Bình đẳng, không phân biệt đối xử vừa là những giá trị phổ quát của con người, vừa là nguyên tắc pháp lý cơ bản cả trên bình diện quốc gia và quốc tế. Na Uy là một quốc gia Bắc Âu được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về những thành tựu nổi bật trong bảo đảm quyền con người, trong đó có việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bình đẳng, không phân biệt đối xử. Việc nghiên cứu kinh nghiệm của Na Uy về vấn đề cụ thể này có ý nghĩa thiết thực đối với Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay nhằm thực hiện mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Ảnh minh họa. Nguồn: tphcm.baohiemxahoi.gov.vn.
1. Khái quát chung về bình đẳng và không phân biệt đối xử
Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh bình đẳng (cùng với tự do) như những giá trị phổ quát và vĩnh hằng của loài người khi Người trích dẫn bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của nước Pháp năm 1789. Người khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng...”1 và “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”2. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của bình đẳng trong sự tồn tại của mỗi cá nhân cũng như của mỗi quốc gia, dân tộc và của cộng đồng quốc tế.
Bình đẳng, với tính cách là một giá trị, được tiếp cận từ nhiều góc độ, phương diện khác nhau như triết học, chính trị học, tôn giáo học, ngôn ngữ học, kinh tế học, xã hội học, luật học, v.v.. Về mặt ngôn ngữ, bình đẳng được hiểu là “ngang hàng nhau về địa vị và quyền lợi”3. Trong lĩnh vực kinh tế học, bình đẳng thường được xem xét, đánh giá dưới khía cạnh phân phối thu nhập, trong khi đó chính trị học lại đồng nhất bình đẳng với dân chủ, là hình thức căn bản của công bằng và là đạo đức của dân chủ4.
Dưới góc độ quyền con người, bình đẳng được xem là một trong những giá trị cốt lõi của quyền con người, gắn liền với phẩm giá con người và là thành tố không thể thiếu của giá trị quyền con người. Với nghĩa đó, bình đẳng mang tính phổ quát, áp dụng chung cho tất cả mọi người trên thế giới, không phân biệt quốc tịch, chủng tộc, tuổi tác, ngôn ngữ, tôn giáo, địa vị xã hội,… Bình đẳng là cơ sở đảm bảo cho mọi người có được sự tôn trọng như nhau, được đối xử ngang nhau, có cơ hội giống nhau trong việc thụ hưởng các quyền và tự do cơ bản.
Trên thực tế, mọi người sinh ra có thể có những khác biệt về mặt sinh học (như tình trạng sức khỏe, tình trạng khuyết tật, giới tính...) và trong quá trình trưởng thành và phát triển của mỗi người, có thể nảy sinh những khác biệt về mặt xã hội (như địa vị, tài sản, danh tiếng...). Chính những khác biệt này dẫn đến thực tế là những người khác nhau sẽ nhận được sự đối xử không giống nhau, tức là có sự phân biệt đối xử với các chủ thể khác nhau dựa trên những đặc điểm khác nhau về mặt sinh học hoặc xã hội. Trong hầu hết các trường hợp, những người có ưu thế hơn sẽ nhận được sự đối xử ưu tiên hơn, còn những người kém ưu thế hay yếu thế hơn sẽ bị đối xử bất công, thiệt thòi hơn. Có thể nói, phân biệt đối xử là nguồn gốc của tình trạng bất bình đẳng, gây ra những bất công xã hội, cản trở sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như của cộng đồng và xã hội, kéo lùi tiến bộ xã hội cũng như làm cho công bằng xã hội trở nên một mục tiêu xa vời, khó đạt được của mỗi quốc gia và của cả cộng đồng quốc tế.
Phân biệt đối xử cũng được hiểu và tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ) đưa ra định nghĩa về “phân biệt đối xử” tại Bình luận chung số 18, theo đó phân biệt đối xử theo nghĩa rộng được hiểu là “bất kỳ sự phân biệt, loại trừ, hạn chế hay thiên vị nào dựa trên bất kỳ cơ sở nào như chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ...”5. Trong khi đó, theo quan điểm của Hội đồng châu Âu, phân biệt đối xử là sự đối xử không ngang nhau đối với những nhóm người khác nhau khi sự đối xử này không thể được biện minh dựa trên tiêu chí khách quan hoặc hợp lý6. Bên cạnh đó, phân biệt đối xử còn được quan niệm là những trường hợp mà ở đó một người hoặc một nhóm người bị đối xử kém thuận lợi hơn so với một người hoặc một nhóm người khác mà không có sự biện minh thỏa đáng/đầy đủ7.
Có thể thấy, “phân biệt đối xử luôn gắn với các định kiến, vì thế, muốn ngăn ngừa phân biệt đối xử là ngăn ngừa các định kiến và coi việc duy trì các định kiến này trong xã hội như là những hành vi có hại”8. Vì lẽ đó, các quốc gia và cộng đồng quốc tế cần nỗ lực xóa bỏ tình trạng phân biệt đối xử nhằm xóa bỏ bất công, bảo đảm công bằng, góp phần xây dựng các xã hội phát triển hài hòa và bền vững.
Hơn nữa, bình đẳng và không phân biệt đối xử gắn kết chặt chẽ với nhau, luôn đi đôi với nhau, không thể tách rời, thống nhất với nhau trong mối quan hệ biện chứng. Bình đẳng chỉ có thể đạt được khi những người khác nhau được đối xử ngang nhau, không có bất kỳ sự phân biệt nào và đến lượt nó, không phân biệt đối xử là nền tảng để đảm bảo đạt được sự bình đẳng thực chất cho mỗi cá nhân cũng như đạt được sự công bằng xã hội. Do vậy, xóa bỏ tình trạng phân biệt đối xử cũng chính là góp phần mang lại bình đẳng thực chất cho tất cả mọi người.
Bình đẳng và không phân biệt đối xử còn được xem như một nguyên tắc trong luật nhân quyền quốc tế9 và được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế về quyền con người. Hiến chương LHQ năm 1945 là văn kiện quốc tế đầu tiên đề cập đến vấn đề bình đẳng dưới khía cạnh bình đẳng giữa nam-nữ và bình đẳng giữa các quốc gia lớn và nhỏ (trong Lời nói đầu). Tiếp nối tinh thần đó, Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người năm 1948, văn kiện quốc tế chuyên biệt đầu tiên về quyền con người, cũng ghi nhận nội dung bình đẳng và không phân biệt đối xử ngay tại những điều khoản đầu tiên: “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền…”(Điều 1) và “Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong bản tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào...” (Điều 2)10.
Tuy vậy, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) năm 1966 mới được xem là văn kiện quốc tế cốt lõi khẳng định một cách mạnh mẽ bình đẳng và không phân biệt đối xử như một nguyên tắc pháp lý của luật nhân quyền quốc tế. Khoản 1 Điều 2 ICCPR khẳng định: “Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền tài phán của mình các quyền đã được công nhận trong Công ước này, không có bất kỳ sự phân biệt nào...”11. Điều 26 ICCPR nêu rõ: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào...”12. Ngoài ra, nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử còn được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế khác như Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) năm 1979, Tuyên bố về quyền và trách nhiệm của các cá nhân, các nhóm và các tổ chức trong xã hội trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người và những tự do cơ bản đã được thừa nhận rộng rãi năm 1998, v.v..
Là một nguyên tắc pháp lý, bình đẳng và không phân biệt đối xử đặt ra yêu cầu đối với các quốc gia trong việc xây dựng và thực thi pháp luật, thực hiện cam kết quốc tế về quyền con người. Có thể thấy, nội dung Khoản 1 Điều 2 của ICCPR yêu cầu các quốc gia phải tôn trọng và bảo đảm cho tất cả mọi người trong lãnh thổ và phạm vi tài phán của mình các quyền đã được công nhận trong Công ước mà không có bất cứ sự phân biệt nào. Trong khi đó, nội dung chính của Điều 26 quy định bình đẳng như một quyền riêng biệt, không chỉ cho phép mọi người được bình đẳng trước pháp luật cũng như được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà còn nghiêm cấm bất cứ sự phân biệt đối xử nào được quy định trong luật và bảo đảm cho mọi người được bảo vệ một cách hiệu quả chống lại mọi sự phân biệt dựa trên bất cứ hình thức nào13. Hai điều khoản này không phải là sự sao chép lẫn nhau, trùng lặp nội dung, mà thực ra là sự bổ sung cho nhau và thống nhất biện chứng với nhau.
Có thể nói, việc ghi nhận bình đẳng và không phân biệt đối xử như một nguyên tắc pháp lý quốc tế cho thấy, đây là nền tảng căn bản cho việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người cả ở cấp độ quốc gia và quốc tế và là yếu tố then chốt “để tạo ra những xã hội hòa nhập, đa dạng, nơi mọi cá nhân có thể tận hưởng đầy đủ các quyền và cơ hội của mình”14.
Không chỉ là một nguyên tắc pháp lý quốc tế, bình đẳng và không phân biệt đối xử còn được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quan trọng của hầu hết các quốc gia trên thế giới, là một nội dung không thể thiếu trong pháp luật quốc gia về quyền con người. Nội dung này được ghi nhận cả trong Hiến pháp và các đạo luật chuyên biệt của các quốc gia như Mỹ, Pháp, Canada, Thái Lan, Indonesia, các nước Bắc Âu,... Trong đó, Na Uy có thể được xem như một hình mẫu về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về vấn đề pháp lý quan trọng này.
2. Thực tiễn pháp luật về bình đẳng, không phân biệt đối xử ở Na Uy
Thứ nhất, bình đẳng, không phân biệt đối xử được ghi nhận trong Hiến pháp Na Uy như một nguyên tắc hiến định. Hiến pháp hiện hành của Na Uy15 là bản Hiến pháp được ban hành năm 2018, trong đó có một chương riêng quy định về quyền con người (chương E, gồm 22 điều khoản, từ Điều 92-113). Việc ưu tiên ghi nhận các quyền người trong một chương riêng của Hiến pháp “không chỉ thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Na Uy đối với vấn đề quyền con người, mà còn chứng tỏ cam kết quốc tế mạnh mẽ của Na Uy với việc tuân thủ và thực thi Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người 1948 cũng như các công ước tế cơ bản về quyền con người mà Na Uy là thành viên”16.
Với việc ghi nhận bình đẳng, không phân biệt đối xử trong Hiến pháp, các nhà lập pháp và lập hiến của Na Uy đã thực sự coi bình đẳng, không phân biệt đối xử là một trong những giá trị cốt lõi, nền tảng của Hiến pháp nước này. Điều 98 Hiến pháp Na Uy khẳng định: “Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai phải chịu sự đối xử khác biệt, không công bằng và không hợp lý”. Điều khoản này được hiểu theo nghĩa rộng và mở, không xác định các căn cứ cụ thể của phân biệt đối xử và do đó, dành thẩm quyền chính cho cơ quan lập pháp và tòa án Na Uy quyết định về những yếu tố nào có thể tạo nên sự phân biệt đối xử17. Tuy vậy, có thể khẳng định, pháp luật được coi là đại lượng, là hệ quy chiếu cơ bản và duy nhất để đánh giá mức độ bình đẳng giữa các cá nhân và các nhóm người. Đồng thời, bình đẳng phải đi đôi với không phân biệt đối xử, bởi lẽ việc đối xử khác biệt, không công bằng và không hợp lý, trong hầu hết các trường hợp, sẽ triệt tiêu bình đẳng cũng như triệt tiêu động lực phát triển của cá nhân và của toàn xã hội.
Ngoài ra, điều khoản này còn có mối liên hệ chặt chẽ với Điều 92 của Hiến pháp Na Uy, ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan công quyền Na Uy trong việc thực thi các công ước về quyền con người mà nước này là thành viên.
Bên cạnh đó, có thể thấy, việc hiến định nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử là cơ sở quan trọng cho việc cụ thể hóa nguyên tắc này trong các đạo luật chuyên biệt của Na Uy, góp phần tạo nên tính thống nhất cho hệ thống các văn bản pháp luật về bình đẳng, không phân biệt đối xử ở nước này. Dựa trên nguyên tắc cơ bản này, các đạo luật chuyên biệt về quyền con người sẽ chi tiết hóa nội dung bình đẳng, không phân biệt đối xử một cách phù hợp và tương thích với từng nhóm chủ thể quyền và trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội.
Thứ hai, Na Uy đã xây dựng một đạo luật riêng về bình đẳng, không phân biệt đối xử. Luật Bình đẳng và chống phân biệt đối xử (The Equality and Anti-Discrimination Act) năm 2018, sửa đổi, bổ sung năm 202218 là sự cụ thể hóa nguyên tắc hiến định về bình đẳng và không phân biệt đối xử. Việc ban hành đạo luật này có mục đích nhằm thúc đẩy bình đẳng và phòng ngừa tình trạng phân biệt đối xử dựa trên những đặc điểm cá nhân của một người hoặc một nhóm người. Hơn nữa, đạo luật này còn có một mục tiêu đặc thù là nâng cao vị thế của phụ nữ và các nhóm thiểu số ở Na Uy, đồng thời góp phần xóa bỏ những rào cản bất lợi do xã hội tạo ra và ngăn ngừa những rào cản mới đang và sẽ có thể hình thành trong tương lai. Đạo luật này cũng thể hiện cam kết mạnh mẽ của Nhà nước Na Uy đối với việc thực hiện nghĩa vụ quốc gia theo Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc do Đại hội đồng LHQ thông qua năm 1965.
Về mặt cấu trúc, Luật Bình đẳng và chống phân biệt đối xử gồm 7 chương với 44 điều khoản. Về mặt nội dung, phần lớn các quy định của đạo luật này đều hướng tới mục tiêu đáp ứng nhu cầu của các nhóm yếu thế - các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, bảo đảm cơ hội bình đẳng cho các nhóm này, đồng thời phòng ngừa và chống các hành vi phân biệt đối xử. Có thể nói, đóng góp nổi bật của Luật Bình đẳng và chống phân biệt đối xử đối với việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng và chống phân biệt đối xử ở Na Uy được thể hiện ở những điểm sau đây:
(i) Xác định các căn cứ của phân biệt đối xử, bao gồm: giới, tình trạng mang thai, nghỉ thai sản, nhận con nuôi, trách nhiệm chăm sóc, sắc tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng khuyết tật, khuynh hướng tính dục, bản dạng giới, biểu hiện giới, tuổi tác và những đặc điểm quan trọng khác của một cá nhân (Điều 1).
(ii) Đưa ra một định nghĩa cơ bản về “bình đẳng”. Theo đó, “bình đẳng” được hiểu là vị thế ngang nhau, cơ hội ngang nhau và các quyền ngang nhau. Bình đẳng cũng bao hàm cả khả năng tiếp cận và chỗ ở (tức là bình đẳng về cơ hội tiếp cận các nguồn lực sẵn có, bao gồm cả nhà ở).
(iii) Nghiêm cấm hành vi phân biệt đối xử dưới mọi hình thức.
(iv) Phân định rõ giữa “phân biệt đối xử trực tiếp” và “phân biệt đối xử gián tiếp”. Phân biệt đối xử trực tiếp (Direct differential treatment) được hiểu là sự đối xử với một người mà tệ hơn/kém hơn so với sự đối xử (đang hoặc sẽ) dành cho những người khác trong một tình huống tương ứng, dựa trên nhưng căn cứ phân biệt đối xử được quy định trong luật này. Trong khi đó, phân biệt đối xử gián tiếp (Indirect differential treatment) được hiểu là bất kỳ những quy định, điều kiện, thực tiễn, hành vi (thể hiện ở hành động hoặc không hành động) mà bề ngoài có vẻ trung lập nhưng lại dẫn đến hệ quả là đặt người này ở vị thế kém hơn so với người khác dựa trên những căn cứ phân biệt đối xử được quy định trong luật này.
(v) Xác định các hành vi phân biệt đối xử hợp pháp (Lawful differential treatment). Trong một số trường hợp, phân biệt đối xử có thể được phép, được chấp nhận và coi là hành vi hợp pháp nếu như hành vi đó có mục đích khách quan, là hành vi cần thiết để đạt được mục đích đó và không gây ra tác động tiêu cực tới người nhận được sự phân biệt đối xử hay đối xử khác biệt này19.
(vi) Đặt ra yêu cầu với các cơ quan công quyền, người sử dụng lao động và các tổ chức lao động – việc làm phải thực hiện những nỗ lực tích cực, có định hướng, có mục tiêu và mang tính hệ thống nhằm thúc đẩy bình đẳng và ngăn ngừa tình trạng phân biệt đối xử trên phạm vi lãnh thổ quốc gia20.
Với những quy định mang tính nguyên tắc như trên, Luật Bình đẳng và chống phân biệt đối xử đóng vai trò như là luật khung, là cơ sở tham chiếu quan trọng hàng đầu cho việc xây dựng, sửa đổi và hoàn thiện các đạo luật chuyên biệt về bình đẳng, không phân biệt đối xử cho từng nhóm đối tượng và từng lĩnh vực cụ thể ở Na Uy (như sẽ trình bày ở phần tiếp theo).
Thứ ba, Na Uy đã thiết lập một hệ thống các đạo luật cụ thể hóa nội dung bình đẳng, không phân biệt đối xử trong các lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội, đặc biệt hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền của các nhóm yếu thế. Các nhóm xã hội dễ bị tổn thương là những đối tượng phải chịu nhiều thiệt thòi, bị kỳ thị, bị phân biệt đối xử do định kiến xã hội và do đó, cần được Nhà nước quan tâm tạo cơ hội bình đẳng để hòa nhập xã hội tốt hơn, qua đó thỏa mãn được các nhu cầu, lợi ích chính đáng của mình một cách hiệu quả nhất. Trong thời gian qua, Na Uy đã xây dựng được một hệ thống các đạo luật cụ thể liên quan đến bình đẳng, không phân biệt đối xử như phân tích dưới đây:
- Đạo luật Nhân quyền (The Human Rights Act) năm 1999: mục đích chính của đạo luật Nhân quyền là đưa nội dung Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con người và các tự do cơ bản năm 1953 vào trong pháp luật quốc gia của Na Uy, nhưng đồng thời đạo luật này còn quy định về vấn đề nội luật hóa các quy phạm của các công ước quốc tế của LHQ về quyền con người mà Na Uy là thành viên. Theo đó, các quy phạm quốc tế sau khi được nội luật hóa sẽ có giá trị áp dụng như là luật quốc gia của Na Uy; trong trường hợp xung đột pháp luật, các quy phạm quốc tế sẽ được ưu tiên so với các quy định của pháp luật Na Uy. Điều này đồng nghĩa với việc các quy định của luật nhân quyền quốc tế về bình đẳng, không phân biệt đối xử được trở thành một phần nội dung không thể thiếu của pháp luật quốc gia của Na Uy, được tôn trọng và bảo đảm thực thi đầy đủ trên lãnh thổ nước này.
- Luật Quốc tịch (The Norwegian Nationality Act) năm 2005: đưa ra các quy định nhằm bảo vệ quyền của người không quốc tịch sinh sống và làm việc tại Na Uy và tạo cho họ cơ hội trở thành công dân Na Uy một cách hợp pháp.
- Luật Hội nhập mới (The new Integration Act) năm 2021: bảo đảm sự bình đẳng cho các nhóm người nhập cư trong quá trình hòa nhập vào xã hội Na Uy, ngăn chặn các hành vi phân biệt đối xử với người nhập cư, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và tìm kiếm việc làm để ổn định cuộc sống tại Na Uy. Luật này là sự hiện thực hóa sinh động chính sách hội nhập của Na Uy hướng tới các mục tiêu cụ thể như gia tăng sự tham gia của lực lượng lao động nhập cư (nhất là lao động nữ) trên thị trường lao động, xây dựng các cộng đồng vững mạnh, đấu tranh với các định kiến xã hội tiêu cực và thúc đẩy quyền tham gia của người nhập cư trong việc hoạch định chính sách về hội nhập.
- Luật Giám hộ của Na Uy (The Norwegian Guardianship Act) (sửa đổi, bổ sung năm 2023) lồng ghép các nguyên tắc về bảo vệ quyền của người khuyết tật (được ghi nhận trong Công ước về quyền của người khuyết tật do Đại hội đồng LHQ thông qua vào năm 2006) nhằm đáp ứng các yêu cầu, nguyện vọng, ưu tiên cá nhân của người khuyết tật tại Na Uy, tạo cơ hội bình đẳng cho họ trong một xã hội đa dạng và hòa nhập.
- Luật Giáo dục mới (The new Education Act) năm 2024: cho phép mọi trẻ em ở Na Uy được quyền hưởng giáo dục tiểu học miễn phí, đồng thời ghi nhận quyền được hưởng giáo dục trung học phổ thông miễn phí đối với tất cả những người trẻ dưới 18 tuổi (kể cả người nước ngoài đang cư trú hợp pháp ở Na Uy).
- Luật Trách nhiệm truyền thông (The Media Liability) năm 2020: bảo vệ quyền tự do ngôn luận của các nhóm thiểu số, đồng thời đặt ra trách nhiệm pháp lý đối với các cá nhân, tổ chức có phát ngôn thù ghét hoặc có nội dung truyền thông bất hợp pháp, phân biệt đối xử với các nhóm thiểu số.
- Luật về ngôn ngữ (The Language Act) năm 2022: khẳng định tiếng Na Uy là một ngôn ngữ trọn vẹn, đồng thời bảo vệ vị thế của các ngôn ngữ khác như tiếng Sami, Kven, Romani,... Luật này thể hiện rõ chính sách văn hóa của Na Uy nhằm hỗ trợ, khuyến khích việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của các cộng đồng dân tộc thiểu số, thúc đẩy sự đa dạng văn hóa trong bối cảnh hòa nhập xã hội sâu rộng ở Na Uy.
- Luật Bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân của tội phạm bạo lực (The new Compensation for Violent Crimes Act) năm 2023: có nhiều quy định hướng đến việc bồi thường thiệt hại cho nạn nhân của các tội phạm liên quan đến hành vi bạo lực bắt nguồn từ sự khác biệt về màu da, sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, khuynh hướng tính dục, v.v..
- Bộ luật Hình sự (The Penal Code) năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2024: nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử và phát ngôn thù ghét vì các lý do sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ,... Trong lần sửa đổi mới nhất đầu năm 2024, Bộ luật Hình sự Na Uy đã mở rộng phạm vi bảo vệ đối với bản dạng giới và thể hiện giới của một cá nhân, đồng thời nghiêm cấm các liệu pháp điều trị y học nhằm chuyển đổi khuynh hướng tính dục của những người thuộc cộng đồng LGBT+. Với sự sửa đổi này, Na Uy được xem là quốc gia đầu tiên trên thế giới có các quy định của pháp luật nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử đối với cộng đồng LGBT+. Điều này thể hiện cam kết mạnh mẽ của nhà nước Na Uy trong việc nâng cao chất lượng sống của những người thuộc cộng đồng LGBT+ trên cơ sở ngày càng khoan dung và chấp nhận rộng rãi hơn sự đa dạng về giới và giới tính.
Có thể nói, với những đạo luật chuyên biệt kể trên và những đạo luật chuyên biệt khác về quyền con người, nhà nước Na Uy đã cụ thể hóa một cách sâu sắc nguyên tắc hiến định về bình đẳng, không phân biệt đối xử, thể hiện rõ nét cam kết của Na Uy trong việc thực thi nguyên tắc cơ bản của luật nhân quyền quốc tế. Quá trình xây dựng và hoàn thiện các đạo luật này đã góp phần đáng kể vào việc xóa bỏ bất bình đẳng, phân biệt đối xử ở Na Uy cũng như xây dựng một xã hội thực sự đa dạng, thúc đẩy hòa nhập và bảo đảm hiệu quả quyền con người, đặc biệt là quyền của các nhóm dễ bị tổn thương ở nước này.
Thứ tư, Na Uy có thiết chế pháp lý đặc thù nhằm thúc đẩy bình đẳng và ngăn chặn tình trạng phân biệt đối xử trên thực tế. Trên cơ sở Luật Bình đẳng và chống phân biệt đối xử năm 2018, Quốc hội Na Uy đã thông qua một đạo luật quan trọng, thiết lập các thiết chế bảo đảm bình đẳng và không phân biệt đối xử. Đó là Luật Cơ quan thanh tra về bình đẳng và chống phân biệt đối xử (Equality and Anti-Discrimination Ombud Act) năm 2018 (sửa đổi, bổ sung năm 2024). Đạo luật này quy định về tổ chức và hoạt động của hai thiết chế độc lập là cơ quan thanh tra về bình đẳng và chống phân biệt đối xử (gọi tắt là the Ombud) và Tòa chuyên trách về chống phân biệt đối xử (the Anti-discrimination Tribunal).
- The Ombud là cơ quan hành chính công độc lập trực thuộc Nhà vua và Bộ Văn hóa và Bình đẳng. Tuy nhiên, cả Nhà vua và Bộ đều không được ban hành các chỉ thị đối với các hoạt động chuyên môn của cơ quan này. Người đứng đầu cơ quan này được Nhà vua trong Hội đồng (King in Council)21 bổ nhiệm với nhiệm kỳ 6 năm và không được tái bổ nhiệm. The Ombud có nhiệm vụ thúc đẩy bình đẳng thực chất và ngăn ngừa phân biệt đối xử trong mọi lĩnh vực xã hội dựa trên cơ sở giới, tình trạng mang thai, nghỉ thai sản do sinh con hoặc nhận con nuôi, sắc tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng khuyết tật, khuynh hướng tính dục, bản dạng giới, biểu hiện giới hoặc tuổi tác.
- Tòa chuyên trách về chống phân biệt đối xử cũng là một cơ quan hành chính công độc lập trực thuộc Nhà vua và Bộ Văn hóa và Bình đẳng. Tòa có nhiệm vụ giải quyết các đơn khiếu kiện liên quan đến những hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về bình đẳng và không phân biệt đối xử (trong đó đưa ra các chế tài xử phạt cũng như các phương án bồi thường thiệt hại cho nạn nhân của hành vi vi phạm quyền con người).
3. Gợi mở đối với Việt Nam
Hiện nay, bình đẳng và không phân biệt đối xử đã được ghi nhận trong Hiến pháp và một số đạo luật chuyên ngành của Việt Nam22, thể hiện nỗ lực của Việt Nam trong thực thi các cam kết quốc tế về quyền con người. Mặc dù vậy, pháp luật Việt Nam chưa ghi nhận rõ bình đẳng và không phân biệt đối xử như một nguyên tắc pháp lý độc lập và xuyên suốt. Các quy định pháp luật về bình đẳng, không phân biệt đối xử nằm rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, gây khó khăn trong nhận thức và hành động của các chủ thể có liên quan.
Trong bối cảnh đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay (theo tinh thần của Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII), một trong những yêu cầu quan trọng đặt ra là phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu thực tiễn pháp luật về bình đẳng, không phân biệt đối xử ở Na Uy giúp cung cấp cho Việt Nam một số bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo hữu ích, nhất là đối với hoạt động lập pháp liên quan đến nội dung này.
Một là, tiếp tục hoàn thiện các quy định về bình đẳng, không phân biệt đối xử trong Hiến pháp và các đạo luật có liên quan. Cần ghi nhận rõ bình đẳng, không phân biệt đối xử như một nguyên tắc hiến định, có tính chất chỉ đạo xuyên suốt đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng, không phân biệt đối xử ở Việt Nam trong thời gian tới.
Hai là, xây dựng và ban hành một đạo luật riêng về bình đẳng, không phân biệt đối xử. Việc xây dựng một đạo luật chung về bình đẳng, chống phân biệt đối xử không làm vô hiệu mà chỉ bổ sung cho các đạo luật chuyên ngành đã có23. Đạo luật này sẽ đóng vai trò như một luật khung, là cơ sở tham chiếu cho việc thiết kế các luật khác có liên quan, trong đó đưa ra những quy định chung như định nghĩa về “phân biệt đối xử”, phạm vi của phân biệt đối xử, các căn cứ của phân biệt đối xử, phân biệt giữa “phân biệt đối xử trực tiếp” và “phân biệt đối xử gián tiếp”, các hành vi bị nghiêm cấm, mức độ phân biệt đối xử được phép (và được coi là hợp pháp), trách nhiệm của các cơ quan nhà nước nói chung trong bảo đảm bình đẳng, không phân biệt đối xử, các loại trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi gây bất bình đẳng, có tính phân biệt đối xử,...
Ba là, tiếp tục hoàn thiện các đạo luật chuyên biệt về bình đẳng, không phân biệt đối xử trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội trên cơ sở quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về quyền con người cũng như tiệm cận chuẩn mực quốc tế về quyền con người trong những công ước mà Việt Nam là thành viên. Hiện nay, tuy vấn đề về bình đẳng và không phân biệt đối xử đã được đề cập đến trong không ít các luật chuyên ngành, nhưng vẫn còn có những khoảng trống pháp lý nhất định, nhất là các căn cứ của phân biệt đối xử. Điều này một mặt cho thấy nỗ lực của các nhà lập pháp Việt Nam trong việc bao quát các nhóm đối tượng và các lĩnh vực xã hội khác nhau khi xây dựng các quy phạm pháp luật về bình đẳng, không phân biệt đối xử. Nhưng mặt khác, nó cũng bộc lộ những bất cập khi một số nhóm đối tượng bị “bỏ qua”, có nguy cơ không được bảo đảm quyền một cách chính đáng (ví dụ như cộng đồng LGBT+). Do vậy, trong thời gian tới, bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện những đạo luật đã có, cần nghiên cứu ban hành những đạo luật mới, hướng tới bảo đảm bình đẳng và ngăn ngừa phân biệt đối xử với những nhóm đối tượng chưa được luật điều chỉnh, phù hợp với nhu cầu xã hội cũng như xu thế phát triển trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
Bốn là, xây dựng thiết chế độc lập có chức năng bảo đảm bình đẳng và không phân biệt đối xử ở Việt Nam. Trên thực tế, hiện đã có nhiều cơ quan nhà nước có chức năng bảo đảm quyền con người nói chung, trong đó có chức năng bảo đảm bình đẳng, chống phân biệt đối xử (như một số ban của Quốc hội, một số cơ quan của Chính phủ, các vụ chức năng thuộc các Bộ, một số ủy ban liên ngành,...). Tuy nhiên, các cơ quan này không có thẩm quyền giải quyết các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng, không phân biệt đối xử. Tòa án các cấp cũng không có chức năng riêng biệt giải quyết các vụ án liên quan đến hành vi gây bình đẳng, phân biệt đối xử (mặc dù việc xét xử các vụ án về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính,... có thể chứa đựng nội dung về bình đẳng, phân biệt đối xử). Trong bối cảnh đó, có thể tham khảo kinh nghiệm các nước trên thế giới, trong đó có Na Uy, về việc thiết lập một cơ quan chuyên trách về bình đẳng, chống phân biệt đối xử, có chức năng giải quyết khiếu nại và xử lý các vi pham có liên quan. Cơ quan này có thể trực thuộc Quốc hội hoặc Chính phủ, đảm bảo tính quyền lực nhà nước cũng như thuận lợi cho sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong bảo đảm bình đẳng, ngăn ngừa và chống phân biệt đối xử một cách hiệu quả.
Tóm lại, bình đẳng và không phân biệt đối xử là một nguyên tắc pháp lý cơ bản, là nội dung không thể thiếu của pháp luật quốc gia và quốc tế về quyền con người. Việc nghiên cứu và tham khảo có chọn lọc những bài học kinh nghiệm tốt của các nước trên thế giới, trong đó có Na Uy, sẽ góp phần thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật về bình đẳng, chống phân biệt đối xử nói riêng, trong bối cảnh tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay./.
TS. Lê Xuân Tùng
Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 41/2024
---
Tài liệu tham khảo
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H., 2011, t.4, tr.1.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.1.
(3) Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Từ điển Bách khoa, H., 2010, tr. 101.
(4) Đỗ Đức Minh, “Bình đẳng” trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý: Nội dung và ý nghĩa, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, ngày 11/8/2024.
(5) Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, Quyền con người – Tập hợp những bình luận/khuyến nghị chung của Ủy ban Công ước Liên hợp quốc, Nxb Công an nhân dân, H., 2010, tr. 281.
(6) Hội đồng châu Âu, Khuyến nghị CM/REC (2013) 2 của Ủy ban các bộ trưởng các nước thành viên về bảo đảm sự hòa nhập xã hội đầy đủ của trẻ em và thanh thiếu niên khuyết tật, ngày 16/10/2013. Xem tại: https://search.coe.int/cm?i=09000016805c75de
(7) Lord Lester of Herne Hill QC (1993), Non-discrimination in International Human Rights Law, Commonwealth Law Bulletin, 19(4), pp.1653–1669. https://www.thecommonwealth-ilibrary.org/index.php/comsec/catalog/download/439/439/3813?inline=1
(8) Nguyễn Linh Giang, Nguyên tắc không phân biệt đối xử - Chuẩn mực nhân quyền phổ quát, Tạp chí Nhân quyền Việt Nam, số 12/2003, tr.18.
(9) Cũng có quan điểm coi đây là hai nguyên tắc tách biệt - nguyên tắc bình đẳng và nguyên tắc không phân biệt đối xử. Về vấn đề này, tác giả sẽ thảo luận trong một bài viết khác.
(10) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Các văn kiện quốc tế, khu vực về quyền con người, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, H., 2023, tr.42.
(11) Sđd, tr.118.
(12) Sđd, tr.127.
(13) Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, Quyền con người – Tập hợp những bình luận/khuyến nghị chung của Ủy ban Công ước Liên hợp quốc, Nxb Công an nhân dân, H., 2010, tr. 283.
(14) Nguyễn Linh Giang, Nguyên tắc không phân biệt đối xử - Chuẩn mực nhân quyền phổ quát, Tạp chí Nhân quyền Việt Nam, số 12/2003, tr.19.
(15) Bản Hiến pháp đầu tiên của Na Uy được ban hành vào năm 1814 và đến nay, nước này đã trải qua nhiều lần sửa đổi Hiến pháp.
(16) Lê Xuân Tùng, Hiến pháp và luật về quyền con người của một số quốc gia trên thế giới – Tuyển chọn, trích dẫn và bình luận, Nxb Lý luận chính trị, H., 2023, tr.41.
(17) Toumas Ojanen, Equality and Non-discrimination in Human Rights Treaties and Nordic Constitutions, Scandinavian Studies in Law, No.68, p.114.
(18) Xem nội dung luật này tại https://lovdata.no/dokument/NLE/lov/2017-06-16-51 (bản tiếng Anh)
(19) Điều 9 Luật này còn quy định về phân biệt đối xử hay đối xử khác biệt được coi là hợp pháp trong những trường hợp cụ thể liên quan đến quan hệ lao động – việc làm (như tuyển dụng lao động trong một số ngành nghề đặc thù), hoặc trong trường hợp phụ nữ mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ hay nghỉ thai sản vì lý do sinh con hoặc nhận con nuôi.
(20) Báo cáo quốc gia về quyền con người của Na Uy theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV năm 2024. Xem tại https://documents.un.org/doc/undoc/gen/g24/142/56/pdf/g2414256.pdf
(21) Tiếng Na Uy: Kongen i statsråd, ám chỉ cuộc họp giữa Nhà vua và Hội đồng Nhà nước (Council of State) tại Cung điện hoàng gia Na Uy, trong đó Nhà vua giữ vai trò chủ trì, để bàn và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Theo quy định của Hiến pháp Na Uy, Hội đồng Nhà nước là chính phủ chính thức của Na Uy và do Nhà vua Na Uy lãnh đạo.
(22) Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định nguyên tắc “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” và “không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Ngoài ra, bình đẳng và không bị phân biệt đối xử còn được quy định trong nhiều bộ luật và luật khác như Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Tín ngưỡng và tôn giáo năm 2016, Luật Giáo dục năm 2019,…
(23) Lã Khánh Tùng, Lập pháp bảo đảm bình đẳng ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5 (453)/2022, tr.7.