Bài viết tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong bảo đảm quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer; đánh giá khái quát những kết quả đạt được, chỉ ra một số hạn chế, bất cập và đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong việc bảo đảm tốt hơn quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn của tỉnh Trà Vinh trong thời gian tới.
Quyền học tập là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, có vai trò nền tảng và liên quan đến tất cả các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá. Bảo đảm quyền học tập của người dân, đặc biệt đối với những người thuộc nhóm yếu thế như người dân tộc thiểu số (DTTS) có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển của tỉnh Trà Vinh nói riêng và cả nước nói chung. Bởi tỉnh Trà Vinh là một trong những địa phương có đông đồng bào dân tộc Khmer nhất khu vực Tây Nam Bộ với 329.662 người Khmer sinh sống (89.429 hộ) (chiếm 31,53% dân số của tỉnh). Trong những năm qua, Đảng bộ, chính quyền các cấp của tỉnh Trà Vinh luôn quan tâm thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với đồng bào dân tộc Khmer, đặc biệt chính sách về bảo đảm quyền học tập của người dân tộc Khmer trên địa bàn của tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, việc bảo đảm quyền học tập của người dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh Trà Vinh vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Do vậy, cần nghiên cứu giải pháp phát huy vai trò của chính quyền địa phương, nhất là chính quyền địa phương cấp tỉnh trong bảo đảm quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn của tỉnh.
Học viên lớp xóa mù chữ huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh.
Nguồn: tieucan.travinh.gov.vn.
1. Một số vấn đề lý luận về vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong bảo đảm quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau, trong đó có quan điểm cho rằng, quyền học tập được coi là quyền cơ bản của con người, bắt buộc ở bậc phổ cập, không bị giới hạn bởi lứa tuổi, giới tính, tôn giáo; không phân biệt thành phần xuất thân hay địa vị xã hội; được học mọi lúc, mọi nơi, học bất kỳ ngành nghề nào nhưng không trái với quy định của pháp luật; học thường xuyên, học suốt đời mà không một ai có thể ngăn cản hay hạn chế; được nhà nước bảo đảm trên thực tế1. Từ cách tiếp cận trên, có thể hiểu về khái niệm quyền học tập của người dân tộc thiểu số như sau: “Quyền học tập của người dân tộc thiểu số là quyền cơ bản của người dân tộc thiểu số được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và quốc gia, được Nhà nước và các chủ thể có trách nhiệm bảo đảm trong việc tiếp nhận, thụ hưởng một cách bình đẳng về cơ hội học tập; được học tập từ cơ bản đến nâng cao, học mọi lúc, mọi nơi, thường xuyên, suốt đời dưới nhiều hình thức; được hưởng các chính sách ưu tiên của nhà nước và được tạo điều kiện trong học tập”.
Dân tộc thiểu số là những dân tộc “có số dân ít hơn so với dân tộc đa số”2, chiếm tỷ lệ thấp trong tổng dân số cả nước. Là công dân Việt Nam, người DTTS được hưởng quyền học tập bình đẳng như mọi công dân khác. Tuy nhiên, người DTTS vì những lý do chủ quan hoặc khách quan, đa số người DTTS có những đặc điểm riêng về dân tộc, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội,… ảnh hưởng không thuận lợi, khiến họ yếu thế hơn về vị thế so với một nhóm chiếm ưu thế cụ thể (tương quan so sánh trong phạm vi quốc gia). Do vậy, họ gặp khó khăn trong việc tiếp cận bình đẳng về quyền học tập.
Để bảo đảm cho người DTTS được bình đẳng trong thụ hưởng quyền học tập, trên bình diện quốc tế, Liên hợp quốc đã có những quy định cụ thể về quyền học tập của người DTTS trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người như Công ước quốc tế về Chống phân biệt đối xử trong giáo dục (1960); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá (CESCR, 1966); Công ước về xoá bỏ các hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc (1969); Tuyên ngôn về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo (1992). Quyền học tập của người DTTS ở Việt Nam được quy định trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập” (Điều 39); “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục vùng miền núi, hải đảo, vùng đồng bào DTTS và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn” (Điều 61). Từ quy định của Hiến pháp, quyền học tập của người DTTS được cụ thể hóa trong các văn bản luật như Luật Phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991; Luật Dạy nghề năm 2006; Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014; Luật Trẻ em năm 2016; Luật Giáo dục đại học năm 2018; Luật Giáo dục năm 2019; Luật Thanh niên năm 2020 và các luật liên quan khác. Để các quy định về quyền học tập của người DTTS được thực hiện có hiệu quả, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các văn bản luật như: Nghị định số 82/2010/NĐ-CP ngày 15/7/2010 của Chính phủ quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của DTTS trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên; Nghị định 57/2017/NĐ-CP quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh, hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên DTTS rất ít người; Nghị định số 141/2020/NĐ-CP ngày 08/12/2020 của Chính phủ quy định chế độ cử tuyển đối với học sinh, sinh viên DTTS;… Ngoài ra, các bộ, ban, ngành có liên quan và chính quyền địa phương các cấp đã ban hành các văn bản để tổ chức thực hiện pháp luật về quyền học tập của người DTTS phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương.
Đối với đồng bào dân tộc Khmer với gần 1,3 triệu người, chủ yếu sống ở khu vực Tây Nam Bộ. Do đó, bảo đảm quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững của các tỉnh trên địa bàn này. Bảo đảm tốt quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer góp phần nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và là tiền đề để đồng bào dân tộc Khmer tiếp cận được các quyền con người trên các lĩnh vực khác. Ngoài ra, điều đó có ý nghĩa trong việc đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch nhằm lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, qua đó giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Để bảo đảm quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer, chính quyền địa phương có vai trò vô cùng quan trọng, đặc biệt là vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh. Theo quy định tại Điều 4 của Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015, chính quyền địa phương được tổ chức ở đơn vị hành chính cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh. Chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính cấp tỉnh có nhiệm vụ trong bảo đảm quyền học tập của đồng bào DTTS như sau: Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn tỉnh về quyền học tập của đồng bào DTTS; Quyết định những vấn đề của tỉnh trong phạm vi được phân quyền, phân cấp theo quy định của pháp luật về quyền học tập của đồng bào DTTS; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương ủy quyền về quyền học tập của đồng bào DTTS; Thanh tra, kiểm tra, giám sát tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính trên địa bàn về quyền học tập của đồng bào DTTS; Chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên về kết quả thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở tỉnh về quyền học tập của đồng bào DTTS.
2. Thực trạng vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong bảo đảm quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh Trà Vinh
a) Những kết quả đạt được
Trong những năm qua, cấp uỷ và chính quyền địa phương tỉnh Trà Vinh luôn quan tâm bảo đảm các quyền của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn, đặc biệt là quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính cấp tỉnh theo quy định của pháp luật, HĐND, UBND tỉnh Trà Vinh đã ban hành và triển khai thực hiện nhiều chính sách, quy định về bảo đảm quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn của tỉnh và đạt được những kết quả quan trọng trong những năm vừa qua được thể hiện trên một số nội dung như sau:
Một là, ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách hỗ trợ giáo dục đối với đồng bào dân tộc Khmer.
Trong quá trình triển khai và ban hành chính sách phát triển giáo dục đào tạo nói chung, hỗ trợ phát triển giáo dục đào tạo đối với vùng đồng bào dân tộc Khmer nói riêng của địa phương giai đoạn 2018 - 2023, HĐND, UBND tỉnh Trà Vinh đã tích cực, chủ động ban hành các văn bản theo thẩm quyền để chỉ đạo thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng, văn bản pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên, các Nghị quyết của Tỉnh uỷ Trà Vinh; huy động các nguồn lực tham gia vào hỗ trợ phát triển giáo dục đào tạo đối với vùng đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh cụ thể như: Nghị quyết số 13/2020/NQ HĐND ngày 09/11/2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh Trà Vinh về việc quy định chính sách hỗ trợ người dạy bổ túc văn hóa tiếng Khmer tại các điểm chùa Phật giáo Nam tông Khmer trên địa bàn tỉnh Trà Vinh; Nghị quyết số 03/2023/NQ HĐND ngày 27/02/2023 của Hội đồng nhân dân tỉnh Trà Vinh về việc quy định mức chi hỗ trợ xóa mù chữ trên địa bàn tỉnh Trà Vinh; Quyết định 2518/QĐ UBND ngày 30/12/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban hành Kế hoạch dạy học tiếng Khmer trong các cơ sở giáo dục phổ thông giai đoạn 2022-2030 trên địa bàn tỉnh Trà Vinh; Quyết định số 858/QĐ-UBND ngày 02/6/2023 của UBND tỉnh quy định vùng tạo nguồn nguồn nhân lực các dân tộc trên địa bàn tỉnh Trà Vinh (thay thế Quyết định số 627/QĐ- UBND ngày 30/3/2022);...
Cùng với việc ban hành các văn bản quy định về chế độ, chính sách, UBND tỉnh Trà Vinh thường xuyên chỉ đạo các Sở, ban ngành tỉnh, chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã tổ chức triển khai thực hiện kịp thời, hiệu quả. Trong đó, một số chính sách cụ thể như: chính sách hỗ trợ tiền ăn, tiền nhà ở, hỗ trợ gạo cho học sinh; chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập cho học sinh phổ thông; chế độ, chính sách cho học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú. Hằng năm, Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức rà soát, lập danh sách thực hiện các chính sách miễn, giảm học phí cho đối tượng học sinh được thụ hưởng chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP, ngày 02/10/2015 của Chính phủ. Đồng thời, thực hiện chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục công tác ở các trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Ngoài ra, tỉnh thực hiện chính sách tuyển sinh theo chế độ cử tuyển (trong giai đoạn 2016-2020, tỉnh tổ chức xét chọn học sinh đi học cử tuyển theo quy định tại Nghị định số 134/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 và Nghị định số 49/2015/NĐ-CP ngày 15/5/2015 của Chính phủ). Giai đoạn 2021-2024, Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức xét chọn học sinh đi học cử tuyển theo Nghị định số 141/2020/NĐ-CP ngày 08/12/2020 của Chính phủ quy định chế độ cử tuyển đối với học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số; Nghị định số 84/2020/NĐ-CP ngày 17/7/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục. Việc thi hành chính sách pháp luật của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền và học sinh được cử đi học đảm bảo đúng quy trình cử tuyển, đối tượng và chỉ tiêu phân bổ. Công tác chi trả học phí, học bổng, các khoản hỗ trợ khác cho học sinh, sinh viên theo chế độ cử tuyển được thực hiện kịp thời, đầy đủ3.
Hai là, chính quyền địa phương luôn quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng nhu cầu học tập của đồng bào dân tộc Khmer.
Các cơ sở giáo dục vùng dân tộc thiểu số được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng nhu cầu dạy và học. Tính đến cuối năm học 2023 - 2024, toàn tỉnh có 430 cơ sở giáo dục, trong đó, có 178 trường được công nhận đạt chuẩn Quốc gia; có 94 trường mẫu giáo; 26 trường mầm non; 160 trường tiểu học; 101 trường trung học cơ sở cấp 2; có 29 trường trung học phổ thông; 06 trường PTTH cấp 2-3; 01 Trường Trung cấp Pali - Khmer, 08 trung tâm giáo dục thường xuyên và 134/143 chùa dạy bổ túc văn hóa tiếng Khmer trong dịp hè; có 08 trường phổ thông dân tộc nội trú (01 trường cấp tỉnh, 07 trường cấp huyện). Toàn tỉnh có 8.238 phòng học (trong đó: 8.064 phòng học kiên cố, tỷ lệ 94.61%; 459 phòng học bán kiên cố, tỷ lệ 5.39%)4. Hiện nay, các trường đang tiếp tục đầu tư xây dựng theo dự án 5, tiểu dự án 1, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn 1 từ 2021 đến 2025 trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.
Ba là, chính quyền địa phương tích cực chỉ đạo triển khai thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đối với đồng bào dân tộc Khmer.
Tổng số học sinh toàn tỉnh là 216.224 học sinh, trong đó có 78.675 học sinh dân tộc Khmer, chiếm 36,4%. Công tác huy động học sinh đi học trong độ tuổi luôn được quan tâm, bảo đảm tỉ lệ học sinh đi học trong độ tuổi ngày càng tăng. Cụ thể: năm học 2017-2018 (Cấp tiểu học đạt 99,9%; cấp trung học cơ sở đạt 98,5%; cấp trung học phổ thông đạt 72%); đến năm học 2023-2024 (Cấp tiểu học đạt 100%, trung học cơ sở đạt 99,02%, trung học phổ thông đạt 80,25%)5. Tổng số học sinh là 215.389 học sinh, trong đó có 77.577 học sinh dân tộc Khmer, tỷ lệ 36,02%; có 08 trường phổ thông dân tộc nội trú với 80 lớp (tổng số học sinh là 2.761 học sinh, trong đó cấp THCS có 1.982 học sinh, cấp THPT có 829 học sinh)6. Sở Giáo dục và Đào tạo tích cực tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo các cơ sở giáo dục vùng dân tộc thiểu số tăng cường công tác đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra, đánh giá; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng học tập; chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Nhờ vậy, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao, số học sinh đạt điểm trung bình trở lên các cấp đạt tỷ lệ khá cao, số học sinh hoàn thành chương trình cấp tiểu học, học sinh tốt nghiệp THCS và THPT ngày càng cao. Chất lượng giáo dục các cấp học trên địa bàn được đánh giá theo đúng quy định: năm học 2022-2023, học sinh người dân tộc Khmer hoàn thành chương trình tiểu học là 7.137/7.156 học sinh, đạt tỷ lệ 99,7%; học sinh người dân tộc Khmer hoàn thành chương trình cấp THCS là 4.180/4.219 em, đạt tỷ lệ 99,0%; số học sinh người dân tộc Khmer hoàn thành chương trình cấp THPT 2.249/2.249, đạt tỷ lệ 100%7.
Bốn là, chính quyền địa phương cấp tỉnh luôn quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt công tác xoá mù chữ và dạy tiếng dân tộc cho đồng bào dân tộc Khmer.
Công tác xoá mù chữ cho đồng bào dân tộc Khmer được thực hiện tốt, nhờ vậy, số người dân tộc Khmer biết chữ phổ thông trong độ tuổi 15- 60 được nâng lên. Năm 2018, số người dân tộc Khmer biết chữ phổ thông trong độ tuổi 15-60 có 183.260/216.690, đạt tỷ lệ 84,6%; năm 2022 con số này là 195.885/214.604, đạt tỷ lệ 92,6%8. Đồng thời, chính quyền tỉnh Trà Vinh đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục trên địa bàn triển khai thực hiện dạy và học tiếng Khmer đạt được nhiều kết quả tích cực. Năm học 2022-2023 có 121 trường tổ chức dạy học tiếng Khmer; số lớp có 1.074 lớp; số giáo viên có 195; số học sinh học tiếng Khmer có 28.553 học sinh. Năm học 2023-2024 số trường tổ chức triển khai dạy học tiếng Khmer gồm: 127 trường, trong đó cấp tiểu học có 82 trường; cấp THCS có 41 trường và cấp THPT có 04 trường. Số lớp có 1.315 lớp; số học sinh học tiếng Khmer có 35.789 học sinh9. Giáo trình dạy học tiếng Khmer cấp THPT theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và Bộ GDĐT. Sở GDĐT chủ trì phối hợp với các sở ban ngành có liên quan biên soạn và đưa vào giảng dạy thực nghiệm tại các trường PTDTNT cấp THPT, trường Trung cấp Pali-Khmer và các điểm chùa có nhu cầu dạy học đến cấp THPT. Hè năm học 2023-2024, tiếp tục tổ chức triển khai dạy học các lớp bổ túc văn hoá tiếng Khmer tại các điểm chùa Phật giáo Nam tông Khmer. Toàn tỉnh có 143/143 chùa tổ chức mở lớp dạy học; số lớp có 961 lớp; số người dạy có 835 giáo viên (các vị sư và các vị Achar)10.
Năm là, bảo đảm các điều kiện sinh hoạt, chăm sóc sức khoẻ cho học sinh tại các trường dân tộc nội trú trên địa bàn của tỉnh.
Thực nhiện tốt công tác kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao chất lượng bữa ăn nhằm đảm bảo sức khỏe cho học sinh nội trú; tổ chức có hiệu quả các buổi sinh hoạt nội trú, các hoạt động ngoại khóa, các hoạt động nhân dịp lễ, hội của dân tộc Khmer; phối hợp với phụ huynh học sinh để quản lý việc đưa rước con em đảm bảo an toàn; phổ biến, triển khai để phụ huynh thực hiện tốt cam kết đối với học sinh ở ngoại trú.
b) Những hạn chế, bất cập
Bên cạnh những kết quả đạt được, vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong bảo đảm quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh Trà Vinh vẫn còn một số hạn chế, bất cập như sau:
Một là, cơ sở vật chất và điều kiện dạy học của nhiều trường học trên địa bàn của tỉnh được đầu tư xây dựng mới, sửa chữa nâng cấp nhưng nhìn chung vẫn chưa đủ đáp ứng yêu cầu hiện nay, nhất là đối với những nơi thực hiện dạy 2 buổi/ngày. Đặc biệt, đối với các trường mầm non, tiểu học, nhu cầu học bán trú của học sinh rất cao nhưng cơ sở vật chất tại phần lớn các cơ sở giáo dục này chư đáp ứng được nhu cầu, nhất là về cơ sở vật chất phục vụ các lớp học bán trú như bếp ăn tập thể, nhà vệ sinh vừa thiếu, vừa xuống cấp. Một số điểm chùa mở lớp còn thiếu trang thiết bị (bàn, ghế, bảng...) phục vụ cho việc dạy và học bổ túc văn hoá tiếng Khmer.
Hai là, chất lượng giáo dục dân tộc được nâng lên nhưng nhìn chung vẫn chưa bền vững; vẫn còn có học sinh yếu kém; số lượng học sinh giỏi các cấp còn ít. Việc phối hợp giữa nhà trường và các ban ngành đoàn thể, chính quyền địa phương chưa đồng bộ nên việc vận động mở lớp và duy trì sĩ số một số nơi đạt hiệu quả chưa cao. Số học sinh dân tộc bỏ học giữa chừng vẫn còn cao (chủ yếu ở cấp THCS và cấp THPT), năm học 2023-2024 có 325/65.367 học sinh dân tộc thiểu số bỏ học, tỷ lệ 0,64%. Trong đó, có 29 học sinh tiểu học, 183 học sinh trung học cơ sở, 113 học sinh trung học phổ thông11.
Ba là, công tác triển khai thực hiện dạy và học môn tiếng Khmer trên địa bàn tỉnh còn một số khó khăn, bất cập. Do chương trình môn tiếng dân tộc thiểu số là môn học tự chọn cho nên có một số học sinh đăng ký học chưa đồng đều từ lớp đầu cấp tiểu học hoặc cấp THCS đúng theo các lớp, dẫn đến trường hợp gặp khó khăn trong việc tổ chức, sắp xếp dạy học của từng lớp cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Bên cạnh đó, sách giáo khoa tiếng Khmer chương trình giáo dục phổ thông 2018 chưa được xuất bản thay thế sách giáo khoa hiện hành gây khó khăn trong việc triển khai dạy và học môn tiếng Khmer trên địa bàn tỉnh.
Bốn là, việc thực hiện chính sách đối với học sinh, sinh viên vùng DTTS trong công tác tuyển sinh cử tuyển vào đại học, cao đẳng theo các văn bản hiện hành (Nghị định 141/NĐ-CP) không thực hiện được do đối tượng tuyển sinh phải là người DTTS thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn (trong khi đó hiện nay nhiều xã trên địa bàn của tỉnh đã được công nhận xã nông thôn mới nên không được hưởng chế độ cử tuyển theo các quy định hiện hành).
3. Một số giải pháp phát huy vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong bảo đảm quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh Trà Vinh
Một là, chính quyền địa phương cấp tỉnh tiếp tục quan tâm bố trí nguồn lực đầu tư từ ngân sách của địa phương, kết hợp các hình thức xã hội hoá nhằm tăng cường xây dựng, nâng cấp, hoàn thiện cơ sở vật chất, các trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập tại các cơ sở giáo dục. Đặc biệt, đối với các trường mầm non, tiểu học, trường trung cấp Pali Khmer trường phổ thông dân tộc nội trú, cơ sở vật chất còn thiếu hoặc đã xuống cấp cần được đầu tư xây dựng, nâng cấp nhằm đáp ứng được nhu cầu học bán trú, nội trú của học sinh đồng bào DTTS ngày càng tăng cao. Chỉ đạo UBND cấp huyện thực hiện hỗ trợ trang thiết bị (bàn, ghế, bảng…) tại các điểm Chùa có tổ chức dạy và học bổ túc văn hoá tiếng Khmer.
Hai là, tiếp tục quan tâm chỉ đạo thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng học tập của đồng bào dân tộc Khmer. Tiếp tục tổ chức và quản lí tốt việc dạy học tiếng dân tộc trong các cơ sở giáo dục phổ thông, các trung tâm giáo dục thường xuyên và các điểm chùa Khmer theo quy định; triển khai có hiệu quả các giải pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ em, học sinh ở các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ở vùng dân tộc thiểu số. Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác quản lí giáo dục, đổi mới phương pháp dạy và học tiếng dân tộc thiểu số phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Khmer mới. Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên từ tỉnh đến cơ sở, nhất là đối với giáo viên tại các trường phổ thông dân tộc nội trú, các cơ sở giáo dục có đông học sinh người DTTS, kết hợp việc duy trì nền nếp sinh hoạt chuyên môn, kiểm tra, đánh giá, tổ chức các cuộc thi giáo viên giảng dạy giỏi các cấp. Chỉ đạo các phòng giáo dục và đào tạo, các trường phổ thông dân tộc nội trú tăng cường công tác tham mưu với cấp uỷ, chính quyền về sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số. Từ đó, đề ra giải pháp thiết thực, cụ thể nhằm nâng cao chất lượng giáo dục dân tộc.
Ba là, chỉ đạo các cấp các ngành thực hiện tốt công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của các chủ thể ở địa phương về bảo đảm quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer. Chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các ngành chức năng, chính quyền địa phương cấp huyện, xấp xã đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đội ngũ cán bộ, giáo viên và nhân dân trên địa bàn tỉnh về vị trí, vai trò của việc bảo đảm tốt quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer. Thực hiện tốt công tác thông tin giữa Sở Giáo dục và Đào tạo với các phòng giáo dục và đào tạo, các trường có đông học sinh dân tộc Khmer bảo đảm đáp ứng có chất lượng, kịp thời các văn bản chỉ đạo về giáo dục. Tăng cường công tác phối hợp, huy động học sinh các cấp học trong độ tuổi đến trường đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Phối hợp các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban ngành, đoàn thể các cấp thực hiện các giải pháp phòng chống học sinh bỏ học giữa chừng.
Bốn là, chính quyền địa phương tăng cường chỉ đạo thực hiện tốt việc dạy tiếng Khmer trên địa bàn của tỉnh. Chỉ đạo tiếp tục triển khai về Chương trình giáo dục phổ thông 2018 môn Tiếng Khmer, sách giáo khoa Tiếng Khmer theo Quyết định số 142/QĐ-TTg ngày 27/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình “Nâng cao chất lượng dạy học các môn tiếng dân tộc thiểu số trong chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn 2021 - 2030” các cơ sở giáo dục phổ thông và dạy học các lớp bổ túc văn hóa tiếng Khmer trong dịp hè tại các điểm chùa Phật giáo Nam tông Khmer trên địa bàn tỉnh Trà Vinh; dạy và học tiếng Pali-Khmer cho các tăng sinh, học sinh là người dân tộc Khmer học tập tại Trường Trung cấp Pali-Khmer. Kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo sớm ban hành sách giáo khoa và tài liệu hướng dẫn dạy học môn tiếng Khmer theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 theo lộ trình xuất bản của bộ sách giáo khoa và tài liệu hướng dẫn dạy học tiếng Khmer cho giáo viên và học sinh kịp thời để phục vụ cho các công tác tổ chức, triển khai dạy học được tốt hơn.
Năm là, tăng cường chỉ đạo thực hiện các chế độ, chính sách cho giáo viên, học sinh đồng bào dân tộc Khmer đúng theo quy định. Chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các sở, ngành liên quan, chính quyền địa phương cấp huyện, cấp xã, tiếp tục triển khai thực hiện tốt các chế độ chính sách đối với giáo viên, học sinh người dân tộc Khmer theo quy định của Trung ương và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh Trà Vinh về việc quy định chính sách hỗ trợ người dạy bổ túc văn hóa tiếng Khmer tại các điểm chùa Phật giáo Nam tông Khmer, chính sách hỗ trợ xóa mù chữ trên địa bàn tỉnh Trà Vinh; Chính sách hỗ trợ tiền ăn, tiền nhà ở, hỗ trợ gạo cho học sinh; chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập cho học sinh phổ thông; chế độ, chính sách cho học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách theo quy định.
Như vậy, bảo đảm quyền học tập cho đồng bào dân tộc Khmer có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và bảo đảm ổn định chính trị trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Trong thời gian qua, chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính cấp tỉnh ở Trà Vinh luôn quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện nhiều chủ trương, chính sách bảo đảm quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer; tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Do đó, cần nghiên cứu triển khai thực hiện tốt các giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong việc bảo đảm tốt hơn quyền học tập của đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn của tỉnh Trà Vinh trong thời gian tới.
TS. Trịnh Xuân Thắng
Phó Trưởng khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị khu vực IV
Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 41/2024
---
Tài liệu tham khảo
(1) Đào Thị Tùng (2022), Thực hiện pháp luật về quyền học tập của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr. 42-43.
(2) Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc.
(3);(4);(5);(6) Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Trà Vinh (2024), Báo cáo số 351/BC-SGDĐT ngày 04-7-2024 về kết quả thực hiện chính sách giáo dục vùng dân tộc thiểu số.
(7) Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Trà Vinh (2023), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm học 2022-2023 đối với giáo dục dân tộc.
(8) Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Trà Vinh (2023), Báo cáo số 367/BC-SGDĐT ngày17-7-2023 về việc thực hiện chính sách pháp luật phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc Khmer, giai đoạn 2018 - 2023.
(9) Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Trà Vinh (2024), Báo cáo số 319/BC-SGDĐT ngày 19-6-2024 về kết quả thực hiện công tác dân tộc 6 tháng đầu năm 2024 và phương hướng, nhiệm vụ công tác 6 tháng cuối năm 2024.
(10);(11) Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Trà Vinh (2024), Báo cáo số 351/BC-SGDĐT ngày 04-7-2024 về kết quả thực hiện chính sách giáo dục vùng dân tộc thiểu số.