Luật Thi hành án hình sự năm 2019 ra đời đã góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền con người của phạm nhân cũng như bảo đảm quyền con người trong quản lý, giáo dục phạm nhân. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay, Luật Thi hành án hình sự cần tiếp tục được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung. Bài viết khái quát được các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam trong bảo đảm quyền con người của phạm nhân, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quy định của Luật Thi hành án hình sự góp phần bảo đảm quyền con người của phạm nhân.
Người bị giam giữ được sử dụng kinh sách để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng.
Nguồn: xaydungdang.org.vn
1. Đặt vấn đề
Theo Báo cáo tổng kết công tác thi hành án phạt tù của Cục Cảnh sát quản lý trại giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, tính đến hết Quý I/2024, các trại giam thuộc Bộ Công an đang quản lý 54 trại giam với hơn 153.000 phạm nhân, số phạm nhân nữ gần 19.300 phạm nhân (chiếm 12,6%) .
Phạm nhân là người phạm tội phải chấp hành án ở các cơ sở giam giữ của Nhà nước, chịu sự quản lý giam giữ, giáo dục để trở hành người chấp hành tốt các quy tắc, chuẩn mực của xã hội, là người lương thiện, có ích cho xã hội sau khi tái hòa nhập cộng đồng. Trong quá trình chấp hành án, phạm nhân được bảo đảm đầy đủ các quyền sau: Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; quyền ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế; quyền học tập, lao động, vui chơi, giải trí, thể thao, sinh hoạt tinh thần; quyền gặp, liên lạc với thân nhân, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân, thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền được đối xử công bằng, bình đẳng trước pháp luật; quyền được hưởng an ninh, duy trì tiêu chuẩn sống và hưởng các chính sách của Nhà nước với phạm nhân.
Bảo đảm quyền con người của phạm nhân là việc Nhà nước tạo ra các điều kiện cần thiết, đặc biệt là về mặt pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật để bảo vệ phạm nhân khỏi những hành vi vi phạm các quyền của họ, đồng thời để họ có thể thực hiện, hưởng thụ các quyền con người của mình mà không bị hạn chế bởi bản án hình sự, phù hợp với bối cảnh và điều kiện của cơ sở giam giữ.
Trong những năm qua, khắc phục những khó khăn chung, Nhà nước Việt Nam luôn cố gắng bảo đảm các quyền cơ bản của phạm nhân. Hằng ngày, ngoài giờ lao động, học tập, phạm nhân được tham gia các hoạt động sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí, xem tivi, nghe đài, đọc sách, báo, được tham gia các phong trào thi đua chấp hành án phạt tù. Trong các buồng giam đều được trang bị ti vi màu, tổ chức cho phạm nhân xem vào các ngày nghỉ, giờ nghỉ buổi tối theo quy định để cho phạm nhân có thể cập nhật các thông tin về chính trị, thời sự, kinh tế, văn hóa, xã hội... Trong mỗi khu giam đều có hệ thống truyền thanh và truyền hình cáp nội bộ, bảng tin, để tuyên truyền, nêu gương người tốt việc tốt; phê phán những việc làm sai với nội quy cơ sở giam giữ. Các trại giam đã có thư viện với nhiều đầu sách, báo, tạp chí mang nội dung về pháp luật, giáo dục công dân, kỹ năng sống, văn học, nghệ thuật, tôn giáo và tổ chức cho phạm nhân đọc trong các giờ nghỉ hằng ngày và ngày thứ Bảy, Chủ nhật, ngày Lễ, Tết. Bên cạnh công tác giáo dục cải tạo phạm nhân của các trại giam, còn có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức xã hội và thân nhân phạm nhân như Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và đào tạo; Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Phụ nữ Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam... Hằng năm, các trại giam đều tổ chức Hội nghị gia đình phạm nhân để phát huy vai trò của thân nhân trong việc phối hợp giáo dục cải tạo con em họ.
Để đạt được kết quả trên, hệ thống pháp luật điều chỉnh công tác thi hành án hình sự trong thời gian qua đã có sự hoàn thiện đáng kể. Quan điểm của Nhà nước Việt Nam về việc bảo đảm quyền con người nói chung, quyền con người của phạm nhân nói riêng là hoàn toàn phù hợp trên cơ sở tôn trọng quyền của phạm nhân. Là một thành viên tích cực của các công ước quốc tế về quyền con người, Việt Nam đã thực hiện nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế trong pháp luật quốc gia, bảo đảm sự tương thích giữa pháp luật trong nước với các tiêu chí, nguyên tắc, chuẩn mực về quyền của luật pháp quốc tế. Trên bình diện chung, các quy định về quyền con người của phạm nhân ở Việt Nam tương tự như ở các quốc gia khác. Tuy nhiên, việc bảo đảm một số quyền con người của phạm nhân phụ thuộc đáng kể vào điều kiện kinh tế, xã hội, nguồn lực của quốc gia trong khi Việt Nam vẫn là nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình trên thế giới nên mức độ thực hiện một số quyền của phạm nhân ở Việt Nam, nhất là các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa còn thấp hơn so với các nước phát triển. Các quy định pháp luật của Việt Nam vẫn tồn tại một số hạn chế dẫn tới sự khó khăn trong việc bảo vệ quyền trên thực tế. Việc quy định quá cụ thể của Luật Thi hành án hình sự với tư cách là luật chính trong lĩnh vực này có thể gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực thi luật. Sự thiếu sót của một số điều khoản cũng hạn chế các phạm nhân được hưởng các quyền cơ bản.
2. Một số đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của Luật Thi hành án hình sự
Thứ nhất, cần quy định cụ thể hơn về các quyền con người của phạm nhân bị hạn chế
Cụ thể hóa quy định Hiến pháp năm 2013 về tôn trọng và bảo đảm quyền con người, Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã có quy định mới và tiến bộ về quyền và nghĩa vụ của phạm nhân tại Điều 27. Theo đó, phạm nhân có các quyền cụ thể như: (i) Được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm; được phổ biến về quyền và nghĩa vụ của mình, nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân; (ii) Được bảo đảm chế độ ăn, ở, mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, chăm sóc y tế theo quy định; gửi, nhận thư, nhận quà, tiền; đọc sách báo, nghe đài, truyền hình… Quy định này có ưu điểm là cụ thể, minh bạch và thể hiện rõ phạm vi áp dụng. Tuy nhiên, có thể thấy còn rất nhiều quyền con người, quyền công dân khác không bị hạn chế bởi bản án có hiệu lực pháp luật, nhưng vẫn không có quy định để cho phép phạm nhân thực hiện. Với các quy định liệt kê cụ thể về quyền vô tình tạo khó khăn cho việc thực hiện các quyền công dân khác không bị hạn chế những cũng không được quy định để lấy đó làm cơ sở thực hiện trên thực tế. Hay nói cách khác, việc quy định cụ thể các quyền vô hình chung lại hạn chế quyền con người của họ. Điều này cũng không phù hợp với các quy định của Hiến pháp và chưa tương thích với các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người. Vì vậy, đề xuất bổ sung quy định: “Phạm nhân được hưởng các quyền khác của công dân nếu không bị hạn chế bởi các luật liên quan, trừ trường hợp các quyền đó không thể thực hiện được do họ đang chấp hành án tại cơ sở giam giữ”. Việc sửa đổi, bổ sung như vậy cũng phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của đất nước, bởi lẽ, khi điều kiện giam giữ được cải thiện thì đồng nghĩa với quyền của phạm nhân cũng được mở rộng mà không bị giới hạn bởi luật cũng như sửa đổi luật.
Thứ hai, cho phép luật sư tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của phạm nhân trong quá trình chấp hành án
Trong môi trường trại giam, phạm nhân luôn đứng trước nguy cơ bị xâm phạm về quyền và lợi ích hợp pháp. Luật quy định nhiều biện pháp để phạm nhân có thể tự bảo vệ quyền lợi cho mình như thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đến cơ quan Viện kiểm sát, nhờ luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi cho mình. Luật sư tham gia hỗ trợ pháp lý cho phạm nhân tại các trại giam là một biện pháp hữu hiệu và có vai trò lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho phạm nhân trước những vi phạm về quyền.
Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho phạm nhân trong quá trình chấp hành hình phạt tù là cần thiết và phù hợp với các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người. Về vấn đề này, pháp luật các quốc gia khác đều có quy định cụ thể về quyền nhận sự trợ giúp pháp lý của luật sư trong giai đoạn chấp hành án. Ví dụ, Luật quy định về tổ chức, chức năng của nhà tù năm 1999 của Morocco, Điều 81 cho phép người đang bị giam giữ được phép trao đổi với luật sư của họ mà không bị hạn chế hay bị cản trở bởi lệnh của Toà án hay quy định nào tại nhà tù. Tương tự, Luật Nhà tù của Đức ở Điều 26 quy định phạm nhân chịu sự điều chỉnh của pháp luật Đức cũng có quyền tiếp xúc, hỗ trợ bởi luật sư mà không bị hạn chế hay tác động của quản giáo.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Điều 22 Luật Luật sư chỉ rõ phạm vi hành nghề của luật sư gồm tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật, thực hiện dịch vụ pháp lý khác. Điều 27 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định về quyền và nghĩa vụ của phạm nhân, theo đó, phạm nhân được gặp liên lạc với tổ chức cá nhân hay tự mình hoặc thông qua người đại diện để thực hiện giao dịch dân sự theo quy định pháp luật. Người đại diện ở đây có thể là luật sư, tuy nhiên, việc quy định có luật sư hỗ trợ thực hiện các giao dịch dân sự không đủ bao quát các vấn đề pháp lý xung quanh phạm nhân. Nếu quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm thì cũng chưa có những quy định rõ ràng, thống nhất và đồng bộ trong việc cho phép luật sư được đến gặp để bảo vệ thân chủ của họ tại các cơ sở giam giữ. Vì vậy, trên thực tế việc áp dụng ở các trại giam vẫn chưa nhất quán và gặp nhiều trở ngại. Tình huống này đã có nhiều kết quả xử lý khác nhau ở các trại giam khác nhau. Có trường hợp gia đình phạm nhân đứng ra bảo vệ quyền lợi cho phạm nhân hoặc nhờ sự hỗ trợ của luật sư, nhưng luật sư lại không được chấp thuận bởi nhiều lý do mà cán bộ trại giam đưa ra, trong đó có trại giam đưa ra lý do là luật không quy định về việc phạm nhân có quyền có luật sư hỗ trợ và cơ chế để phạm nhân được gặp luật sư tại trại giam nên không cho gặp.
Như vậy, quy định cho phép luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phạm nhân đang chấp hành án tại các cơ sở giam giữ là rất cần thiết. Quy định này cần phải được thống nhất, cụ thể nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác thi hành án phạt tù ở các cơ sở giam giữ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phạm nhân. Trên những phân tích đó, đề xuất bổ sung Điều 27 Luật Thi hành án hình sự 2019 như sau: “Phạm nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người thân mời luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình chấp hành án tại các cơ sở giam giữ”.
Thứ ba, cần có các quy định về các thủ tục pháp lý hỗ trợ thực hiện một số quyền con người của phạm nhân không bị hạn chế nhưng khó có thể thực hiện được trong quá trình bị giam giữ, cải tạo như quyền kết hôn, ly hôn, quyền sinh con...
Quyền kết hôn, ly hôn hay sinh con trong trường hợp không làm ảnh hưởng đến quá trình chấp hành án tại các trại giam là những quyền con người của phạm nhân không bị hạn chế bởi bản án đã có hiệu lực trên thực tế. Do bị cách ly khỏi xã hội, bị hạn chế quyền tự do đi lại nên những quyền này khó được bảo đảm thực hiện một cách đầy đủ như đối với công dân bình thường đang ở ngoài xã hội. Bảo đảm các quyền này phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng đáp ứng của Nhà nước, tuy nhiên ở một số góc độ, nếu như các quyền này được thực hiện và có phương thức thực hiện phù hợp sẽ không làm ảnh hưởng nhiều đến quá trình chấp hành án của phạm nhân ở trại giam. Ví dụ như việc hỗ trợ cho phép đăng ký kết hôn, ly hôn trong quá trình chấp hành án tại Ủy ban cấp xã nơi đặt trại giam hoặc tiến hành các thủ tục đăng ký trong trại giam có sự tham gia của cơ quan có thẩm quyền; phạm nhân được thực hiện các quyền sinh con bằng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản... Thiết lập các quy định này không chỉ thể hiện tính nhân văn sâu sắc, khuyến khích tạo động lực cho phạm nhân có thái độ tích cực trong quá trình chấp hành án mà còn bảo đảm phạm nhân được hưởng các quyền con người đã được Hiến pháp ghi nhận. Việc cấm hoặc không có các quy định pháp lý hỗ trợ thực hiện trên thực tế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thụ hưởng các quyền cũng như ảnh hưởng lớn đến công tác tái hòa nhập cộng đồng sau khi mãn hạn tù. Chính vì vậy, Luật Thi hành án hình sự nên có các quy định hỗ trợ, tạo điều kiện cho phạm nhân thực hiện các quyền này.
Thứ tư, hoàn thiện quy định về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của phạm nhân
Điều 24 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Cụ thể hóa nội dung và tinh thần Hiến pháp, khoản 5 Điều 6 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định người đang chấp hành hình phạt tù có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin, tín ngưỡng, tôn giáo. Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã làm rõ hơn quyền này. Theo đó, việc sử dụng kinh sách, bày tỏ tín ngưỡng tôn giáo của người bị quản lý, giam giữ như được sử dụng kinh sách xuất bản dưới hình thức sách in, phát hành hợp pháp để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân và được thể hiện niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo bằng lời nói hoặc hành vi của cá nhân theo quy định của pháp luật.
Có thể thấy, pháp luật Việt Nam vẫn có những hạn chế nhất định so với tiêu chuẩn pháp lý quốc tế. Điều 18 Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người năm 1948 quy định mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng. Khoản 2 Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 tiếp tục khẳng định: “2. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ. 3. Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”. Vì vậy, có thể thấy, đối tượng là phạm nhân cũng cần được đảm bảo các điều kiện cần thiết để thụ hưởng quyền đó.
Đoạn 41 Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân, năm 1990 còn đưa ra hướng dẫn cụ thể như: Nếu nhà tù có đủ số phạm nhân theo cùng một tín ngưỡng thì một đại diện đủ tư cách của tín ngưỡng đó phải được chỉ định hoặc chấp thuận. Có thể bố trí người đại diện tín ngưỡng làm việc toàn thời gian, được tổ chức đi thăm phạm nhân theo tín ngưỡng một cách riêng tư nếu như số lượng phạm nhân thỏa đáng và nhà tù có đủ các điều kiện cho phép. Trong chừng mực cho phép, người chấp hành án được tham gia các buổi lễ, được sở hữu sách kinh, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng về tôn giáo và giáo phái của mình.
Luật Thi hành án hình sự năm 2019 cho phép phạm nhân được sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo nhưng phạm vi và cách thức thực hiện quyền này còn hạn chế. Luật chỉ cho phép phạm nhân được sử dụng kinh sách xuất bản dưới hình thức sách in, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định pháp luật nhưng lại không cho phép triển khai các hoạt động nêu trên tại trại giam. Cụ thể là việc chưa cho phép phạm nhân tham gia nghi lễ, tổ chức nghi lễ với sự tham gia của người đại diện tôn giáo, tín ngưỡng đó. Tác giả cho rằng, điều kiện của các trại giam Việt Nam hiện nay không thể cho phép một người đại diện tôn giáo làm việc toàn thời gian và cho phép họ đi thăm các phạm nhân một cách riêng tư như quy định trong Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân của Liên Hợp quốc nhưng vẫn có thể tổ chức thực hiện các nghi lễ tôn giáo vào các thời điểm đặc biệt trong năm khi số lượng người theo tôn giáo đạt đến một số lượng nhất định. Việc khuyến khích tổ chức đa dạng các hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng vừa đạt được mục đích tác động tích cực đến quá trình chấp hành và hướng thiện của phạm nhân vừa thể hiện nỗ lực của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế về quyền tự do, tín ngưỡng.
Thứ năm, tinh thần bảo vệ quyền của phụ nữ là người chấp hành án phạt tù của Các quy tắc Bangkok của Liên hợp quốc năm 2010 trước nguy cơ bị xâm hại tình dục trong môi trường trại giam và về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phạm nhân nữ trên cơ sở đặc thù giới tính chưa được phản ánh đậm nét trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án phạt tù của Việt Nam (Luật Thi hành án hình sự, Nghị định số 133/2020/NĐ-CP ngày 9/11/2020 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi hành án hình sự, Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BCA-BQP-BYT ngày 19/10/2015 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế về Hướng dẫn việc khám bệnh, chữa bệnh cho người bị tạm giữ, tạm giam, phạm nhân, trại viên cơ sở giáo dục bắt buộc, học sinh trường giáo dưỡng do Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quản lý tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước). Vì vậy, Luật Thi hành án hình sự cần sớm bổ sung những quy định nhằm bảo vệ tốt hơn nữa quyền của phạm nhân nữ vì đây là đối tượng rất cần được bảo vệ khỏi các hành vi xâm hại tình dục, nhất là tại môi trường trại giam cũng như cần được tư vấn và chăm sóc sức khỏe sinh sản và giới tính.
Ngoài ra, pháp luật hiện hành mới quy định giam, giữ riêng đối với những người đồng tính và người chuyển giới, còn người song tính luyến ái (những người chưa chuyển giới) thì chưa có quy định. Bên cạnh đó, trong trường hợp những người được giam, giữ tại buồng riêng thì cũng chưa có quy định cụ thể về buồng giam giành cho những người này như thế nào. Bộ Công an phối hợp với các cơ quan chuyên môn cần có hướng dẫn cụ thể, chi tiết như thế nào là người đồng tính, người chuyển đổi giới tính và người song tính. Đồng thời, thành lập cơ quan chuyên môn xác định giới đối với phạm nhân bị giam giữ. Cần quy định rõ về cách thức, điều kiện cơ sở vật chất bố trí các buồng giam riêng cho những người đồng tính nhằm khắc phục tình trạng khó khăn cho cán bộ trong việc phân luồng, bố trí phòng giam cho các đối tượng đặc biệt này. Hơn nữa, cần lưu ý những trường hợp phạm nhân chuyển giới có hình dạng bên ngoài trái ngược với đặc điểm giới tính ghi trong căn cước mà vẫn giam chung với những người có cùng giới tính ghi trong căn cước vì như vậy phạm nhân sẽ có nguy cơ bị kỳ thị và xâm hại.
ThS Nguyễn Duy Huy
Học viện Cảnh sát nhân dân
Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 43 (12/2024)
---
Tài liệu tham khảo
1. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Bình luận Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, Hà Nội.
2. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (1998), Quyền con người: Các văn kiện quan trọng, Hà Nội.
4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
5. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Hà Nội.
6. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019), Luật Thi hành án hình sự, Hà Nội.
7. United National (2006), Human Rights: Questions and Anwers, New York and Geneva.