Tại Việt Nam, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, bảo đảm và thực hiện quyền con người, quyền công dân nói chung, bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân nói riêng là mục tiêu xuyên suốt. Bài viết khái quát về quyền tự do và an ninh cá nhân, phân tích quyền tự do và an ninh cá nhân trong pháp luật Việt Nam và nêu các giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật Việt Nam trên lĩnh vực này trong thời gian tới.

Tranh minh họa. Nguồn: congan.nghean.gov.vn

1. Khái quát về quyền tự do và an ninh cá nhân

Tự do và an ninh cá nhân là hai khái niệm độc lập nhưng không thể đứng riêng biệt. Nếu quyền tự do của cá nhân được hiểu là quyền tự do của con người thì an ninh cá nhân chính là cá nhân được bảo vệ trước các hành vi bạo lực và những mối đe dọa như đe dọa từ phía nhà nước (tra tấn, lao động khổ sai), đe dọa từ các quốc gia (chiến tranh, xung đột vũ trang,...), từ các phe nhóm (căng thẳng và xung đột sắc tộc), đe dọa từ các cá nhân hoặc băng nhóm chống lại cá nhân (tội phạm, tội phạm có tổ chức, bạo lực,...), đe dọa trực tiếp đối với phụ nữ và trẻ em (bạo lực gia đình, bạo lực trẻ em)1. Mối liên hệ giữa hai quyền này cho thấy quyền tự do cá nhân là điều kiện để có tất cả các quyền và tự do khác, trong khi an ninh cá nhân là yếu tố bảo đảm cho các quyền tự do được thực hiện.

Quyền con người thế hệ thứ nhất xác lập vững chắc các nguyên tắc bảo vệ cá nhân con người trước quyền lực nhà nước, mang tính chất cơ bản và là định hướng cho việc xây dựng và phát triển các thế hệ quyền con người về sau, đặc biệt là khẳng định một trong những quyền dân sự, chính trị quan trọng của quyền con người là quyền tự do và an ninh cá nhân. Quyền này cũng được ghi nhận trong những văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng về quyền con người như: Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người năm 1948: “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân” và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1969.

Với tư cách là một trong những quyền quan trọng nhất của quyền con người, quyền tự do và an ninh cá nhân được hiểu là quyền cơ bản và quan trọng nhất, ở đó mỗi cá nhân được đảm bảo về mặt pháp lý cho sự bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín và tự do thân thể, là một trong những đặc quyền mà cả pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia đều ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, tự do và an ninh cá nhân xác định tư cách của mỗi cá nhân, xác định bản chất của mỗi xã hội, là mục tiêu hướng đến của mỗi nhà nước, vì hạnh phúc của con  người. Vì thế việc bảo vệ quyền con người, mà cụ thể là bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân của con người là một tất yếu khách quan.

2. Quyền tự do và an ninh cá nhân trong pháp luật Việt Nam hiện nay

Thực tế chưa có quy định pháp luật về quyền tự do và an ninh cá nhân trong pháp luật Việt Nam hiện nay vì đây là thuật ngữ mới. Tuy nhiên, Hiến pháp, pháp luật đã ghi nhận quyền tự do và an ninh cá nhân theo cách tiếp cận rộng hơn là quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con người, quyền công dân ngay tại Chương 2, vị trí chỉ sau Chương 1 về Chế độ chính trị. Theo đó, Hiến pháp đã xác định tương đối đầy đủ các quyền riêng tư của con người và các quyền, tự do an ninh cá nhân. Điều 21 và Điều 22 Hiến pháp quy định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác. Điều 22 quy định công dân có quyền có nơi ở hợp pháp; mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. Việc khám xét chỗ ở do luật định. Điều 24 Hiến pháp quy định mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Điều 32 Hiến pháp quy định mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, trong tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai..., nếu có trưng mua hoặc trưng dụng thì Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân theo giá thị trường. Điều 36 Hiến pháp quy định nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. Điều 38 Hiến pháp quy định mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh. Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng...

Quyền tự do và an ninh cá nhân cũng được ghi nhận dưới góc độ quyền tự do ngôn luận khi đề cập đến quyền được nói, bày tỏ ý kiến của một người mà không chịu bất kỳ sự ngăn chặn, kiểm duyệt tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc hạn chế quyền con người phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Theo đó, quyền tự do và an ninh cá nhân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (Điều 14). Việc hạn chế quyền tự do và an ninh cá nhân không thể tùy tiện mà phải “theo quy định của luật” nhằm tránh tình trạng xâm phạm quyền một cách tùy tiện.

Cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành để bảo đảm quyền tự do và an ninh cá nhân thể hiện trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật An ninh mạng và nhiều luật chuyên ngành khác.

Bộ luật Hình sự xác định quyền tự do và an ninh cá nhân là đối tượng bảo vệ của luật hình sự, là khách thể có thể bị xâm hại bởi hành vi tội phạm. Theo đó, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân2.

Bộ luật Dân sự năm 2015 dành riêng một mục với 15 điều quy định chi tiết về những quyền nhân thân, theo đó quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định. Về nhận thức pháp lý, các quyền nhân thân cũng chính là các quyền riêng tư vì gắn với từng cá nhân, mang thuộc tính riêng tư.  Do đó, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, gia đình phải được người và gia đình đó đồng ý. Cá nhân có quyền yêu cầu tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình. Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín còn có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết, theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên.

Điều 32 Bộ luật Dân sự quy định người có hình ảnh có quyền yêu cầu tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh và bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, luật dân sự quy định về những trường hợp không cần sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của người có hình ảnh mà vẫn được sử dụng, bao gồm: hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật, phỏng vấn, họp báo, hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng... và các sinh hoạt cộng đồng mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh, không vi phạm bản quyền.

Luật An ninh mạng năm 2018 quy định về hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng. Các cá nhân được pháp luật về an ninh mạng bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân trước pháp luật mà không phân biệt tuổi tác, giới tính, nhóm người, dân tộc. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được bảo vệ khi bị xâm phạm. Các cá nhân có quyền không bị can thiệp vào đời tư, gia đình, chỗ ở hoặc thư tín và có quyền không bị xâm hại danh dự hay uy tín cá nhân.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về quyền im lặng - một dạng thể hiện của quyền tự do và an ninh cá nhân tại các quy định về quyền của bị can, bị cáo, người bị tạm giữ và người bị bắt khẩn cấp tại Điều 58, Điều 59, Điều 60, Điều 61. Bảo đảm quyền tự do và an ninh cá nhân trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam còn là việc khắc phục được cơ bản tình trạng “dân xử theo hình, quan xử theo lễ”. Trong Nhà nước pháp quyền, các cá nhân bình đẳng trước pháp luật, bất cứ người nào vi phạm pháp luật phải bị xét xử nghiêm minh, cho dù người đó giữ vị trí chức vụ nào trong hệ thống chính trị.

Tuy nhiên, quyền tự do và an ninh cá nhân là một phạm trù rộng, bao trùm nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nên vẫn còn một số hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu bảo đảm quyền tự do và an ninh cá nhân.

Thứ nhất, việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng chưa kịp thời

Quan điểm của Đảng về các lĩnh vực của đời sống xã hội được cụ thể hóa trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền tự do và an ninh cá nhân. Hiến pháp năm 2013 khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng. Quan điểm, đường lối của Đảng về quyền tự do và an ninh cá nhân ngày càng được thể hiện một cách có hệ thống và phù hợp với giai đoạn đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, do đó Nhà nước cần thể chế hóa kịp thời bởi thực hiện pháp luật về quyền tự do và an ninh cá nhân hiện nay là vấn đề cần được ưu tiên hàng đầu trong tình hình mới.

Thứ hai, hệ thống pháp luật về quyền tự do và an ninh cá nhân chưa hoàn thiện, cơ chế bảo đảm quyền tự do và an ninh cá nhân chưa được phát huy đầy đủ

Quy định pháp luật hiện hành về quyền tự do và an ninh cá nhân cần được hoàn thiện để có thể đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân trong tình hình mới. Các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành chậm được xây dựng, trong khi văn bản hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hành vi sử dụng không gian mạng để vi phạm pháp luật về quyền tự do và an ninh cá nhân. Hầu hết các văn bản dưới luật được ban hành mang tính xử lý những vấn đề đã phát sinh. Ngày 17/4/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân, tuy nhiên với tầm quan trọng của vấn đề, cần thiết phải xây dựng luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Cá nhân có quyền tự do ngôn luận, mua bán, kinh doanh, trao đổi, giao dịch thương mại trên không gian mạng, có thể làm bất cứ điều gì trên không gian mạng mà pháp luật không cấm. Thực tiễn thực hiện các quyền này của cá nhân cho thấy có nhiều hoạt động lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến lợi ích an ninh quốc gia, xâm hại bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng, tác động xấu đến trật tự an toàn xã hội.

Theo quy định của Điều 8 Luật An ninh mạng năm 2018, các hành vi thông tin sai sự thật trên không gian mạng bị nghiêm cấm. Điều 16 của Luật này cũng cấm các hành vi thông tin tuyên truyền chống phá Nhà nước, kích động gây bạo loạn, gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu khống… Các hành vi bị cấm này rất khó nhận diện và đánh giá được những hành vi này tác động như thế nào đến vấn đề quốc phòng, an ninh quốc gia, an toàn, đạo đức xã hội.

Bên cạnh đó, khung pháp lý về bảo vệ cơ sở dữ liệu cá nhân của Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát  triển nhanh chóng. Trên không gian mạng đặc biệt là mạng xã hội, các nhà mạng di động cung cấp dịch vụ cho phép các thuê bao của mạng này biết được vị trí người khác cùng thuê bao qua tin nhắn SMS đã làm dấy lên lo ngại dịch vụ này có thể bị lợi dụng để xâm phạm quyền riêng tư, theo dõi quyền tự do đi lại, cư trú của mỗi cá nhân, can thiệp vào đời sống riêng tư của mỗi cá nhân, ảnh hưởng nghiêm trọng quyền tự do và an ninh cá nhân. Bên cạnh đó, công nghệ thông minh, trí tuệ nhân tạo cũng là các thách thức bởi tác động tiêu cực, xúc phạm đời tư, đe dọa sự tồn tại của quyền tự do và an ninh cá nhân. Việc sử dụng nhiều ứng dụng công nghệ, khả năng lộ lọt thông tin cá nhân, cuộc sống riêng tư của bất cứ ai đều hiện hữu với nguy cơ bị theo dõi, bị xâm phạm. Thách thức về cách ứng xử với quyền tự do và an ninh cá nhân và quyền riêng tư ngày càng trở nên phức tạp. Không gian mạng diễn ra nhiều cách thức, thủ đoạn để thu hút sự chú ý, cơ hội nổi tiếng hay vì những mục tiêu chính trị hoặc kinh tế, thương mại mà sẵn sàng bỏ tiền cho những thông tin, những video hoặc hình ảnh trực tiếp vi phạm quyền tự do và an ninh cá nhân.

Tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ, đánh cắp công nghệ và bản quyền trên internet ngày càng tăng, nguy cơ gián điệp mạng, tội phạm mạng trở nên phức tạp, nguy hiểm. Không gian mạng bị lợi dụng để tán phát thông tin bịa đặt, không kiểm chứng, độc hại nhằm vu khống, bôi nhọ cá nhân, tổ chức, âm mưu khủng bố, phá hoại… hoạt động tội phạm mạng ngày càng tinh vi, phức tạp, nguy hiểm với mức độ thiệt hại ngày càng nghiêm trọng là thách thức trực tiếp đối với tự do và an ninh cá nhân. Một bộ phận không nhỏ những người có chức vụ, quyền hạn tìm mọi cách để có các đặc quyền riêng của bản thân lại là những người không tôn trọng tự do, an ninh cá nhân và quyền riêng tư của người khác, điển hình là các vụ việc liên quan trực tiếp đến lợi dụng chức vụ, lạm dụng quyền lực, thiếu trách nhiệm và tham nhũng.

Công nghệ cho phép mỗi cá nhân có nhiều cách thức bảo vệ quyền riêng tư của mình, có thể là đặt mật khẩu mạnh đối với các ứng dụng ngân hàng, bảo hiểm,... để phòng ngừa, ngăn chặn sự xâm phạm không gian riêng tư, nhưng chính những công nghệ ấy cũng được sử dụng để biết được ở người khác những điều mà họ không muốn người khác biết về mình, sẵn sàng và tìm mọi cách để xâm phạm tự do và an ninh cá nhân của người khác.

Thứ ba, thực hiện pháp luật về quyền tự do và an ninh cá nhân còn chưa nghiêm

Cho dù nội hàm của quyền tự do và an ninh cá nhân bước đầu đã được ghi nhận trong các quy định pháp luật, song quá trình triển khai thực hiện pháp luật về quyền tự do và an ninh cá nhân trên thực tế là thách thức không nhỏ. Cá nhân người dân chưa có ý thức sử dụng pháp luật về quyền tự do và an ninh cá nhân để tự bảo vệ mình, ví dụ như các thông tin cá nhân bị lạm dụng, các giao dịch mua bán qua mạng trái phép hoặc vi phạm về số lượng, chủng loại, chất lượng,... thường bị người mua bỏ qua do thói quen ngại va chạm hay thiệt hại không lớn mà không tố giác với cơ quan có thẩm quyền,... Tình trạng vi phạm pháp luật về quyền tự do và an ninh cá nhân của một số tổ chức, cá nhân thời gian qua cho thấy các chủ thể này chưa có ý thức tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp luật. Một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa chú ý đến vấn đề bảo mật dữ liệu. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân như thù tức, động cơ đê hèn, hay nguồn lợi nhuận khổng lồ có được từ việc cung ứng trái phép các dịch vụ trên không gian mạng là nguyên nhân chính làm lu mờ ý thức tuân thủ pháp luật.

Thứ tư, nhận thức của người dân về quyền tự do và an ninh cá nhân còn hạn chế

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền con người trong đó có quyền tự do và an ninh cá nhân được triển khai tương đối rộng khắp, nhưng hiệu quả thực tế chưa cao. Một số cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền thể hiện nhận thức chưa coi trọng vấn đề bảo đảm quyền tự do và an ninh cá nhân. Không ít cá nhân còn mơ hồ về hậu quả khi có hành vi chia sẻ, bình luận, tán phát thông tin trên không gian mạng. Mặc dù tự do và an ninh cá nhân, về bản chất là cái vốn có của con người, là quyền của con người nhưng trong xã hội mà chúng ta xây dựng là xã hội XHCN, Nhà nước pháp quyền thì tự do và an ninh cá nhân không có nghĩa là vin vào lý do vì cá nhân mà bất chấp, coi thường pháp luật, bất cứ ai cũng không được tùy tiện đi ngược kỷ cương, phép nước. Xã hội càng văn minh, biên độ tự do và an ninh cá nhân được mở rộng và được bảo đảm bằng pháp luật. Đồng thời, ý thức pháp luật và trình độ nhận thức pháp lý của mỗi cá nhân cần được nâng cao hơn.

3. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền tự do và an ninh cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền con người chính là tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tự do và an ninh cá nhân và ngược lại, bảo đảm quyền tự do và an ninh cá nhân là cốt lõi của bảo đảm quyền con người. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, bảo đảm quyền tự do và an ninh cá nhân là ứng xử nhân văn giữa người với người, giữa nhà nước và công dân. Để bảo đảm quyền tự do và an ninh cá nhân là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi quốc gia, tuân thủ các quy định của pháp luật quốc tế về quyền con người, cần triển khai thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về quyền tự do và an ninh cá nhân.

Quyền tự do và an ninh cá nhân là quyền quan trọng hàng đầu, là mục tiêu hướng đến của con người. Việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ hiệu quả quyền tự do và an ninh cá nhân có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển toàn diện của con người, hỗ trợ tốt nhất cho các đối tượng là nạn nhân của hành vi xâm phạm quyền tự do và an ninh cá nhân. Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về quyền tự do và an ninh cá nhân là yêu cầu để bảo đảm thành công cho sự nghiệp đổi mới của đất nước, cho quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục quyền tự do và an ninh cá nhân không chỉ nâng cao nhận thức, ý thức tuân thủ pháp luật về quyền tự do và an ninh cá nhân mà còn là một cách thức trao quyền để mỗi người dân có thể tự bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân của mình, đồng thời biết tôn trọng quyền tự do và an ninh cá nhân của người khác. Nhận thức đúng, đủ giúp người dân hành xử phù hợp với các tình huống trên thực tế, tránh nhận thức và hành động cực đoan.

Với mục tiêu tuyên truyền, phổ biến, giáo dục quyền con người, ý thức tự bảo vệ các quyền của bản thân, tôn trọng nhân phẩm, các quyền và tự do của người khác; ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước và xã hội, góp phần phát triển toàn diện con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững của đất nước, năm 2017, Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân được ban hành và triển khai thực hiện trên toàn quốc. Chỉ khi trình độ nhận thức và ý thức pháp luật về quyền tự do và an ninh cá nhân được nâng cao, chúng ta mới có thể vững vàng đấu tranh, phản bác lại những luận điệu của các thế lực thù địch, phản động về quyền tự do và an ninh cá nhân ở Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là bảo đảm và bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân.

Quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi có cơ chế bảo vệ hiến pháp hiệu quả nhằm bảo đảm tính thượng tôn của pháp luật, bảo đảm và bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân, hạn chế những hành vi vi hiến, xâm phạm quyền tự do và an ninh cá nhân. Cơ chế bảo hiến giúp củng cố tính hợp hiến trong hoạt động của bộ máy nhà nước, kiểm soát sự lạm quyền của các nhánh quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đây là đòi hỏi quan trọng của nhà nước pháp quyền. Cơ chế bảo hiến còn là công cụ pháp lý giải quyết hành vi vi phạm Hiến pháp, giúp hạn chế, loại bỏ việc xây dựng, thông qua văn bản vi phạm quy định Hiến pháp về quyền tự do và an ninh cá nhân.

Thứ ba, thúc đẩy hoàn thiện thể chế pháp lý, thiết chế thực hiện pháp luật về quyền tự do và an ninh cá nhân một cách nghiêm minh, kịp thời.

Quyền con người nói chung, quyền tự do và an ninh cá nhân nói riêng gắn với hoạt động quản lý của Nhà nước. Để bảo đảm hiệu quả quyền tự do và an ninh cá nhân trước hết cần hoàn thiện thể chế pháp lý. Để có cơ sở pháp lý cho việc tôn trọng, bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân đòi hỏi phải xây dựng hệ thống pháp luật với các tiêu chí minh bạch, công khai, ổn định, dễ tiếp cận, phù hợp điều kiện thực tiễn Việt Nam vừa đáp ứng các yêu cầu của hội nhập quốc tế. Đại hội Đảng lần thứ XIII nhấn mạnh: Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm, thúc đẩy dổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững3. Bên cạnh đó cần “hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết”4. Yêu cầu đặt ra là cần tiếp tục rà soát hệ thống pháp luật hiện hành về quyền tự do và an ninh cá nhân. Tiếp tục thể chế hóa và thực hiện hiệu quả các quy định về quyền con người trong Hiến pháp năm 2013. Thực hiện rà soát, đánh giá sự tương thích giữa quy định trong dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội với các điều ước quốc tế về quyền con người trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Hoàn thiện các quy định về chế độ sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, bảo đảm khởi nghiệp và thực hiện quyền tự do kinh doanh. Hoàn thiện quyền của nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương theo hướng xây dựng chính sách, ưu tiên nguồn lực cho việc tiếp cận an sinh xã hội, dịch vụ y tế, giáo dục và nhà ở cho phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, người có hoàn cảnh khó khăn. Thúc đẩy xây dựng luật chuyển đổi giới tính, tạo hành lang pháp lý bảo đảm thực hiện đầy đủ và hiệu quả chống phân biệt đối xử.

Đối với các thiết chế thực hiện pháp luật, khẩn trương sửa đổi, bổ sung pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước trong đó ưu tiên nguyên tắc bảo đảm, bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân. Đồng thời, quy định cụ thể hóa trách nhiệm, tiêu chí giám sát thực hiện trách nhiệm về bảo đảm, bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Đặc biệt, cần phát huy vai trò của toà án trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân.

Đối với Quốc hội, cần nâng cao năng lực lập pháp, tăng cường hiệu quả giám sát thực hiện Hiến pháp, các quy định về quyền tự do và an ninh cá nhân trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật An ninh mạng,... và giám sát việc thực hiện các điều ước quốc tế về quyền tự do và an ninh cá nhân.

Đối với Chủ tịch nước, cần nâng cao năng lực và hiệu quả về cải cách tư pháp để phù hợp các tiêu chuẩn quốc tế về quyền tự do và an ninh cá nhân.

Đối với Chính phủ, cần nâng cao năng lực và hiệu quả trong việc triển khai thực hiện tiếp cận quyền tự do và an ninh cá nhân trong xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền tự do và an ninh cá nhân, sử dụng hiệu quả phương pháp tiếp cận quyền tự do và an ninh cá nhân trong xây dựng và hoạch định chính sách kinh tế, chính sách xã hội, bổ sung đánh giá tác động chính sách về quyền tự do và an ninh cá nhân. Hoàn thiện quy định về bồi thường và khắc phục hậu quả các hành vi xâm phạm quyền tự do và an ninh cá nhân, phát triển đồng bộ dịch vụ pháp lý nhằm nâng cao năng lực tiếp cận công lý, tiếp cận pháp luật về quyền tự do và an ninh cá nhân cho mỗi người dân.

Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội, cần tăng cường vai trò của Mặt trận và các tổ chức này trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân thông qua giám sát hoạt động, tố cáo hành vi vi phạm của các cơ quan và công chức nhà nước, phòng ngừa hành vi tùy tiện tước bỏ hay hạn chế quyền tự do và an ninh cá nhân từ phía cơ quan và công chức nhà nước.

Đối với Liên đoàn luật sư Việt Nam, đây là tổ chức xã hội - nghề nghiệp có vị trí, vai trò quan trọng trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân. Hiến pháp năm 2013 khẳng định quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa là quyền cơ bản của con người, từ đó đề cao vai trò đặc biệt quan trọng của đội ngũ luật sư trong việc góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế, bảo vệ các quyền cơ bản của con người, quyền công dân trong đó có quyền tự do và an ninh cá nhân của người dân trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Do đó, đội ngũ luật sư cần tăng cường cả về số lượng và chất lượng nhằm cung cấp, hỗ trợ người dân kịp thời. Cần phát triển mạng lưới trợ giúp pháp lý cho nhóm dễ bị tổn thương, các nhóm yếu thế, bị xâm hại tình dục, bạo lực gia đình,...

TS. Bùi Thị Long

Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 38 (06/2024)

---

Tài liệu trích dẫn

(1) Trịnh Tiến Việt (2015), Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp.

(2) Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tập 1, tr.175.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tập 1, tr.135.