Kết quả nghiên cứu của bài viết cho thấy bên cạnh những ưu điểm như: có khung pháp lý rõ ràng, có hệ thống giám sát hành chính và hệ thống giám sát xã hội bảo vệ quyền của người tiêu dùng thì cơ chế pháp lý của Việt Nam còn tồn tại một số hạn chế yếu kém cơ bản như: 1) Sự phức tạp của hệ thống luật pháp khiến cho người tiêu dùng khó khăn trong việc nhận biết và thực hiện quyền của mình; 2) Việc áp dụng và thực thi các cơ chế pháp lý nhằm bảo đảm quyền của người tiêu dùng còn nhiều hạn chế; 3) Mạng lưới giám sát hành chính, giám sát xã hội chưa mạnh, hoạt động chưa thật sự hiệu quả
Ảnh minh họa. Nguồn: hanoimoi.vn
1. Dẫn nhập
Phong trào bảo đảm quyền của người tiêu dùng đã phát triển mạnh mẽ bắt đầu từ thế kỷ 20. Năm 1985 Liên hợp quốc đã ban hành các hướng dẫn cơ bản về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong đó nêu rõ “mọi công dân, bất kể thu nhập hay địa vị xã hội, đều có các quyền cơ bản với tư cách là người tiêu dùng”. Cho đến nay hầu hết các quốc gia đều đã ban hành các quy định pháp lý nhằm đảm bảo những quyền cơ bản của người tiêu dùng. Tuy nhiên bất chấp sự phát triển của các cơ chế pháp lý, quyền này vẫn tiếp tục bị vi phạm bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Bài viết phân tích điểm mạnh và điểm yếu của cơ chế pháp lý bảo đảm quyền của người tiêu dùng, đồng thời đề xuất một số giải pháp để tiếp tục hoàn thiện cơ chế này trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Nội dung
Năm 1985 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua hướng dẫn bảo vệ người tiêu dùng trong đó ghi nhận rằng: “người tiêu dùng thường phải chịu sự bất cân xứng về mặt kinh tế, các cấp độ giáo dục và khả năng thương lượng trong mua bán”1. Theo đó các quốc gia cần phải xây dựng cơ chế pháp lý để đảm bảo rằng người tiêu dùng có quyền: 1) Quyền được thoả mãn những nhu cầu cơ bản; 2) Quyền được an toàn; 3) Quyền được cung cấp thông tin; 4) Quyền được lựa chọn; 5) Quyền được lắng nghe hay được đại diện; 6) Quyền được bồi thường; 7) Quyền được giáo dục về tiêu dùng; 8) Quyền được sống trong một môi trường trong sạch và bền vững. Cơ chế pháp lý bên cạnh việc bảo vệ người tiêu dùng còn cần tạo điều kiện thuận lợi cho các mô hình sản xuất và phân phối đáp ứng nhu cầu tham gia sản xuất và phân phối hàng hóa và dịch vụ tới người tiêu dùng;
Tại Việt Nam, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) đến nay, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến việc bảo vệ người tiêu dùng. Chúng ta có thể thấy một số điểm mạnh và điểm yếu trong cơ chế pháp lý bảo vệ quyền người tiêu dùng ở Việt Nam như sau:
a) Điểm mạnh trong cơ chế pháp lý đảm bảo quyền của người tiêu dùng ở Việt Nam
Từ sau khi thực hiện đường lối Đổi mới năm 1986, Việt Nam đã sớm ban hành các quy định pháp lý bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Năm 1999 “Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” đã được ban hành, bên cạnh đó là các văn bản liên quan đến quản lý chất lượng sản phẩm như: Pháp lệnh Chất lượng hàng hoá; Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT, ngày 27/4/2000 nhằm chống lại các hoạt động làm, buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ hàng giả của Bộ Thương mại, Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính2. Khi hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam phát triển mạnh mẽ thu hút số lượng lớn các cá nhân, doanh nghiệp tham gia kinh doanh các khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thương mại điện tử đã được xây dựng3.
Đặc biệt, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) đã được Quốc hội biểu quyết thông qua ngày 20/6/2023, có hiệu lực từ ngày 01/7/2024. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi) đã điều chỉnh nhiều vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn, nhiều quy định đã được hoàn thiện, bổ sung cụ thể hơn, chi tiết hơn nhằm đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng. Nhìn chung Việt Nam đã xây dựng được hệ thống khung pháp lý khá rõ ràng nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng.
Bên cạnh xây dựng hệ thống khung pháp lý, Việt Nam đã xây dựng mạng lưới giám sát hành chính bao gồm: các ngành quản lý chức năng như: Y tế, Hải quan, Quản lý thị trường, Giám sát kỹ thuật, Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Vệ sinh phòng dịch, Bảo vệ môi trường... nhằm kiểm soát, hạn chế việc sản xuất các sản phẩm hàng hoá kém chất lượng, hạn chế sự ép buộc mua hàng, chống việc độc quyền tăng giá, chống hàng giả, hàng nhái v.v.. Đặc biệt, các cơ quan bảo vệ pháp luật của Bộ Công an đã tích cực triển khai các biện pháp giám sát, kiểm soát, điều tra phán án nhằm chống lại tệ nạn làm và buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người tiêu dùng nước ta.
Ngoài ra, để hỗ trợ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam đã sớm xây dựng mạng lưới giám sát xã hội, từ năm 1991, Việt Nam đã có Hiệp hội khoa học kỹ thuật về Tiêu chuẩn hóa, Đo lường, Chất lượng và Bảo vệ người tiêu dùng, gọi tắt là Hiệp hội Tiêu chuẩn và Tiêu chuẩn Việt Nam. Trong giai đoạn 1999 - 2010, Việt Nam đã thành lập 30 Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng. Tính đến cuối năm 2020, Việt Nam hiện có 56 cơ quan Bảo vệ Người tiêu dùng Hiệp hội, trong đó có một Hiệp hội Việt Nam Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng (viết tắt là Vicopro - được tách khỏi Vinastas Hiệp hội năm 1999) hoạt động ở quy mô quốc gia4.
Ở các địa phương, đến nay trên cả nước đã có 14 tỉnh và thành phố có tổ chức người tiêu dùng. Các tổ chức này đã tích cực đẩy mạnh các hoạt động tiêu chuẩn hoá, đo lường chất lượng và bảo vệ người tiêu dùng trong cả nước. Bồi dưỡng nâng cao trình độ về tiêu dùng cho hội viên cũng như tích cực thông tin tuyên truyền, giáo dục cho người tiêu dùng về những quyền của họ, tổ chức giúp đỡ họ tự bảo vệ quyền lợi của mình. Tham gia kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước các chủ trương chính sách và các biện pháp nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ.
Đặc biệt, Luật Bảo vệ người tiêu dùng sửa đổi, bổ sung năm 2023 quy định sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Mở rộng, thúc đẩy sự đa dạng của các tổ chức sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực thi bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên phạm vi cả nước.
b) Điểm yếu trong cơ chế pháp lý đảm bảo quyền người tiêu dùng ở Việt Nam
Mặc dù Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng hoàn thiện cơ chế pháp lý về bảo vệ người tiêu dùng tuy nhiên cơ chế này ở nước ta còn tồn tại một số hạn chế cơ bản như sau:
Thứ nhất, các quy định pháp luật hiện vẫn được đánh giá mang tính tuyên ngôn, không dễ thực hiện. Sự phức tạp của hệ thống luật pháp khiến cho người tiêu dùng khó khăn trong việc nhận biết và thực hiện quyền của mình, không có nhiều người tiêu dùng có khả năng sử dụng cơ chế pháp lý khi gặp vấn đề với sản phẩm hoặc dịch vụ. Mặt khác trong bối cảnh thương mại điện tử đặt ra nhiều vấn đề pháp lý mới trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì khuôn khổ pháp lý cho, hoạt động này vẫn còn rất nhiều vấn đề chưa được đề cập hoặc được quy định rất chung chung, chỉ mang tính nguyên tắc nên gây khó khăn trong quá trình áp dụng5.
Thứ hai, việc áp dụng và thực thi các cơ chế pháp lý nhằm bảo đảm quyền của người tiêu dùng còn nhiều hạn chế: hiện nay, tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh được hiểu là các tranh chấp dân sự thông thường nên được xử lý theo các quy định hiện hành về pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, các tranh chấp của người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh có đặc thù là những tranh chấp nhỏ, đơn giản và cần được giải quyết nhanh chóng, thuận tiện cho người tiêu dùng. Thực tế cho thấy việc áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành để giải quyết các khiếu nại, tranh chấp của người tiêu dùng là không phù hợp vì giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự là quá phức tạp và tốn kém, không phù hợp với khiếu nại, giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng. Đây là lý do chính dẫn đến việc người tiêu dùng nước ta thường không khiếu nại, khởi kiện ra toà khi bị vi phạm quyền lợi. Mặt khác việc áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua tòa án cũng có thể gặp phải nhiều rào cản do nhận thức hạn chế hay do chi phí pháp lý cao, thủ tục phức tạp, và thời gian chờ đợi dài. Lợi dụng điều này, nhiều tổ chức cá nhân kinh doanh thường không đề cao ý thức bào vệ quyền lợi người tiêu dùng dẫn đến thiệt hại quyền lợi người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội.
Mặt khác trong bối cảnh thương mại điện tử các thủ tục xét xử và khiếu nại đối với các bất thường trong thương mại điện tử rất phức tạp và phân tán. Các quy định này thường nằm rải rác trong nhiều văn bản quy định khác nhau, mỗi đạo luật mô tả cách nộp đơn khiếu nại và cách thức xét xử đều đòi hỏi chuyên môn, kiến thức, điều này khiến một người mua sản phẩm bình thường khó có thể trở thành chuyên gia do đó quyền tiếp cận công lý của người tiêu dùng dường như khó được đảm bảo trên thực tế. Theo điều tra của Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, thực tế những khách hàng khiếu nại nhận được sự tiếp thu nghiêm túc của doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 21%, còn 30% không nhận được phản ứng gì, 33% tỏ thái độ khó chịu, thậm chí còn nhận được phản ứng khiếm nhã (4%). Khi mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng trôi nổi trên thị trường thì không thể nói tới việc khiếu nại. Khi người tiêu dùng mua phải hàng kém chất lượng của doanh nghiệp thì việc khiếu nại cũng không đơn giản vì thủ tục giám định6.
Thứ ba, mặc dù Việt Nam đã xây dựng mạng lưới giám sát hành chính và mạng lưới giám sát xã hội tuy nhiên các cơ quan chức năng có thể thiếu nguồn lực và năng lực để thực thi hiệu quả các quy định bảo vệ người tiêu dùng. Mạng lưới giám sát hành chính chưa mạnh, hoạt động theo mô hình quản lý quan liêu cộng với việc bị chi phối bởi nhiều cơ quan công quyền khác nên hiệu quả hoạt động chưa cao. Điều này dẫn đến việc các doanh nghiệp có thể không tuân thủ các quy định hoặc trốn tránh trách nhiệm một cách dễ dàng7. Thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan lập pháp cũng như hành pháp trong việc thực hiện các quy phạm pháp luật, thậm chí chưa thực hiện đầy đủ chức năng của mỗi cơ quan theo quy định pháp luật8.
Mặc dù, chúng ta có các Hội bảo vệ người tiêu dùng, Luật Bảo vệ người tiêu dùng sửa đổi, bổ sung năm 2023 quy định sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nhưng khá nhiều người tiêu dùng không biết đến sự tồn tại của các hội bảo vệ người tiêu dùng và chúng ta cũng chưa có cơ chế hữu hiệu để các tổ chức này có thể hoạt động một cách hiệu quả trong lĩnh vực bảo vệ quyền người tiêu dùng. Mạng lưới giám sát xã hội chưa có thực quyền, chưa thực sự phát huy hiệu quả hoạt động, ở nhiều địa phương việc thành lập các hiệp hội người tiêu dùng còn mang tính hình thức. Hội người tiêu dùng chưa phát huy được các sáng kiến tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức, cũng như chưa có biện pháp tập hợp lực lượng để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
3. Kết luận và khuyến nghị
Khung pháp lý bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở nước ta trong nhiều năm qua đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên nhìn chung bên cạnh những điểm mạnh cơ chế này còn tồn tại nhiều hạn chế. Trong những năm tới khi sự phát triển của các hoạt động thương mại điện tử sẽ làm phát sinh tình trạng bất cân xứng lớn hơn về thông tin, gây trở ngại cho công tác đảm bảo quyền của người tiêu dùng. Vì vậy chúng ta cần đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việc xây dựng hoàn thiện cơ chế pháp lý cho lĩnh vực này là một yêu cầu cấp thiết. Từ những phân tích trên, tác giả đề xuất một số kiến nghị như sau nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo quyền người tiêu dùng:
Thứ nhất, nâng cao năng lực thực thi các quy định pháp lý về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho các cơ quan công quyền. Theo đó mạng lưới các cơ quan thực hiện chức năng giám sát hành chính cần triển khai thường xuyên, đồng bộ các biện pháp quản lý, giám sát việc tuân thủ pháp luật của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Cần sớm ban hành quy định danh mục hàng hóa bắt buộc bảo hành, tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền và có chế tài đủ mạnh đối với các doanh nghiệp vi phạm.
Triển khai hiệu quả các biện pháp để cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa và dịch vụ kém chất lượng cho người tiêu dùng đồng thời triển khai các biện pháp kỹ thuật để quản lý các hoạt động mua sắm trực tuyến. Xây dựng kênh để người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận thông tin về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa của các nhà cung cấp đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng. Khuyến khích sử dụng hệ thống phản hồi và đánh giá của khách hàng trên nền tảng thương mại điện tử để mang lại sự minh bạch và trách nhiệm giải trình. Đảm bảo rằng các hệ thống này đáng tin cậy và không bị thao túng bởi các đánh giá gian lận. Tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân chủ động tham gia vào việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tăng cường thực thi các quy định thương mại điện tử thông qua giám sát, kiểm toán thường xuyên và các biện pháp thực thi đối với người bán không tuân thủ. Điều này bao gồm các biện pháp trừng phạt như phạt tiền, đình chỉ tạm thời hoặc cấm đối với các vi phạm nghiêm trọng.
Thứ hai, xây dựng mạng lưới giám sát thực thi pháp luật nhiều chiều, nhiều tầng. Huy động mọi nguồn lực nhằm tăng đầu tư cơ sở vật chất, phát triển nhân lực cho cơ quan, tổ chức thực hiện công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bên cạnh đó, trong bối cảnh hiện nay trao quyền cho người tiêu dùng là một phần quan trọng. Thiếu nhận thức về việc lựa chọn hàng hóa hay các biện pháp để bảo vệ quyền của mình đặc biệt trong giao dịch điện tử là một số lý do quan trọng khiến người tiêu dùng rơi vào bẫy lừa đảo. Theo đó cần tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục và nhận thức về quyền cho người tiêu dùng cũng như phổ biến cho họ thông tin về các cơ chế mà qua đó các quyền này, nếu bị vi phạm, có thể được khắc phục9.
Người tiêu dùng cần có ý thức tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình; cẩn trọng trong quá trình lựa chọn, thanh toán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Đặc biệt, bản thân người tiêu dùng cần mạnh dạn lên tiếng đề xuất, khiếu nại khi gặp vấn đề bị xâm hại quyền lợi để tham gia góp phần phát hiện, xử lý và xây dựng môi trường kinh doanh, tiêu dùng lành mạnh.
Thứ ba, xây dựng, phát triển cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp và hiệu quả trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng. Hiện tại các cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua con đường tư pháp dân sự khá phức tạp. Vì vậy, cần đơn giản hóa thủ tục giải quyết thông qua tòa án đối với các khiếu nại nhỏ, mang lại cho người tiêu dùng cơ hội nhận được phán quyết của tòa án về tranh chấp của họ thông qua các thủ tục ít chính thức và nhanh chóng hơn so với các thủ tục được sử dụng trong thủ tục tố tụng tại tòa án. Điều này có thể bao gồm các thủ tục tố tụng đơn giản hóa tại các tòa án riêng biệt hoặc các tòa án có thẩm quyền hạn chế hoặc các thủ tục tố tụng đơn giản hóa tại các tòa án sơ thẩm thông thường.
Phát triển các cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả như trọng tài hoặc các cơ chế thương mại khác để giảm thiểu thời gian và chi phí cho người tiêu dùng khi họ có tranh chấp với các doanh nghiệp. Đảm bảo có sẵn cơ chế để người tiêu dùng yêu cầu bồi thường và bồi thường thiệt hại do sản phẩm bị lỗi hoặc hành vi kinh doanh không công bằng gây ra. Điều này có thể bao gồm các cách hoàn lại tiền, thay thế hoặc bồi thường tài chính thông qua các biện pháp pháp lý hoặc các phương pháp giải quyết tranh chấp thay thế.
Thiết lập các cơ chế dễ tiếp cận và hiệu quả để người tiêu dùng khiếu nại doanh nghiệp. Điều này có thể liên quan đến việc thiết lập đường dây trợ giúp người tiêu dùng, cổng khiếu nại trực tuyến hoặc dịch vụ hòa giải giúp giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp. Các cơ chế giải quyết tranh chấp này phải được thiết kế sao cho có thể tiếp cận và dễ sử dụng để cho phép người tiêu dùng lựa chọn tiến hành thủ tục mà không cần đại diện pháp lý hoặc hỗ trợ nhiều nhất có thể. Người tiêu dùng không nên bị buộc phải kiện tụng với người bán.
Cần phát triển các dịch vụ giải quyết tranh chấp thay thế, bao gồm giải quyết tranh chấp trực tuyến, qua đó người tiêu dùng và doanh nghiệp tham gia vào quy trình ngoài tòa án để đạt được thỏa thuận. Các dịch vụ này có thể bao gồm các thủ tục dẫn đến giải quyết tranh chấp thông qua sự can thiệp tích cực của bên thứ ba trung lập, bên đề xuất hoặc áp đặt một hoặc nhiều thủ tục tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết của người tiêu dùng. Tranh chấp bằng cách tập hợp các bên lại với nhau và hỗ trợ họ đạt được giải pháp bằng sự đồng thuận chung. Chúng cũng có thể bao gồm các cơ chế dựa trên cơ quan, theo đó người tiêu dùng gửi khiếu nại doanh nghiệp của họ tới cơ quan công quyền để điều tra và phát hiện.
Thứ tư, cộng tác với các nền tảng thương mại điện tử: tương tác với các nền tảng thương mại điện tử để thúc đẩy các hoạt động kinh doanh có trách nhiệm và tuân thủ luật bảo vệ người tiêu dùng. Nền tảng nên được khuyến khích áp dụng các quy trình xác minh người bán và thực hiện các biện pháp để ngăn chặn sản phẩm giả mạo và gian lận.
Thứ năm, thúc đẩy hợp tác và thỏa thuận quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề thương mại điện tử xuyên biên giới, bao gồm các thách thức về quyền tài phán, giải quyết tranh chấp giữa các hệ thống pháp luật khác nhau và hài hòa hóa các tiêu chuẩn bảo vệ người tiêu dùng.
PGS.TS. Trương Hồ Hải
Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 41/2024
---
* Bài viết là kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.04.12/21-25 “Về mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trong giai đoạn mới”
Tài liệu trích dẫn
(1) Hướng dẫn của Liên hợp quốc về Bảo vệ người tiêu dùng từ trang https://vibonline.com.vn/bao_cao/huong-dan-cua-lien-hiep-quoc-ve-bao-ve-nguoi-tieu-dung.
(2) Phạm Phương Đông, Bảo đảm quyền của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp từ trang https://www.tapchicongsan.org.vn/nghien-cu/-/2018/2191/bao-dam-quyen-cua-nguoi-tieu-dung-o-viet-nam-hien-nay---thuc-trang-va-giai-phap.aspx.
(3) Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 2021, Báo cáo nghiên cứu Thương mại điện tử trên mạng xã hội tại Việt Nam - Một số vấn đề pháp lý.
(4) Nguyen Trong Diep1 , Dinh Tran Ngoc Huy DISCUSSING ENFORCEMENT OF the Consumer Protection Law in Vietnam từ trang https://journalppw.com/index.php/jpsp/article/view/1824.
(5) Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 2021, Báo cáo nghiên cứu Thương mại điện tử trên mạng xã hội tại Việt Nam - Một số vấn đề pháp lý. tr.2.
(6) Tô Thị Phương Dung. Bảo vệ quyền người tiêu dùng ở Việt Nam giai đoạn hiện nay từ trang https://luatminhkhue.vn/bao-ve-quyen-nguoi-tieu-dung-o-viet-nam-giai-doan-hien-nay.aspx.
(7) Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 2021, Báo cáo nghiên cứu Thương mại điện tử trên mạng xã hội tại Việt Nam - Một số vấn đề pháp lý.
(8) Phạm Phương Đông, Bảo đảm quyền của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp từ trang https://www.tapchicongsan.org.vn/nghien-cu/-/2018/2191/bao-dam-quyen-cua-nguoi-tieu-dung-o-viet-nam-hien-nay---thuc-trang-va-giai-phap.aspx
(9) Prof. (Dr.) Ashok R.PATIL. E-consumer protection in india: trends and challenges từ trang https://revistas.unlp.edu.ar/ReDIP/article/download/6354/5418/17454