Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm nảy sinh những chủ đề nghiên cứu mới, khi công nghệ có sự thay đổi, nâng cấp hoặc được thay thế bởi các công nghệ mới. Điều này sẽ làm cho phát sinh những quan hệ xã hội mới, những xung đột lợi ích mới, từ đó, đặt ra vấn đề nghiên cứu mới, các hiện tượng pháp lý mới cần được luận giải. Bài viết này nghiên cứu về thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng theo quy định pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam và các pháp luật liên quan, từ đó nêu các giải pháp thúc đẩy quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Các tác phẩm tại triển lãm Mỹ thuật ứng dụng toàn quốc năm 2022. Nguồn: bvhttdl.gov.vn.

1. Khái quát cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự ảnh hưởng của nó đến quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với các công nghệ cốt lõi như blockchain (chuỗi khối), trí thông minh nhân tạo (Artificial Intelligence), Internet vạn vật (Internet of Things), công nghệ in 3D, thực tại ảo1... đang tác động trực diện tới hầu hết các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa... Chẳng hạn trong lĩnh vực sản xuất, việc xuất hiện các nhà máy thông minh (smart factory) với sự tự động hóa và sử dụng robot - người máy trong hầu hết các công đoạn của quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm tới quản trị xã hội (chính phủ điện tử, chính phủ số, việc xây dựng các thành phố thông minh - smart city), hoặc người máy có thể làm thay các thao tác của các bác sỹ trong ngành y học... Những tác động này đang thúc đẩy mạnh mẽ việc hình thành nền kinh tế số, trong đó dữ liệu trở thành nguồn tài nguyên quý giá nhất cần được bảo đảm sự lưu thông một cách thuận lợi nhất. Cũng dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hoạt động thương mại điện tử tiếp tục phát triển ở quy mô và cường độ mới với sự phổ cập của các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ qua mạng Internet, mạng xã hội cùng với sự phổ cập của việc thanh toán trực tuyến và các loại công nghệ tài chính mới (fintech); sự phát triển mạng xã hội ngày càng lớn mạnh, là nơi nhiều cá nhân, tổ chức chia sẻ thông tin đến tất cả mọi người, đem lại nhiều lợi ích cho người sử dụng, trong đó có những người đam mê thiết kế, vẽ tranh thường hay chia sẻ những tác phẩm của mình lên mạng xã hội. Tuy nhiên, khi làm như vậy, dễ bị sao chép tác phẩm, xâm phạm đến quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng đó. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn góp phần hình thành nền kinh tế chia sẻ (sharing economy) với các mô hình kinh doanh mới dựa trên công nghệ mới nhằm tận dụng các nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội, thể hiện tính ưu việt trong kinh doanh như các loại hình dịch vụ vận tải dựa trên các phần mềm ứng dụng qua mạng Internet như Uber, Grab, Bee... đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đáp ứng các nhu cầu khác nhau của con người, như: học tập, nghiên cứu, làm việc và giải trí, sáng tạo... Nhưng đây cũng là những thách thức, đòi hỏi có sự thay đổi mạnh mẽ đối với mọi lĩnh vực trong đó có việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng nói riêng. Trong thời đại ngày nay, khi công nghệ thông tin ngày càng được ứng dụng phổ biến thì việc vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm nói chung và tác phẩm mỹ thuật ứng dụng nói riêng ngày càng nhiều, phức tạp và khó kiểm soát hơn. Khi mà quyền của tác giả đối với các tác phẩm không được thực thi đầy đủ sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sáng tạo của các tác giả cũng như uy tín của thị trường trong nước với bạn bè quốc tế và làm ảnh hưởng đến nền kinh tế đất nước.

2. Nội dung bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng ở Việt Nam hiện nay

Theo pháp luật Việt Nam, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là tác phẩm được thể hiện bởi đường nét, màu sắc, hình khối, bố cục với tính năng hữu ích, có thể gắn liền với một đồ vật hữu ích, được sản xuất thủ công hoặc công nghiệp như: thiết kế đồ họa (hình thức thể hiện của biểu trưng, hệ thống nhận diện và bao bì sản phẩm), thiết kế thời trang, tạo dáng sản phẩm, thiết kế nội thất, trang trí2. Tác giả tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm mỹ thuật. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng có quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc thuộc quyền sở hữu của mình. Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm do tác giả sáng tạo ra hoặc thuộc sở hữu của tác giả. Quyền nhân thân mang lại cho tác giả những giá trị về mặt tinh thần, còn quyền tài sản mang lại cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả những giá trị về lợi ích vật chất (kinh tế).

Do vậy, bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng có thể hiểu là phòng ngừa và chống lại mọi sự xâm hại đến các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật do mình sáng tạo ra hoặc thuộc sở hữu của mình, bao gồm các biện pháp xử lý theo quy định pháp luật đối với các hành vi xâm phạm quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của tác giả hay gây thiệt hại về vật chất mà tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đáng được hưởng từ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng.

Quyền tác giả tác đối với phẩm mỹ thuật ứng dụng mặc nhiên phát sinh ngay từ khi tác phẩm đó được sáng tạo ra dưới một hình thức nhất định mà không phụ thuộc vào bất kỳ thể thức, thủ tục đăng ký nào, hay nói khác đi từ thời điểm tạo ra tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, tác giả được bảo hộ về mặt pháp lý và có các quyền của người sáng tạo được phát sinh theo cơ chế tự động. Nội dung bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng bao gồm các quy định pháp luật về các quyền của tác giả đối với tác phẩm, các hành vi xâm phạm quyền tác giả và biện pháp bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng.

Thứ nhất, các quy định pháp luật về quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng.

Quyền nhân thân của tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng: là các quyền mang yếu tố tinh thần, liên quan đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng của tác giả và là tiền đề của quyền tài sản của tác giả. Về nguyên tắc, quyền nhân thân luôn gắn với một chủ thể nhất định và không thể chuyển dịch được nhưng đối với quyền nhân thân của tác giả nói chung và tác phẩm mỹ thuật ứng dụng nói riêng được chia thành hai loại: quyền nhân thân không thể chuyển dịch được và quyền nhân thân có thể chuyển dịch được.

Quyền nhân thân của tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng không thể chuyển dịch được bao gồm các quyền như: quyền đặt tên tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền được đảm bảo tính toàn vẹn tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Quyền nhân thân không thể chuyển dịch được của tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng được bảo hộ vô thời hạn3.

Quyền nhân thân có thể chuyển dịch được của tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là quyền công bố hoặc cho người khác công bố tác phẩm. Theo quy định pháp luật sở hữu trí tuệ nước ta, quyền công bố hoặc cho người khác công bố tác phẩm mỹ thuật ứng dụng thuộc về quyền nhân thân của tác giả vì mọi hành vi công bố tác phẩm mỹ thuật ứng dụng đòi hỏi không được làm tổn hại đến danh dự, uy tín và danh tiếng của tác giả. Tuy nhiên, quyền công bố hoặc cho người khác công bố tác phẩm mỹ thuật cũng liên quan đến quyền lợi vật chất nên pháp luật quy định quyền này của tác giả có thể chuyển dịch được và được bảo hộ có thời hạn. Theo quy định tại khoản 2, Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ thì quyền công bố tác phẩm mỹ thuật ứng dụng hay cho người khác công bố tác phẩm mỹ thuật ứng dụng của tác giả được bảo hộ là 75 năm.

Quyền tài sản của tác giả tác phẩm mỹ thuật ứng dụng: Quyền tài sản của tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là các quyền mang lại lợi ích vất chất cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả từ việc khai thác, sử dụng tác phẩm. Theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ, quyền tài sản của tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng bao gồm các quyền như: làm tác phẩm phái sinh; biểu diễn tác phẩm trước công chúng; sao chép tác phẩm; phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; nhập khẩu bản sao tác phẩm; truyền đạt tác phẩm đến công chúng; hưởng nhuận bút; hưởng thù lao khi tác phẩm được sử dụng; quyền được hưởng lợi ích vật chất từ việc cho người khác sử dụng tác phẩm dưới các hình thức: xuất bản, tái bản, trưng bày, triển lãm, biểu diễn, phát thanh, truyền hình, ghi âm, ghi hình, chụp ảnh, dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, thuê; quyền được nhận giải thưởng đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng đạt giải.

Quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng không được bảo hộ vô thời hạn như các quyền nhân thân của tác giả mà chỉ trong một thời hạn nhất định. Theo quy định pháp luật sở hữu trí tuệ, quyền tài sản của tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là 75 năm kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu4. Sau khi kết thúc thời hạn bảo hộ như trên, quyền tài sản của tác phẩm mỹ thuật ứng dụng sẽ thuộc về công chúng có nghĩa là các cá nhân, tổ chức được sử dụng các quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả mà không phải xin phép tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả cũng như trả thù lao cho việc sử dụng đó. Tuy nhiên, việc sử dụng tác phẩm mỹ thuật ứng dụng khi kết thúc thời hạn bảo hộ đòi hỏi phải tôn trọng các quyền nhân thân không được chuyển dịch của tác giả như: quyền đặt tên tác phẩm, quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm mỹ thuật ứng dụng...

Thứ hai, các quy định pháp luật về hành vi xâm phạm quyền tác giả.

Bên cạnh việc quy định các quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng từ tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc thuộc sở hữu của mình, pháp luật sở hữu trí tuệ còn quy định các hành vi xâm phạm quyền tác giả để bảo vệ, bảo đảm các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được thực thi đầy đủ. Các hành vi bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng bao gồm: Mạo danh tác giả; Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả; Công bố, phân phố tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó; Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả; Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, trừ trường hợp tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy cá nhân và sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu; Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ trường hợp chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị; Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật...5.

Căn cứ vào các quy định về hành vi xâm phạm quyền tác giả nêu trên, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật ứng dụng tự xác định được những hành vi nào đã xâm phạm đến các quyền nhân thân và quyền tài sản của mình đối với tác phẩm và mức độ xâm phạm đến đâu để từ đó có những biện pháp tự bảo vệ phù hợp, kịp thời. Bên cạnh đó, các quy định về hành vi xâm phạm quyền tác giả nêu trên cũng tạo ra hành lang lý để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm, bảo vệ quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng.

Thứ ba, các biện pháp bảo vệ quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật ứng dụng.

Biện pháp bảo vệ quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là những cách thức được chính tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả sử dụng hoặc được Nhà nước sử dụng để bảo vệ quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật công nghiệp. Do quyền tác giả gồm có quyền nhân thân và quyền tài sản cho nên có nhiều biện pháp khác nhau bảo vệ quyền tác giả, có biện pháp trực tiếp, có biện pháp gián tiếp. Các biện pháp bảo vệ quyền tác giả một cách trực tiếp như: biện pháp tự bảo vệ của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, biện pháp bảo vệ quyền tác giả qua các cơ quan Nhà nước... Các biện pháp bảo vệ quyền tác giả gián tiếp như: biện pháp bảo vệ thông qua các cơ quan báo chí, truyền thông, bảo vệ thông qua sự phán ánh của các tổ chức xã hội... Chẳng hạn, biện pháp tự bảo vệ quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật ứng dụng xuất phát từ quy định tự bảo vệ quyền dân sự tại Điều 12 Bộ luật Dân sự năm 2015 và được cụ thể hóa tại Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ. Tác giả, chủ thể sở hữu quyền tác giả khi bị các cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền tác giả của mình thì được quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền tác giả của mình như: ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền tác giả; yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc người có hành vi xâm phạm phải xin lỗi, cải chính công khai; yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại; yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình6.

Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật ứng dụng có thể sử dụng các biện pháp này bằng cách trực tiếp gặp chủ thể vi phạm hoặc sử dụng các phương thức khác như: gọi điện thoại, gửi thư qua bưu điện, gửi thư điện tử, fax hoặc tiến hành các hành vi cụ thể để bảo vệ quyền tác giả của mình. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật ứng dụng bị xâm phạm quyền tác giả có thể lựa chọn áp dụng một hoặc nhiều biện pháp như trên để tự bảo vệ quyền tác giả của mình. Song, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật khi áp dụng các biện pháp để tự bảo vệ quyền tác giả nêu trên không được trái với quy định pháp luật và đạo đức xã hội. Ví dụ như: tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật ứng dụng khi yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền tác giả của mình không được sử dụng các từ ngữ mang tính nhục mạ hoặc đe dọa xâm hại tính mạng, sức khỏe hoặc phá tài sản của người có hành vi xâm phạm quyền tác giả,...

Bên cạnh đó, còn có các biện pháp do cơ quan có thẩm quyền thực hiện, các biện pháp này gồm có: biện pháp hành chính; biện pháp dân sự; biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất, nhập khẩu và biện pháp hình sự. Việc áp dụng biện pháp xử lý nào tùy theo tính chất và mức độ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Ví dụ, việc xử phạt vi phạm hành chính đối hành vi vi phạm quyền tác giả cao nhất là 250 triệu đồng đối với cá nhân vi phạm, 500 triệu đồng đối với tổ chức vi phạm7. Bên cạnh đó, khi bị xâm phạm quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả cũng có quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền của mình theo quy định tại Điều 26, Điều 27, Điều 35, Điều 36, Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Theo quy định của pháp luật, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật ứng dụng được quyền khởi kiện yêu cầu tòa án công nhận, bảo vệ các quyền của mình theo quy định tại Điều 202 Luật Sở hữu trí tuệ và yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tình thần cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả (nếu có) với mức bồi thường thiệt hại được xác định theo quy định tại Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ. Trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại điểm a và điểm b khoản này thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Tòa án ấn định, tùy thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá năm trăm triệu đồng (500.000.000 đồng)... Hơn thế nữa, trong trường hợp, hành vi xâm phạm quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật ứng dụng có yếu tố cấu thành tội phạm thì tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự. Việc áp dụng biện pháp hình sự thuộc thẩm quyền của tòa án...

Có thể nói, những quy định pháp luật nêu trên là hành lang pháp lý để tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện và tự bảo vệ các quyền của mình, đồng thời cũng là cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả trước những hành vi vi phạm quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật.

4. Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật ứng dụng trước bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Pháp luật về sở hữu trí tuệ Việt Nam theo đánh giá chung được xây dựng và hoàn thiện với tốc độ nhanh chóng và tương thích với chuẩn mực quốc tế (Hiệp định TRIPS) đã góp phần bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam trong hơn 30 năm qua kể từ khi đất nước thực hiện chính sách đổi mới kinh tế vào năm 1986. Tuy vậy, trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và đang xây dựng chiến lược chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, do đó việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đòi hòi có các tiêu chuẩn cao hơn so với Hiệp định TRIPS. Vì vậy, nhằm góp phần nâng cao hơn nữa việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật ứng dụng nói riêng, xin đề xuất một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật để đảm bảo tính thực thi của quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật ứng dụng nói riêng như: thống nhất việc quy định về tác phẩm mỹ thuật ứng dụng; quy định rõ việc trích dẫn hợp lý đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng; quy định rõ trường hợp nào thiết kế mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ được bảo hộ theo hình thức tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và trường hợp nào thì bảo hộ dưới dạng đối tượng sở hữu công nghiệp...

Thứ hai, nghiên cứu tạo dựng khung pháp luật cho việc quản lý các sản phẩm mỹ thuật ứng dụng dưới dạng các tác phẩm in truyền thống sang hình thức số nhằm đổi mới sáng tạo cách quản lý đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ ba, các chính sách cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng để vừa không ngăn cản sự phát triển của khoa học và công nghệ, vừa đảm bảo được an ninh, bảo mật và đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ thỏa đáng. Cần nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp an ninh truyền thông hiệu quả, đặc biệt là vấn đề phòng, chống tội phạm công nghệ cao và an ninh mạng. Hiện nay, một số website chuyển các thiết kế mỹ thuật, tranh ảnh... thành các video, audio... để đến với độc giả nhanh nhất. Vì vậy, cần thực hiện các giải pháp công nghệ nhằm quản lý việc tiếp cận thông tin từ phía bạn đọc đối với các trang điện tử và cũng như đảm bảo sự an toàn để tránh sự sao chép, sử dụng các tác phẩm mà không được sự cho phép của tác giả...

Thứ tư, trong Luật Sở hữu trí tuệ (Điều 24) và Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/2/2018 của Chính phủ (Điều 13) chỉ quy định về tác phẩm tạo hình và tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, không có quy định về tác phẩm mỹ thuật, nhưng tác phẩm mỹ thuật lại được quy định trong Nghị định số 113/2013/NĐ-CP ngày 02/10/2013 (Điều 3). Đây là sự chưa thống nhất trong việc quy định về tác phẩm mỹ thuật. Do vậy, cần phải thống nhất các quy định để đảm bảo sự tiếp cận pháp luật sở hữu trí tuệ và công tác thực thi pháp luật của các chủ thể.

Thứ năm, Khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ và Điều 23 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP của Chính phủ có quy định về việc trích dẫn hợp lý tác phẩm, nhưng chưa quy định việc trích dẫn đối với tác phẩm mỹ thuật như thế nào thì coi là hợp lý. Vì nếu chỉ trích dẫn một phần của bức tranh hay bức tượng... sẽ không thể phản ánh hết được giá trị nghệ thuật, ý tưởng hướng đến của tác phẩm. Còn nếu đưa hình ảnh đầy đủ về tác phẩm đó lại vi phạm Khoản 3 của Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ. Do đó, cần có quy định rõ hơn về việc “trích dẫn hợp lý” đối với tác phẩm mỹ thuật.

 TS. Tăng Thị Thu Trang - TS. Nguyễn Thị Tố Uyên

Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 41/2024

---

Tài liệu trích dẫn
(1) Klaus Schwab, The Fourth Industrial Revolution (Davos: World Economic Forum, 2016).
(2) Điều 13 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/2/2018 của Chính phủ quy định một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả và quyền liên quan.
(3) Khoản 1, Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ
(4) Điểm a, khoản 2, Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam
(5) Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ
(6) Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ
(7) Nghị định số 131/2013 ngày 16/10/2013 của Chính phủ và Nghi định số 28/2017/NĐ-CP ngày 20/3/2017 của Chính phủ