Quyền con người là những quyền tự nhiên, bất khả xâm phạm và không bị tước bỏ bởi bất cứ chính thể nào. Hiện nay, có nhiều xu hướng khác nhau về quyền kết hôn đồng giới như công nhận, công nhận hạn chế và cấm. Tại Việt Nam, vấn đề kết hôn đồng giới vẫn được để ngỏ trong hệ thống pháp luật. Bài viết góp phần làm rõ một số xu hướng pháp luật hiện nay trên thế giới, đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật quyền kết hôn của người đồng giới.

Ảnh minh họa. Nguồn: baophapluat.vn.

Trong những năm gần đây, vấn đề “hôn nhân đồng giới” (HNĐG) đang trở thành tâm điểm tranh luận tại Việt Nam với xu hướng ủng hộ hôn nhân đồng giới đang ngày càng gia tăng. Thực tế, chưa có thống kê chính thức nào về số lượng người đồng giới tại Việt Nam nhưng theo một số liệu thống kê không chính thức, ở Việt Nam, cộng đồng LGBT khoảng 9-11% dân số, tương đương 10 triệu người (theo một nghiên cứu của World Bank năm 2023). Với số lượng người thuộc cộng đồng LGBT lớn như vậy thì việc công nhận hay không công nhận HNĐG là một vấn đề quan trọng có tác động sâu sắc tới các quyền của họ, trong đó quyền được tự do kết hôn, quyền được mưu cầu hạnh phúc là quyền tự nhiên bất khả xâm phạm của con người.

1. Khái quát về hôn nhân đồng giới từ góc độ quyền con người

LGBT là thuật ngữ chỉ xu hướng tính dục của một người, như nam yêu nam hoặc nữ yêu nữ. Người song tính là những người có thể yêu cả hai giới1. LGBT bao gồm những người: Lesbian (đồng tính nữ), Gay (đồng tính nam), Bisexual (người song tính/lưỡng tính) và Transgender (người chuyển giới). Đây đều là những người thuộc cộng đồng người có xu hướng tính dục khác với dị tính.

Xã hội ngày càng hiện đại và nhận thức tư tưởng tiến bộ đã mở ra cơ hội cho người LGBT tự khẳng định mình trong xã hội. Sự hội nhập của nhóm người này có thể được nhìn nhận như một phần tất yếu và tự nhiên trong sự phát triển của xã hội tuy nhiên sự hội nhập này vẫn còn gặp nhiều khó khăn và trở ngại. Bởi vì, những người LGBT như một nhóm thiểu số về bản dạng giới và xu hướng tính dục, đã luôn phải đối mặt với những nguy cơ phân biệt đối xử trong tương tác xã hội, giáo dục và việc làm. Quyền cơ bản của họ như quyền kết hôn đồng giới và các quyền liên quan đến hôn nhân như giám hộ, thừa kế và nhận nuôi con vẫn chưa được công nhận rộng rãi.

Trong bài viết này, nhóm tác giả sẽ tập trung bàn về vấn đề HNĐG như một phần của nỗ lực xây dựng một xã hội bình đẳng, công bằng và đa dạng hơn. HNĐG là hình thức kết hôn đôi giữa những người cùng giới tính, có đăng ký với nhà nước, được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn với đầy đủ những quyền, nghĩa vụ và sự công nhận pháp lý như những cặp đôi khác giới. Ngoài hình thức HNĐG, thực tiễn pháp luật các quốc gia trên thế giới còn ghi nhận nhiều chế định khác nhau, tương tự hoặc thấp hơn địa vị pháp lý của quan hệ hôn nhân của các cặp đôi dị tính, như quan hệ gia đình (domestic  partnership), kết đôi có đăng ký (registered partnership), hay kết hôn dân sự (civil union)2.

2. Những xu hướng pháp luật về hôn nhân đồng giới tại một số quốc gia

a) Xu hướng công nhận hôn nhân đồng giới

Trên toàn cầu, xu hướng công nhận HNĐG ngày càng rõ ràng và mạnh mẽ, phản ánh sự tiến bộ và thay đổi trong quan điểm xã hội, pháp luật và văn hóa. Nhiều quốc gia gần đây đã áp dụng các biện pháp và chính sách để công nhận và bảo vệ HNĐG, tạo điều kiện cho các cặp đôi LGBT hợp pháp hóa mối quan hệ của họ.

Một số quốc gia đã tiến hành việc hợp pháp hóa HNĐG thông qua việc thay đổi luật hôn nhân hoặc thông qua các quy định pháp lý mới. Ví dụ, ngày 26/6/2013, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ quyết định gỡ bỏ lệnh cấm kết hôn đồng giới tại bang California - Bang có đông dân nhất và bãi bỏ một phần của Đạo luật Bảo vệ hôn nhân (DOMA), giúp đảm bảo các cặp đôi đồng tính kết hôn có quyền hưởng các quyền lợi xã hội như các cặp đôi khác. Điều này đã mở ra quyền kết hôn đồng tính cho hơn 1/3 dân số Hoa Kỳ. Hoặc Canada đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới vào năm 2005, khi Quốc hội Canada thông qua Dự luật C-38, tạo cơ sở pháp lý cho việc kết hôn giữa những cặp đồng giới. Bên cạnh đó, Anh đã hợp pháp hóa HNĐG vào năm 2014 thông qua Đạo luật Hôn nhân (Cải cách) năm 2013, cho phép cặp đôi đồng giới kết hôn tại các quận lễ tân trong nước này. Tây Ban Nha đã hợp pháp hóa HNĐG vào năm 2005 thông qua một dự luật được thông qua bởi Quốc hội.

Ngoài ra, một số quốc gia khác đã công nhận HNĐG thông qua các phán quyết của tòa án hoặc quyết định của các cơ quan chính phủ. Điển hình là, năm 2010, Argentina đã trở thành quốc gia thứ mười trên thế giới và quốc gia thứ hai tại châu Mỹ Latinh hợp pháp hóa HNĐG thông qua một phán quyết của Tòa án Tối cao. Năm 2017, Tòa án Tối cao Úc đã đưa ra quyết định hợp pháp hóa HNĐG tại tất cả các bang và lãnh thổ của Úc, kết thúc một cuộc tranh luận dài nhiều năm về vấn đề này. Cùng năm, Tòa án Hiến pháp Đài Loan quyết định hợp pháp hóa HNĐG và trở thành quốc gia đầu tiên tại châu Á công nhận HNĐG.

Sự công nhận này không chỉ bảo vệ quyền lợi của cộng đồng LGBT, mà còn phản ánh sự tiến bộ và chấp nhận rộng rãi hơn về đa dạng tình yêu và mối quan hệ trong xã hội. Dù vẫn còn thách thức và tranh cãi về HNĐG ở một số khu vực và quốc gia, xu hướng chung trên toàn cầu đang tích cực, thúc đẩy sự công bằng và đa dạng trong hôn nhân và mối quan hệ. Đây là bước quan trọng trong việc xây dựng một xã hội công bằng, nơi mọi người đều có quyền được yêu và kết hôn với người mình lựa chọn, không phân biệt giới tính.

b) Xu hướng công nhận hạn chế hôn nhân đồng giới

Trong vài năm gần đây, đã có một số quốc gia áp dụng các biện pháp hạn chế đối với HNĐG, thường bao gồm việc không công nhận HNĐG hoặc giới hạn quyền lợi hôn nhân cho các cặp đồng giới bằng cách kết hôn dân sự (KHDS) và đối tác chung nhà (ĐTCN).

   KHDS và ĐTCN là các hình thức pháp lý mà một số quốc gia cung cấp cho các cặp đồng giới hoặc những người không muốn hoặc không được phép kết hôn theo truyền thống. Các cặp đồng giới hoặc các cặp không kết hôn được cho phép đăng ký với chính phủ và nhận các quyền lợi tương tự như hôn nhân truyền thống.

KHDS là việc công nhận không hoàn toàn, một hình thức tương tự như hôn nhân, áp dụng riêng cho các cặp đôi cùng giới. Các cặp đôi này đăng ký với cơ quan nhà nước để hợp pháp hóa việc chung sống với nhau và hưởng các quyền, nghĩa vụ tương tự như hôn nhân của các cặp khác giới điển hình như quyền thừa kế, quyền hưởng lợi từ bảo hiểm y tế, quyền quyết định y tế cho đối tác và quyền đóng thuế chung. KHDS bắt đầu ở Đan Mạch năm 1989 (sau này Đan Mạch đã theo hướng hoàn toàn công nhận hôn nhân đồng giới vào năm 2012). Tiếp sau đó là một số quốc gia và vùng lãnh thổ đến hiện nay vẫn áp dụng là: Thụy Sĩ, Malta, Liechtenstein, Hungary, Gibraltar, Cộng hòa Séc,...3.

Trong khi đó, thuật ngữ ĐTCN dùng để chỉ một mức độ tương tự về quyền lợi và trách nhiệm, nhưng có thể có sự khác biệt trong phạm vi của chúng tùy thuộc vào quy định của từng quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, trên nguyên tắc công dân được làm những điều mà pháp luật không cấm thì những người cùng giới tính vẫn có thể chung sống với nhau. Tuy nhiên khi có tranh chấp, mâu thuẫn xảy ra thì cơ chế giải quyết không theo pháp luật về hôn nhân gia đình như đối với các quan hệ hôn nhân được pháp luật công nhận mà theo các quy định pháp luật dân sự và các quy định pháp luật khác. Như vậy, hôn nhân đồng giới vẫn chưa được pháp luật Việt Nam bảo vệ một cách đầy đủ.

KHDS và ĐTCN được quy định khác nhau theo pháp luật của mỗi quốc gia, giữa chúng có những nét tương đồng và cũng tồn tại nhiều điểm khác biệt.

Thứ nhất, KHDS và ĐTCN được xây dựng dựa trên sự đồng ý của cả hai bên. Tương tự như các giao dịch dân sự khác, cả hai loại hình này đều là sự lựa chọn của hai cá nhân, bất kể họ là đồng giới hay không, để sống chung với nhau như vợ chồng và nhận một số quyền lợi và trách nhiệm cụ thể.

Thứ hai, việc chung sống dưới hình thức KHDS và ĐTCN phải thỏa mãn những điều kiện luật định. Các điều kiện luật định này có thể là độ tuổi (hầu hết các nước đều quy định phải trên 18 tuổi), giới tính (một số nước chỉ dành các hình thức thay thế hôn nhân này cho người đồng giới như Cộng hòa Czech, Vương quốc Anh, Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy...), tình trạng quan hệ (chẳng hạn không được có mối quan hệ KHDS hay ĐTCN với người khác khi đăng ký) và một số trường hợp cấm khác tùy theo pháp luật mỗi nước.

Thứ ba, các bên quan hệ phải đăng ký việc chung sống dưới hình thức KHDS hoặc ĐTCN theo quy trình pháp lý. Việc đăng ký này là để công khai mối quan hệ của họ, nhằm nhận được sự bảo vệ của pháp luật. Chỉ khi đã hoàn thành đăng ký theo quy định pháp luật, mối quan hệ của họ mới được công nhận chính thức. Điều này là cơ sở quan trọng để xác định quyền và nghĩa vụ của họ đối với các hình thức KHDS và ĐTCN. Tuy nhiên, ở một số quốc gia, như tại tiểu bang South Australia của Australia, pháp luật vẫn công nhận mối quan hệ thực tế dưới một trong hai hình thức này khi có tranh chấp xảy ra, dù không đăng ký.

Thứ tư, các bên phải cam kết hỗ trợ lẫn nhau cả về mặt tinh thần và vật chất trong cuộc sống chung, tương tự như vai trò của vợ chồng. Mặc dù KHDS và ĐTCN không được coi là hôn nhân, nhưng pháp luật của nhiều quốc gia yêu cầu các bên sống chung theo hai hình thức này phải có trách nhiệm nhất định đối với nhau, tương tự như vợ chồng. Cách thức cam kết này có thể thay đổi tùy theo quy định của pháp luật trong từng quốc gia.

Thứ năm, trong KHDS hoặc ĐTCN, các bên đều có quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật, tuy nhiên không đầy đủ như trong hôn nhân bởi vì KHDS và ĐTCN không được công nhận như hôn nhân. Ví dụ, ở Pháp, cặp đôi đồng tính đăng ký KHDS không được cấp Sổ gia đình, không hưởng quy chế quốc tịch của nhau và không có quyền thừa kế tài sản4.

KHDS và ĐTCN là những cơ chế pháp lý quan trọng đối với cộng đồng LGBT vì không chỉ cung cấp cho các cặp đồng giới quyền lợi và bảo vệ pháp lý, mà còn thể hiện sự công bằng và đa dạng trong xã hội. Bằng cách cho phép các cặp đồng giới KHDS và ĐTCN đã thể hiện sự tôn trọng đa dạng của tình yêu và mối quan hệ trong xã hội. Mỗi cá nhân đều có quyền được yêu và sống cùng người mình lựa chọn mà không bị phân biệt đối xử về giới tính. Bên cạnh đó, chế định này giúp loại bỏ những rào cản pháp lý và xã hội mà người LGBT thường gặp phải, tạo ra một môi trường thoải mái và công bằng hơn cho tất cả mọi người.

c) Xu hướng cấm hôn nhân đồng giới tại một số quốc gia

Những năm 1950, hàng trăm người bị sa thải vì là đồng tính trong một chiến dịch có tên là “Nỗi sợ hoa oải hương” của McCarthyism. Tuy nhiên, nhiều nhà chính trị đã chỉ trích một cách mỉa mai ông vì có phụ tá là người đồng tính là Roy Cohm. Vào tháng 1/2001, Bộ Văn hóa Ai Cập cho đốt 6.000 quyển sách thơ đồng tính thế kỷ thứ 8 của nhà thơ Ba Tư-Ả Rập Abu Nuwas để xoa dịu người Hồi giáo5.

Hiện nay vẫn còn 72 quốc gia và vùng lãnh thổ có luật trừng phạt hành vi đồng tính, có cả các quốc gia phát triển được ghi nhận trong bản báo cáo của hiệp hội Đồng tính, Song tính, Chuyển giới và Lưỡng tính Quốc tế (ILGA)6. Cũng theo báo cáo hàng năm của hiệp hội Đồng tính, Song tính, Chuyển giới và Lưỡng tính Quốc tế, hiện nay có 8 quốc gia có khung hình phạt cao nhất là tử hình dành cho hành vi đồng tính luyến ái bên cạnh hàng chục quốc gia khác là bỏ tù hoặc đánh đập. Ở Iran, Sudan, Ả-rập Xê-út và Yemen, quan hệ tình dục đồng giới có thể bị trừng phạt bằng án tử theo luật Sharia của đạo Hồi. Trong phần 2 Điều 117 Bộ luật hình sự của Iran có ghi rõ: người thực hiện hành vi tình dục đồng giới sẽ phải nhận án tử hình. Tại 2 quốc gia Hồi giáo khác là Syria và Iraq, án tử hình được thực hiện ở những vùng lãnh thổ bị chiếm đóng bởi tổ chức khủng bố IS. Duy nhất ở Israel, quyền của người đồng tính được pháp luật hỗ trợ. Israel là nước có tỷ lệ ủng hộ HNĐG cao nhất thế giới với 61% người dân ủng hộ, cũng là quốc gia đầu tiên và duy nhất tại khu vực công nhận sự chung sống không đăng ký của cặp đôi đồng giới.

Như vậy, việc cấm kết hôn của những người đồng giới chính là sự phân biệt đối xử. Quyền kết hôn là một quyền thiêng liêng trong đời sống của mỗi cá nhân. Do vậy, bảo vệ quyền kết hôn của người đồng giới sẽ góp phần thúc đẩy bình đẳng cho tất cả mọi người trong xã hội.

3. Những gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam về công nhận hôn nhân đồng giới

Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì quan hệ HNĐG tại Việt Nam không được Nhà nước “thừa nhận”. Điều này đồng nghĩa với việc quan hệ hôn nhân giữa những người cùng giới tính không có giá trị về mặt pháp lý, từ đó không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ về hôn nhân giữa các bên trong quan hệ, mối quan hệ giữa các chủ thể nằm ngoài quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình và không được bảo hộ. Nói cách khác, quan hệ hôn nhân giữa những người cùng giới tính không phải là quan hệ hôn nhân theo quy định của pháp luật. Khoản 1 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Hôn nhân  là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn” và khoản 5 Điều 3 quy định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Như vậy, quan hệ hôn nhân chỉ có thể xác lập giữa nam và nữ, sự kiện kết hôn cũng chỉ được xác lập giữa nam và nữ. Ngoài ra, các quan hệ như kết hôn trái pháp luật, sống chung với nhau như vợ chồng quy định tại Khoản 6, 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình cũng chỉ xác lập giữa các chủ thể là nam và nữ. Do đó, hôn nhân cùng giới tính của những người đồng giới không được bảo hộ theo pháp luật hôn nhân và gia đình. Qua đó, có thể thấy quyền tìm kiếm hạnh phúc, kết hôn theo ý chí tự nguyện và các quyền khác có liên quan của những người kết hôn đồng tính chưa được pháp luật bảo vệ bình đẳng như với những người khác.

Trên cơ sở những xu hướng hiện nay của pháp luật hôn nhân và gia đình về HNĐG của các quốc gia trên thế giờ, căn cứ pháp luật quốc tế về quyền con người và thực trạng hôn nhân đồng giới hiện nay, nhóm tác giả kiến nghị pháp luật Việt Nam nên công nhận quan hệ HNĐG bởi những lý do sau:

Thứ nhất, công nhận quan hệ HNĐG phù hợp với pháp luật quốc tế về quyền con người.

Mỗi cá thể người được sinh ra, không phân biệt giới tính, độ tuổi, quốc tịch, giai cấp, giàu nghèo hay xu hướng tính dục đều có đầy đủ các quyền con người. Người đồng tính cũng giống như bất kỳ ai khác trong xã hội, họ có các quyền cơ bản của một con người, bao gồm quyền mưu cầu hạnh phúc. Hướng tới những người có cùng giới tính sinh học, xu hướng tình dục của họ phản ánh những đặc điểm tâm sinh lý từ khi sinh ra hay trong quá trình phát triển tâm lý xã hội. Họ mong muốn được kết hôn với nhau vì đó là niềm hạnh phúc mà họ mong đợi. Trên cơ sở đó, công nhận hôn nhân đồng giới chính là việc đảm bảo quyền con người của người đồng tính, đưa pháp luật của quốc gia đến gần hơn với những chuẩn mực quốc tế về quyền. Sự thừa nhận của nhà nước là sự ghi nhận cần thiết, thể hiện sự đối xử bình đẳng của tất cả mọi người trong các quan hệ xã hội.

Thứ hai, công nhận quan hệ HNĐG là cơ sở bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình.

Một mối quan hệ hôn nhân được pháp luật thừa nhận đồng nghĩa với việc mối quan hệ đó sẽ được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình. Với tư cách là một hệ thống quy phạm pháp luật đặc biệt điều chỉnh chuyên biệt các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình thì pháp luật hôn nhân và gia đình sẽ tạo ra những cơ chế đặc thù đối với nhóm quan hệ này so với các quan hệ pháp luật dân sự thông thường khác như quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng; quan hệ tài sản; quan hệ với con cái; quan hệ cấp dưỡng; quan hệ thừa kế; quyền yêu cầu cơ quan chức năng bảo vệ quan hệ hôn nhân của mình trước người thứ ba... Các quan hệ đó chỉ có thể được đảm bảo bởi những quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình mới đảm bảo đúng các quyền lợi của các bên liên quan. Đối với những cặp đồng giới, họ cũng cần được đảm bảo các quyền trên theo cơ chế điều chỉnh đặc biệt của pháp luật hôn nhân và gia đình. Họ cũng là con người, là công dân của quốc gia, là người có những quyền và nghĩa vụ theo quy định của Hiến pháp thì họ cần được pháp luật bảo vệ như những cặp vợ chồng thông thường khác. Chính vì vậy, việc công nhận quan hệ hôn nhân đồng giới là sự thừa nhận của nhà nước, đảm bảo sự bình đẳng trước pháp luật của con người, của công dân.

Thứ ba, công nhận quan hệ HNĐG không xâm phạm và gây ảnh hưởng tới lợi ích công, sự ổn định của nhà nước và xã hội.

Có nhiều quan điểm cho rằng, việc công nhận quan hệ HNĐG sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội như giảm tỷ lệ sinh, gây ảnh hưởng tới việc nuôi dạy trẻ... Tuy nhiên trên thực tế, việc công nhận quan hệ HNĐG không có những tác động tiêu cực như vậy. Bởi lẽ, số lượng người đồng tính chỉ chiếm số lượng thiểu số trong xã hội nên việc kết hôn giữa họ không hề có tác động tới tỷ lệ sinh trên thực tế khi 90% dân số còn lại vẫn có tỷ lệ sinh bình thường. Ngoài ra, dù không công nhận HNĐG thì trong nhận thức bản dạng giới của mình, họ sẽ không tìm kiếm người vợ hay người chồng khác giới và như vậy sẽ ảnh hưởng đến quyền của họ. Thêm nữa, trên thực tế vẫn có những đứa trẻ được nuôi dạy bởi những cặp vợ chồng đồng giới mà họ vẫn trở thành những người đứng đắn, có đóng góp to lớn cho xã hội như PGS.TS. Dương Tuyết Miên đã nêu trong bài viết của mình7.

Tuy nhiên, việc công nhận quan hệ HNĐG với thực trạng xã hội hiện nay tại Việt Nam cần có một lộ trình từng bước để tránh những tác động tiêu cực tới đời sống xã hội, cũng như tạo thời gian trong việc nghiên cứu và ban hành các quy định pháp luật sát với tính đặc thù của mối quan hệ này.

Kết luận

Trên cơ sở những nghiên cứu mang tính lý luận về hôn nhân đồng giới gắn với quyền con người trên cơ sở có sự khảo sát xu hướng pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, nhóm tác giả đã đưa ra một số ý kiến về việc nên công nhận HNĐG tại Việt Nam và những lý do công nhận.

Lê Duy Định

Học viên Học viện Tư pháp

Bùi Lê Hiếu

Cử nhân Luật Học viện Tòa án

Lưu Thị Hoài Thu

Sinh viên Học viện Tòa án

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 39 (08/2024)

---

Tài liệu trích dẫn

(1) Bệnh viện đa khoa MEDLATEC, LGBT là gì - những vấn đề xoay quanh đồng tính, song tính và chuyển giới, https://medlatec.vn/tin-tuc/lgbt-la-gi--nhung-van-de-xoay-quanh-dong-tinh-song-tinh-va-chuyen-gioi-s195-n20117, truy cập ngày 12/7/2024.

(2) Nguyễn Thị Hồng Trinh, Bùi Thị Quỳnh Trang, Nguyễn Hữu Khánh Linh, “Kinh nghiệm của Cuba và Slovekia về hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới - Một số gợi mở cho Việt Nam”. Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, số 55/2023, tr.166.

(3) Thế giới tiếp cận Hôn nhân đồng giới như thế nào?, https://thuvienphapluat.vn/cong-dong-dan-luat/the-gioi-tiep-can-hon-nhan-dong-gioi-nhu-the-nao, truy cập ngày 12/7/2024.

(4) Cao Vũ Minh, Nguyễn Đức Nguyên Vỵ, “Nên thừa nhận chế định kết hợp dân sự giữa hai người cùng giới tính”. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7(263), tháng 4/2014, tr.34.

(5) Bùi Thị Phương Thảo, (2019), Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2019, tr.43.

(6) - Châu Á: Afghanistan, Bangladesh, Ấn Độ, Iran, Iraq, Malaysia, Myanmar, Oman, Pakistan, Qatar, Singapore, các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, Uzbekistan và Yemen,...

- Châu Phi: Ai Cập, Algeria, Angola, Liberia, Libya, Malawi, Mauritania, Mauritius, Morocco, Namibia, Nigeria, Senegal, Swaziland, Tanzania, Togo, Tunisia, Uganda, Zambia và Zimbabwe,...

- Châu Mỹ: Antigua và Barbuda, Barbados, Grenada, Guyana, Jamaica, St Kitts và Nevis, St Lucia, St Vincent và the Grenadines, Trinidad và Tobago.

- Châu Đại dương: quần đảo Cook Islands, Indonesia, Kiribati, Tuvalu,...

(7) Dương Tuyết Miên, Bàn về quyền kết hôn của người đồng tính, https://danchuphapluat.vn/ban-ve-quyen-ket-hon-cua-nguoi-dong-tinh? , truy cập ngày 12/7/2024.