó đối với sự cố môi trường cần được quan tâm, thực hiện đúng các tiêu chí kỹ thuật. Việc chỉ ra trách nhiệm của các chủ thể trong việc ứng phó, phòng ngừa sự cố môi trường gây ra khiến cho các chủ thể phải thực hiện đúng trách nhiệm của mình, thực hiện tốt nhiệm vụ nếu không sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý
3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quản lý rác thải điện tử nhằm bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam
Thứ nhất, kiện toàn khung pháp lý về rác thải điện tử.
Trong thời gian tới, cần hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý rác thải điện tử. Các quy định cần nêu rõ, đầy đủ, chính xác: chủ thể phát sinh rác thải điện tử; chủ thể có trách nhiệm đối với việc quản lý rác thải điện tử; các điều kiện, tiêu chí khi tiến hành phân loại, thu gom, xử lý rác thải điện tử; phương thức tiêu hủy rác thải điện tử; những quy định riêng về biện pháp phòng ngừa, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường do rác thải điện tử gây ra; những hỗ trợ, chính sách cho chủ thể quản lý rác thải điện tử… Ngoài ra, cần xây dựng định nghĩa về rác thải điện tử, bổ sung quy chuẩn kỹ thuật môi trường về rác thải điện tử, xây các quy định về điều kiện cơ sở thu mua phế liệu rác thải điện tử bởi rác thải điện tử có chứa các thành phần nguy hại nếu không đáp ứng được các điều kiện nhất định các cơ sở này tiềm ẩn nguy cơ gây tác động xấu tới môi trường và sức khỏe con người.
Thứ hai, bổ sung các quy định về chính sách hỗ trợ, ưu đãi về rác thải điện tử
Chính phủ cần thúc đẩy hơn nữa các chương trình hành động liên quan tới rác thải điện tử nhằm từng bước giảm thiểu lượng rác thải điện được thải ra. Để thực hiện được mục tiêu này thì việc hỗ trợ, khuyến khích, ưu đãi các chủ đầu tư xử lý rác thải điện tử là rất cần thiết. Các chủ đầu tư cần được hỗ trợ về mặt bằng, nguồn vốn, cơ sở hạ tầng và hơn hết là công nghệ, chuyển giao kĩ thuật tiên tiến để từng bước thực hiện có hiệu quả quy trình xử lý rác thải điện tử.
Thứ ba, bổ sung quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, người tiêu dùng trong việc xử lý rác thải
Luật BVMT năm 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành có quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, từ ngày 01/01/2024 các nhà sản xuất nhập khẩu pin, ắc quy sẽ phải thực hiện tái chế hoặc đóng phí hỗ trợ tái phí, tuy nhiên đối tượng chịu sự điều chỉnh các quy định của pháp luật này còn chưa bao trùm, vì vậy cần mở rộng đối tượng liên quan đến rác thải điện tử, đặc biệt là rác thải điện tử tiêu dùng, bởi phần lớn đất nước ta khu vực nông chiếm tỉ trọng lớn trong thành phần xã hội, tại các khu vực này chưa có các hoạt động, chương trình thu gom rác thải quy mô mà đa phần là tự phát, đơn lẻ. Hiện nay, bộ quy tắc ESG (Môi trường, xã hội, quản trị doanh nghiệp) cũng là một thước đo quan trọng để đánh giá sự phát triển bền vững, những tác động và ảnh hưởng của doanh nghiệp tới cộng đồng. Ngoài ra, cần có quy định người tiêu dùng phải có trách nhiệm trong hoạt động quản lý rác thải điện tử. Việc phân loại rác thải điện tử như các thiết bị điện tử, cục pin, sạc,... phải được để riêng để nhà sản xuất tiến hành thu hồi hoặc chuyển giao cho công ty tái chế có giấy phép môi trường.
Kết luận
Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về môi trường, có nhiều cơ chế chính sách nhằm quản lý rác thải nói chung và rác thải điện tử riêng nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi pháp luật vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập khiến việc thực hiện của các chủ thể còn gặp nhiều lúng túng, khó khăn. Do đó, pháp luật về quản lý rác thải điện tử cần được hoàn thiện và phù hợp với tình hình thực tiễn nhằm giúp các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, người dân dễ dàng thực thi. Quản lý rác thải điện tử cần được hoàn thiện và xây dựng nhằm đáp ứng đồng bộ trên các phương diện: quản lý rác thải điện tử tại nguồn; quá trình thu gom, vận chuyển, xử lí và các chế tài xử lí các hành vi vi phạm về rác thải điện tử đảm bảo lợi ích hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và môi trường bền vững.
Nguyễn Thanh An
Học viên cao học Trường Đại học Luật Hà Nội
* Bài viết là kết quả nghiên cứu trong khuôn khổ Đề tài luận văn thạc sĩ “Pháp luật về quản lý rác thải điện tử và thực tiễn thực hiện tại Việt Nam” theo quyết định của Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội.
[1]https://quanly.moitruongvadothi.vn/30/25873/Viet-Nam-phat-sinh-khoang-100000-tan-rac-thai-dien-tu-moi-nam.aspx
[2] https://vjst.vn/vn/tin-tuc/9706/xu-ly-rac-thai-dien-tu--giai-phap-nao-cho-viet-nam.aspx