Phụ nữ nên được tiếp cận tốt hơn với các mô hình kinh doanh để phát triển, bao gồm các kỹ năng, công cụ để mở rộng kinh doanh, tạo ra việc làm thực sự và các tác động kinh tế có thể đo đếm được. Việc bảo đảm quyền kinh tế của phụ nữ có tác động lớn trong phát triển kinh tế nói chung, đặc biệt là góp phần giảm nghèo. Các dự án và chiến lược thương mại sẽ giải quyết các vấn đề về giới, từ đó sẽ dẫn đến sự hội nhập của phụ nữ vào những chuỗi giá trị toàn cầu và hệ thống thương mại đa quốc gia. Để đạt được bình đẳng giới, việc bảo đảm quyền kinh tế của phụ nữ là cần thiết - nhằm thúc đẩy các khung chính sách về vấn đề này.
1. Một số vấn đề chung về bảo đảm quyền kinh tế của phụ nữ trong thúc đẩy bình đẳng giới
a) Quan niệm về bảo đảm quyền kinh tế của phụ nữ
Bảo đảm quyền kinh tế cho phụ nữ không chỉ là yếu tố then chốt để đạt được bình đẳng giới mà còn là một phần không thể thiếu trong việc thúc đẩy các mục tiêu phát triển toàn diện hơn. Bảo đảm quyền này không chỉ là vấn đề xã hội và chính trị mà còn là một yếu tố kinh tế quan trọng. Để đạt được điều này, cần tăng cơ hội việc làm cho phụ nữ với mức lương phù hợp và nâng cao chất lượng công việc, đồng thời đảm bảo quyền lợi và quyền tham gia vào quyết định trong công việc. Điều quan trọng là đảm bảo phụ nữ có thể tham gia vào các công việc bền vững, có mức lương đủ sống và ký hợp đồng lao động. Tuy nhiên, các chính sách kinh tế hiện tại đang tác động tiêu cực đến các mục tiêu này, thúc đẩy sự cạnh tranh giảm giá lao động và điều kiện làm việc, làm cho các doanh nghiệp có xu hướng cắt giảm chi phí.
Cần phải thấy rằng, một phụ nữ được bảo đảm quyền kinh tế thì sẽ có khả năng để thành công trong lĩnh vực kinh tế và đảm bảo để thực hiện và đưa ra các quyết định kinh tế1. Phương pháp tiếp cận bảo đảm quyền kinh tế tập trung vào những yếu tố giúp phụ nữ thành công và thăng tiến trên thị trường. Điều này bao gồm tăng cường các kỹ năng và khả năng tiếp cận các nguồn lực sản xuất, cải thiện môi trường thể chế, và hỗ trợ phụ nữ trong khả năng của họ để thực hiện và hành động theo quyết định để được hưởng lợi từ sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Bảo đảm quyền kinh tế của phụ nữ là điều kiện tiên quyết cho phát triển bền vững và góp phần đạt được "Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ" của Liên hợp quốc. Sự tham gia và tăng cường năng lực kinh tế cho phụ nữ là nền tảng để nâng cao quyền của họ, cho phép họ tự quyết định cuộc sống và khẳng định vị thế trong xã hội.
Nâng cao vai trò của phụ nữ trong nền kinh tế là một giải pháp quan trọng giải quyết khủng hoảng tài chính và kinh tế. Khi phụ nữ có thu nhập cao hơn, họ sẽ đầu tư nhiều hơn vào y tế, giáo dục, và dinh dưỡng cho trẻ em. Điều này dẫn đến tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững trong dài hạn. Ngoài việc để trở thành “nền kinh tế thông minh”, trao quyền cho phụ nữ về kinh tế còn là một trong những động lực quan trọng sau tăng trưởng kinh tế và chống đói nghèo. Trong vấn đề này, cam kết chính trị quan trọng hơn lời nói. Cần có những hành động cụ thể, nguồn lực ưu tiên – và thiết lập những quan hệ đối tác mới nhằm đảm bảo các cơ hội cho phụ nữ trở thành nhà lãnh đạo, doanh nhân và người nội trợ.
b) Căn cứ pháp lý
Công ước quốc tế về chống lại mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) là văn kiện quan trọng và toàn diện nhất về quyền bình đẳng của phụ nữ. Công ước của Liên hợp quốc được xây dựng trên cơ sở các mục tiêu nhằm bảo vệ nhân phẩm, phẩm giá và các quyền cơ bản của con người, đồng thời khuyến khích sự bình đẳng giới giữa phụ nữ và nam giới.
Công ước CEDAW đề cập đến quyền của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế trên những nội dung sau: i) Quyền vay tiền và tham gia tín dụng (Điều 13, 14): là những điều đề cập đến việc phụ nữ có quyền tiếp cận các hình thức tín dụng và vốn vay, bao gồm các khoản vay ngân hàng và các cơ hội tài chính khác dành cho nông nghiệp, các cơ hội thị trường, và công nghệ phù hợp; ii) Quyền được hưởng cơ hội làm việc và phúc lợi xã hội bình đẳng (Điều 11, 14): là những điều đề cập đến việc phụ nữ và nam giới có quyền bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội làm việc, áp dụng các tiêu chuẩn tuyển dụng như nhau, và nhận thù lao công bằng dựa trên thành quả lao động. Quyền này bao gồm việc nhận phúc lợi xã hội và được đánh giá công bằng trong công việc có giá trị ngang nhau2.
Tại Việt Nam, vấn đề bình đẳng giới luôn được Đảng và Nhà nước chú trọng. Nguyên tắc này đã trở thành một phần quan trọng của Hiến pháp năm 2013 và được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp từ trước đến nay. Theo Hiến pháp và các chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, bình đẳng giới đã được cụ thể hóa qua các văn bản pháp luật bao trùm hầu hết các lĩnh vực, trong đó bao gồm lĩnh vực lao động. Trong Bộ luật Lao động hiện hành, nguyên tắc bình đẳng giới là một yếu tố xuyên suốt mọi quy định điều chỉnh các lĩnh vực như việc làm, học nghề, đào tạo nghề; giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; an toàn lao động, vệ sinh lao động; tiền lương; bảo hiểm xã hội (BHXH); và kỷ luật lao động. Bình đẳng giới trong lĩnh vực này được đề cập trong Luật Bình đẳng giới năm 2006, Bộ luật Lao động năm 2019 (BLLĐ), và nhiều văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành. Theo BLLĐ năm 2019, Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền làm việc bình đẳng của lao động nữ và khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm thường xuyên. Nhà nước còn khuyến khích áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc bán thời gian và làm việc tại nhà. Bộ luật này đã dành riêng một chương (Chương X) để quy định về lao động nữ. Nhà nước cũng đưa ra các biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe, và tăng cường phúc lợi vật chất và tinh thần cho lao động nữ, nhằm giúp họ phát huy hiệu quả năng lực nghề nghiệp và kết hợp hài hòa cuộc sống lao động và gia đình. Luật quy định rõ ràng việc nghiêm cấm người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ về tuyển dụng, sử dụng, nâng bậc lương và trả công lao động. Lao động nữ được phép dành thời gian trong giờ làm việc để cho con bú và làm vệ sinh cá nhân; họ không bị sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kết hôn, mang thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.
Định kiến giới khiến nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số không có cơ hội vươn lên làm chủ kinh tế.
Nguồn: dangcongsan.vn.
2. Vấn đề bảo đảm quyền kinh tế của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay
Một là, về vấn đề rút ngắn khoảng cách giới trong việc tiếp cận công việc tốt, tài sản và kỹ năng. Việt Nam vẫn đang đối mặt với những khác biệt đáng kể về việc làm và cơ hội thu nhập giữa các nhóm phụ nữ và nam giới. Những khác biệt này không chỉ bắt nguồn từ sự chênh lệch về số lượng lao động nam và nữ, mà còn liên quan đến các hình thức phân biệt nghề nghiệp và đối xử dựa trên giới tính. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế, việc ưu tiên đầu tư vào kỹ năng và năng suất cho lao động nữ cần được xem trọng trong hoạch định chính sách. Phụ nữ chiếm phần lớn lao động không được trả lương trong gia đình, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, và họ gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn lực sản xuất.
Hai là, so với nam giới, phụ nữ ít được tiếp cận hơn với các khóa học về đào tạo nghề, đào tạo kỹ năng do phải tham gia quá nhiều thời gian vào công việc gia đình. Tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay là do những quan niệm truyền thống cứng nhắc về giá trị và vai trò của phụ nữ và nam giới. Một yếu tố chủ chốt là việc gắn trách nhiệm chăm sóc gia đình chủ yếu cho phụ nữ. Trao quyền kinh tế cho phụ nữ đòi hỏi việc loại bỏ những rào cản này, như phân biệt đối xử trong pháp luật và thay đổi các chuẩn mực đạo đức, để thúc đẩy bình đẳng trong việc nắm bắt các cơ hội và thành quả của quá trình phát triển kinh tế.
Ba là, hiện nay, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật đang khiến máy móc thay thế con người rất nhiều, đặc biệt trong các ngành gia công hay nông nghiệp, ảnh hưởng nhiều nhất đến quyền của lao động nữ. Thực tế cho thấy, lao động nữ Việt Nam phần lớn làm việc trong những ngành nghề này, nên nhiều việc làm lâu nay của phụ nữ sẽ bị mất đi. Quá trình hội nhập cũng đòi hỏi trình độ tay nghề cao hơn, lao động nước ngoài vào Việt Nam nhiều hơn, lao động nữ Việt Nam sẽ phải cạnh tranh nhiều hơn, trong khi trình độ đào tạo lại chưa được cải thiện, nên mức lương được trả sẽ bị thấp hơn. Đặc biệt, những gánh nặng về công việc gia đình, định kiến phụ nữ không làm việc được như nam giới khiến cho phụ nữ lại càng khó khăn để thăng tiến trong công việc, được hưởng những thành quả xứng đáng với bản thân mình.
Bốn là, phụ nữ và nam giới có những cách tiếp cận về cơ hội nghề nghiệp khác biệt nhau rõ rệt - cho dù đó là công việc làm công ăn lương, làm công nhân hay là làm chủ doanh nghiệp. Phụ nữ thường làm việc trong các lĩnh vực có năng suất lao động thấp hơn, hoặc các công việc độc lập và tập trung trong khu vực tiền lương không chính thức. Ngay cả trong khu vực thu nhập thấp, phụ nữ cũng tập trung vào một vài ngành nghề nhất định, chủ yếu là những ngành nghề có mức thu nhập thấp hơn.
Có ba yếu tố ảnh hưởng tới các mô hình này. Nhân tố đầu tiên là nam giới và phụ nữ có những nhiệm vụ khác nhau giữa việc trông nom con cái và làm việc nhà, dẫn đến việc sử dụng thời gian khác nhau. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nghề nghiệp và công việc kinh doanh của họ. Thứ hai, nam giới và nữ giới có khả năng tiếp cận các yếu tố đầu vào sản xuất khác nhau và nhận được những cách tiếp cận khác biệt từ các tổ chức và thể chế. Thứ ba, những hạn chế tương hỗ này có thể tạo ra một "cái bẫy năng suất lao động của nữ giới". Vì nhiều nhân tố có thể ảnh hưởng đồng thời, các biện pháp can thiệp hiệu quả cần nhắm tới nhiều nhân tố - hoặc đồng thời hoặc theo thứ tự3.
3. Một số khuyến nghị
Thứ nhất, cần giảm thiểu sự chênh lệch giới trong việc tiếp cận cơ hội kinh tế đối với phụ nữ. Sự chênh lệch này phần nào phụ thuộc vào sự khác biệt về thời gian sử dụng, do tiêu chuẩn phân phối trách nhiệm chăm sóc gia đình và công việc nhà. Giải quyết những tiêu chuẩn này và giải phóng thời gian cho phụ nữ đòi hỏi quan tâm đến ba loại chính sách sau: i) chính sách nghỉ phép chăm sóc trẻ em của cha mẹ; ii) cải thiện cơ sở hạ tầng dịch vụ; iii) các chính sách giảm chi phí giao dịch liên quan đến tham gia vào thị trường. Các biện pháp can thiệp có thể tập trung vào giảm chi phí giao dịch liên quan đến việc tiếp cận thị trường như vay vốn tín dụng,... Nâng cao lựa chọn về giao thông vận tải hiệu quả cũng giảm thiểu thời gian liên quan đến đi lại, giúp phụ nữ dễ dàng hơn trong việc phối hợp công việc gia đình, chăm sóc con cái và các hoạt động xã hội. Đồng thời, công nghệ thông tin và truyền thông cũng giúp rút ngắn thời gian và sự cần thiết phải di chuyển khi phụ nữ tiếp cận và tham gia vào thị trường lao động. Cần tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công để giảm bớt và phân bổ lại công việc gia đình và công việc chăm sóc không có thu nhập cho phụ nữ. Để thực hiện những biện pháp này, chính phủ và các doanh nghiệp cần có ngân sách đầu tư bổ sung.
Giảm thiểu khoảng cách trong việc tiếp cận tài sản và nguồn lực đầu vào là một vấn đề cấp bách. Nông dân nữ và doanh nhân nữ thường gặp khó khăn hơn nam giới trong việc tiếp cận tài sản và nguồn vốn. Chẳng hạn, nhu cầu sử dụng tín dụng của họ thường thấp hơn so với nam giới. Những khác biệt này phần nào bắt nguồn từ những hạn chế trong hệ thống thị trường và các tổ chức, cũng như từ tương tác gia đình. Chẳng hạn, để tiếp cận tín dụng, thường cần có tài sản thế chấp, như đất đai hay bất động sản, điều này khiến phụ nữ gặp khó khăn hơn do họ thường sở hữu ít tài sản và làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ có vốn hóa thấp và thu nhập không rõ ràng. Những yếu tố này còn được gia tăng bởi các quan niệm thiên vị giới trong gia đình, dẫn đến phân bổ không công bằng nguồn lực như đất đai giữa nam và nữ.
Thứ hai, cần đẩy mạnh tiếp cận giáo dục, đào tạo, đặc biệt đào tạo nghề đối với phụ nữ, nhất là phụ nữ trong nông nghiệp và nông thôn. Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg ngày 27-3-2006 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ đào tạo nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đã nhấn mạnh rằng: “Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm hiện đang là một vấn đề nghiêm trọng ở nhiều vùng chuyển đổi đất”. Các chính sách thị trường lao động năng động bao gồm đào tạo, giới thiệu việc làm và các hình thức hỗ trợ khác nhằm thúc đẩy phụ nữ tham gia hoặc tái tham gia vào lực lượng lao động. Chương trình hành động quyết liệt là một giải pháp khác để giải quyết vấn đề thông tin. Mục tiêu của chương trình là nâng tỷ lệ tham gia của lao động nữ trên thị trường lao động lên một mức nhất định, loại bỏ vấn đề thiếu thông tin liên quan đến tìm kiếm việc làm.
Hỗ trợ xây dựng mạng lưới cho lao động nữ có thể là một biện pháp hiệu quả để vượt qua các rào cản giới trong việc tham gia của công nhân và doanh nhân nữ. Những biện pháp can thiệp như vậy sẽ hiệu quả hơn khi kết hợp xây dựng mạng lưới và mối quan hệ xã hội với việc cung cấp đào tạo, thông tin và tư vấn hướng nghiệp.
Thứ ba, có các chính sách ưu tiên nhằm chuyển giao khoa học - kỹ thuật và đào tạo nghề cho phụ nữ, đặc biệt là những phụ nữ gặp khó khăn và những người phụ nữ trong các hộ gia đình có ruộng đất bị thu hồi. Quan tâm đến các phẩm chất phù hợp của phụ nữ với các ngành nghề truyền thống và dịch vụ xã hội là điểm cần nhấn mạnh. Trong quá trình đào tạo nghề, việc chuyên môn hóa kỹ thuật cho phụ nữ cần phải cân nhắc đến các đặc thù văn hóa, tập quán, dân tộc và mức độ phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, miền. Chỉ khi chúng ta tính đến các yếu tố văn hóa - xã hội như vậy, chương trình đào tạo nghề mới có thể mang lại hiệu quả cao, tạo ra việc làm phù hợp với điều kiện, năng lực và hoàn cảnh của phụ nữ.
Việc loại bỏ những định kiến trong các tổ chức cung cấp dịch vụ, như việc phân bổ đất nhà nước và các chương trình mở rộng phát triển nông nghiệp, có thể cải thiện khả năng tiếp cận của phụ nữ đến các cơ hội kinh tế ở nhiều quốc gia. Để khắc phục những định kiến này, cần thực hiện nhiều biện pháp. Một là, các nhà cung cấp dịch vụ cần thiết lập mục tiêu rõ ràng và mở rộng các dịch vụ phục vụ cho phụ nữ. Ví dụ, việc tái phân bổ đất đai có thể được ưu tiên trong các chương trình gia đình. Hai là, phụ nữ có thể được trao quyền lực hơn trong trong việc tổ chức phân phối dịch vụ, bao gồm việc ưu tiên các dịch vụ cần thiết. Chẳng hạn, trong mở rộng phát triển nông nghiệp, phụ nữ có thể tham gia vào các quyết định trong Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Ba là, công nghệ có thể được áp dụng để mở rộng phạm vi của các dịch vụ. Bốn là, việc cải thiện giám sát có thể làm cho các vấn đề trở nên rõ ràng hơn. Cuối cùng, người sử dụng lao động nữ cần được cung cấp thông tin về mức độ và chất lượng của dịch vụ được cung cấp. Bình đẳng giới là trung tâm của sự phát triển kinh tế và nguồn nhân lực. Sự hội nhập và tăng cường quyền lực cho phụ nữ đã có tác động tích cực và quan trọng. Đẩy mạnh tăng trưởng toàn diện và đưa ra các biện pháp nhằm cải thiện việc tiếp cận của phụ nữ với giáo dục, đào tạo, tài chính, công nghệ và cơ sở hạ tầng, nhằm tối đa hóa cơ hội kinh tế cho phụ nữ.
Thứ tư, cần tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ nông thôn có thể tiếp cận các nguồn lực cần thiết như đất đai, tài sản và phương tiện sản xuất. Việc không sở hữu được những nguồn lực này sẽ đặt phụ nữ vào tình trạng "nhóm yếu thế", họ sẽ khó có thể tự chủ và khó khăn trong việc phát huy vai trò của mình. Điều này trở nên đặc biệt bất lợi khi cuộc sống gia đình của phụ nữ gặp khó khăn, dẫn đến tình trạng "cơm không dẻo, canh chẳng ngọt" và có thể dẫn đến tan vỡ gia đình.
Với phụ nữ nông thôn, đất đai không chỉ là phương tiện đảm bảo an sinh xã hội mà còn là cơ hội duy nhất để thoát nghèo. So với nam giới, phụ nữ nông thôn thường gặp ít cơ hội hơn trong việc tiếp cận vay vốn tín dụng. Do đó, cần phải xem xét những khác biệt này giữa nam và nữ trong việc tiếp cận và sử dụng vốn vay từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác để thiết lập các chính sách và chế độ phù hợp đối với nam và nữ nông dân trong việc triển khai các chính sách tín dụng hiện nay.
Xóa bỏ những hạn chế và đối xử phân biệt trong các bộ luật và quy định lao động cũng có thể gia tăng cơ hội kinh tế cho phụ nữ. Trong số các quy định lao động, một ưu tiên cần được cải thiện là các ràng buộc và lệnh cấm nghiêm ngặt về làm việc bán thời gian ở nhiều quốc gia. Bởi vì phụ nữ thường phải chịu trách nhiệm nặng nề trong công việc và chăm sóc gia đình, các hạn chế về làm việc bán thời gian như vậy có thể làm giảm cơ hội làm việc của phụ nữ so với nam giới. Việc loại bỏ những rào cản này sẽ giúp phụ nữ có nhiều cơ hội hơn để tham gia vào thị trường lao động và có thu nhập cao hơn.
Có thể thấy Nhà nước ta đã và đang có những chính sách bảo đảm quyền kinh tế cho phụ nữ. Tuy nhiên vẫn còn có những quy định chưa thực sự đi vào cuộc sống, hạn chế khả năng phát triển kinh tế của phụ nữ. Vì vậy cần có nhiều chính sách hơn nữa giúp phụ nữ được tiếp cận nguồn lực phát triển kinh tế, từ đó nâng cao quyền năng của chính mình./.
TS. Nguyễn Thanh Hiền
Khoa Luật, Học viện Phụ nữ Việt Nam
Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 43 (12/2024)
---
Tài liệu trích dẫn
(1) Trang tin xúc tiến thương mại của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn http://xttm.mard.gov.vn/XTTMSites/vi-VN/76/tapchi/69/108/3673/Default.aspx.
(2) Văn phòng Quốc hội (2006), Công ước CEDAW, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
(3) Vụ Kinh tế và Xã hội Văn phòng Hỗ trợ và Điều phối ECosoc 1 Trung tâm Thương mại Liên Hợp Quốc (2010), “Đạt bình đẳng giới, trao quyền cho phụ nữ và tăng cường hợp tác phát triển”.