Tài sản và quyền tài sản là một trong những yếu tố cơ bản, quan trọng trong đời sống dân sự của mỗi cá nhân, tổ chức. Bộ luật Dân sự Việt Nam qua các giai đoạn khác nhau và pháp luật của các nước trên thế giới đều có cách tiếp cận khác nhau về tài sản, quyền tài sản. Ở Việt Nam, trong lĩnh vực dân sự, chế định quyền tài sản là trung tâm và có ảnh hưởng đến nhiều chế định khác và ngành luật khác. Bài viết phân tích các quy định pháp luật hiện hành về quyền tài sản và những yêu cầu hoàn thiện pháp luật về quyền tài sản trong kỷ nguyên mới.
Ảnh minh họa. Nguồn: lsvn.vn.
1. Cơ sở khoa học, pháp lý về quyền tài sản đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Quyền tài sản là một trong những quyền dân sự cơ bản của con người. Quyền tài sản có vai trò ngày càng quan trọng để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới ở Việt Nam. Vì vậy, thể chế hóa và hoàn thiện pháp luật về quyền tài sản không chỉ nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người, mà còn bảo đảm cho việc hình thành đầy đủ, đồng bộ các chủ thể tham gia nền kinh tế thị trường. Với ý nghĩa đó, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng trong khi chỉ rõ định hướng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã nhấn mạnh đến yêu cầu bức thiết của việc thể chế hóa quyền tài sản.
Quyền tài sản có khung pháp lý được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam như Bộ luật Dân sự (BLDS), Luật Đất đai, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Đa dạng sinh học, Luật Khoa học và công nghệ, Luật Công chứng... Trong đó, các BLDS năm 1995, 2005 và 2015 đưa ra những quy định có tính kế thừa, phát triển về quyền tài sản. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 vẫn chưa xây dựng được hệ thống các quy định hoàn chỉnh về quyền tài sản để thống nhất với các quy định của luật chuyên ngành và thực tiễn xã hội. Việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền tài sản là một nhu cầu thực tế và cấp bách đặt ra cho các nhà khoa học của Việt Nam.
Quyền tài sản là tổng hợp các quyền và lợi ích của chủ thể trong việc chi phối, kiểm soát tài sản gồm chủ sở hữu và người có quyền khác với tài sản1. Theo cách hiểu này, quyền tài sản không chỉ bao gồm quyền sở hữu mà bao gồm bất cứ quyền và lợi ích nào khác có giá trị kinh tế và thuộc về một chủ thể nhất định nào đó.
Hay quyền tài sản trong luật thực định Việt Nam được hiểu là quan hệ pháp luật khác với quan hệ sở hữu mà trên cơ sở quan hệ khác đó, một lợi ích định giá được bằng tiền hình thành và thuộc về một chủ thể của quan hệ đó2.
Có thể thấy, ở góc độ lý luận, khái niệm về quyền tài sản còn có nhiều cách hiểu chưa thống nhất, việc quy định một định nghĩa chính xác về quyền tài sản trong BLDS là hết sức cần thiết.
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác3.
Định nghĩa đã không chỉ ra đầy đủ những đặc trưng để nhận diện tài sản ngoài dấu hiệu “trị giá được bằng tiền”, không giúp phân biệt được quyền tài sản là một loại tài sản và các quyền khác đối với tài sản. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 đã xây dựng các quy định về các quyền khác đối với tài sản bên cạnh quyền sở hữu đã cho thấy một bước tiến mới trong chế định tài sản nói chung, quyền tài sản nói riêng. Như vậy, theo định nghĩa trên, quyền tài sản hiểu theo nghĩa rộng là quyền của cá nhân, tổ chức đảm bảo các điều kiện do pháp luật quy định, được phép thực hiện hành vi xử lý đối với tài sản thuộc quyền của mình và những người khác phải thực hiện một nghĩa vụ mang lại lợi ích vật chất cho mình. Dựa vào khái niệm tài sản quy định trong BLDS năm 2015 thì quyền tài sản được coi là một loại tài sản, cụ thể, BLDS năm 2015 định nghĩa về tài sản như sau:
Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai4.
Mặc dù Điều 115 BLDS năm 2015 xác định quyền tài sản là “quyền trị giá được bằng tiền” nhưng không phải bất cứ quyền nào trị giá được bằng tiền cũng được xem là đối tượng tài sản, nói cách khác là không xác lập cho chủ thể quyền được quyền sở hữu đối với quyền tài sản đó mà thuần túy chỉ là một vật quyền, là một bộ phận của quyền sở hữu. Điều 159 BLDS năm 2015 đã ghi nhận ba loại vật quyền gọi là “quyền khác đối với tài sản”, là những quyền của chủ thể được xác lập trên tài sản “thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác” gồm (i) Quyền đối với bất động sản liền kề (Điều 245); (ii) Quyền hưởng dụng (Điều 257); (iii) Quyền bề mặt (Điều 267). Đây là những quyền được tách ra từ quyền sở hữu để trở thành quyền độc lập5. Nổi bật là quyền hưởng dụng và quyền bề mặt là những quyền có thể định giá được thành tiền và có thể dễ dàng chuyển giao trong giao lưu dân sự, riêng quyền đối với bất động sản liền kề chỉ có ý nghĩa đối với chủ sở hữu các bất động sản liền kề đó, không có ý nghĩa đối với chủ thể khác nên quyền này không thể được chuyển giao độc lập cho một chủ thể khác mà không gắn với quyền sở hữu bất động sản liền kề. Quy định này của BLDS năm 2015 về quyền tài sản có hai vế là “quyền sở hữu” và “quyền khác với tài sản”, có nghĩa là quyền sở hữu ngang hàng với quyền khác với tài sản.
Về quyền sở hữu đối với tài sản, BLDS năm 2015 đã ghi nhận sự bình đẳng giữa các chủ sở hữu tài sản thông qua quy định tại khoản 1 Điều 3, theo đó, mọi cá nhân, pháp nhân đều “được bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản”. BLDS năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc tự do sở hữu thông qua quy định về việc không hạn chế số lượng và giá trị của tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân, đây được coi là một bảo đảm pháp lý quan trọng cho việc thực thi quyền tự do sở hữu ở nước ta (khoản 2 Điều 205). Đồng thời, BLDS năm 2015 đã quy định nội dung của quyền sở hữu và cơ chế bảo vệ quyền sở hữu, trong đó, quyền sở hữu bao gồm ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật (Điều 158 BLDS năm 2015). Khẳng định quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp luật công nhận và bảo vệ, không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu đối với tài sản của mình (Điều 163 BLDS năm 2015). Như vậy, chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất cứ người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình; yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 169, Điều 170 BLDS năm 2015).
Đối với quyền bề mặt, BLDS năm 2015 đã ghi nhận quyền của chủ thể có quyền bề mặt thông qua quy định nội dung của quyền bề mặt tại Điều 271, chủ thể có quyền bề mặt có quyền sở hữu tài sản được tạo ra từ việc khai thác, sử dụng và quyền chuyển giao một phần hoặc toàn bộ quyền bề mặt cho người khác. Như vậy, chủ thể của quyền bề mặt có thể chuyển quyền sở hữu tài sản và quyền khai thác mặt nước, mặt đất, lòng đất cho người khác thông qua các giao dịch như mua bán, tặng cho, thế chấp, trao đổi tài sản.
Đối với quyền hưởng dụng, theo Điều 261 BLDS năm 2015, chủ thể có quyền hưởng dụng chỉ được phép cho thuê quyền hưởng dụng. Đồng thời, BLDS năm 2015 cũng đã quy định chủ thể có quyền khác đối với tài sản được thực hiện mọi hành vi “trong phạm vi quyền được quy định” tại Bộ luật này, luật khác có liên quan. Trong khi đó, chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng “không được trái với quy định của luật”6. Như vậy, người có quyền hưởng dụng không thể chuyển nhượng, chuyển đổi hay thế chấp quyền hưởng dụng do không được luật quy định. Quyền hưởng dụng có thể chuyển giao khá dễ dàng, cách thức xác lập quyền tương tự như quyền bề mặt nhưng luật không cho phép chuyển giao như quyền bề mặt. Ví dụ, chủ thể của quyền hưởng dụng có thể cho thuê quyền hưởng dụng và chỉ được hưởng dụng trong thời gian nhất định.
Đối với quyền đối với bất động sản liền kề được quy định tại Điều 245 BLDS năm 2015, ngoài những quyền cụ thể được nêu trong BLDS năm 2015, còn có nhiều quyền đối với bất động sản liền kề khác có thể được thỏa thuận giữa các bên. Điều này có nghĩa là, tùy thuộc vào nhu cầu cụ thể của mỗi trường hợp, các bên có thể thỏa thuận thêm nhiều quyền sử dụng đất liền kề khác. Ví dụ, Luật đất đai năm 2024 đã quy định rõ hơn về quyền sử dụng đất liền kề7, bao gồm cả quyền về cấp khí gas và các nhu cầu khác chưa được đề cập trong BLDS năm 2015. Quyền đối với bất động sản liền kề cũng giống như quyền hưởng dụng ở chỗ luật quy định quyền của chủ thể khá hạn chế, quyền đối với bất động sản liền kề sẽ được chuyển giao cho người nhận chuyển nhượng bất động sản có quyền đó, chủ thể có quyền đối với bất động sản liền kề hoàn toàn không thể định đoạt quyền này một cách độc lập.
Có thể thấy, quyền bề mặt, quyền hưởng dụng, quyền đối với bất động sản liền kề được BLDS năm 2015 quy định trong các điều Điều 261, Điều 247, Điều 217 khá rõ ràng, tuy nhiên, đối với quyền bề mặt, luật đã ghi nhận chủ thể quyền có thể chuyển giao quyền bề mặt, điều đó được hiểu chủ thể của quyền bề mặt có quyền định đoạt quyền bề mặt theo ý chí của mình. Do đó, mặc dù được tách ra từ quyền sở hữu, nhưng với quyền năng của chủ thể mang quyền bề mặt, ở một mức độ nhất định, nhà làm luật đã xem quyền bề mặt là đối tượng của quyền sở hữu, là một loại tài sản dưới dạng quyền tài sản, mặc dù nó được tách ra từ một tài sản khác là quyền sử dụng đất. Hoặc cũng có thể hiểu nhà làm luật đã quy định quyền này như một ngoại lệ, đặc quyền của quyền khác đối với tài sản. Điểm khác biệt so với các chủ sở hữu khác là chủ thể của quyền bề mặt chỉ có quyền này trong một thời hạn nhất định. Còn đối với quyền hưởng dụng, theo quy định của luật, quyền đối với bất động sản liền kề của chủ thể khá hạn chế.
Quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng và quyền bề mặt tạo cơ sở pháp lý quan trọng, thúc đẩy giao lưu dân sự trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế; đảm bảo tốt hơn cho các tài sản khi tham gia giao lưu dân sự được tối đa hóa giá trị, do không chỉ là chủ sở hữu mà còn cả những người không phải là chủ sở hữu được phép khai thác tài sản trên cơ sở quyền sở hữu của chủ thể khác. Mặt khác, đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết các tranh chấp phát sinh trên thực tiễn, hạn chế được rủi ro pháp lý, giữ được sự ổn định của các quan hệ dân sự và các quan hệ khác có liên quan. Việc BLDS năm 2015 không quy định bắt buộc các chủ thể phải đăng ký các quyền khác đối với tài sản tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền đồng nghĩa với việc không có cơ chế công khai việc xác lập các quyền này cho các chủ thể khác trong xã hội. Đây có thể là nguyên nhân tiềm ẩn phát sinh nhiều tranh chấp dân sự. Vấn đề đặt ra cho pháp luật dân sự Việt Nam là cần phải xây dựng một cơ chế pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi tham gia xác lập giao dịch dân sự đối với các tài sản đã được xác lập quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt hay quyền sử dụng hạn chế nào đó trên tài sản.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền tài sản đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới ở Việt Nam hiện nay
Thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ và quyền sử dụng đất nhằm khuyến khích hoạt động nghiên cứu, sáng tạo; thúc đẩy đổi mới, chuyển giao công nghệ và các giao dịch về tài sản trí tuệ, sử dụng đất đai hợp lý, hiệu quả; tăng cường hiệu quả công tác quản lý và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Việc thể chế hóa, hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền tài sản cần bảo đảm (i) lợi ích quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế, đồng thời tôn trọng các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam đã và sẽ tham gia. (ii) bảo đảm cân bằng lợi ích giữa người sáng tạo, nhà sử dụng và công chúng hưởng thụ để tạo động lực thúc đẩy phát triển hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. (iii) bảo đảm tính dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Những nội dung cụ thể cần hoàn thiện pháp luật về quyền tài sản đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới bao gồm:
Thứ nhất, cần thống nhất trong các quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành và Luật Đất đai năm 2024 về quyền của nhóm người sử dụng đất mà có chung quyền sử dụng đất.
Luật Đất đai năm 2024 đã bỏ đối tượng là hộ gia đình sử dụng đất, quy định tại khoản 25 Điều 3. Tuy nhiên, khoản 4 Điều 256 Luật Đất đai năm 2024 quy định hộ gia đình sử dụng đất có sổ trước ngày Luật này có hiệu lực thì sẽ được cấp đổi ghi tên tất cả các thành viên hộ vào sổ nếu có nhu cầu. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 27 và Điều 259 Luật Đất đai năm 2024 cũng quy định đối với hộ gia đình được xác định trước ngày Luật này có hiệu lực thì được tham gia quan hệ pháp luật về đất đai với tư cách nhóm người sử dụng đất mà có chung quyền sử dụng đất và có quyền, nghĩa vụ như cá nhân sử dụng đất (Điều 37 Luật Đất đai năm 2024). Việc xác định tư cách chủ thể của nhóm người sử dụng đất mà có chung quyền sử dụng đất tham gia các quan hệ pháp luật đất đai được quy định trong Luật Đất đai năm 2024 với Bộ luật Dân sự chưa thống nhất.
Luật Đất đai năm 2024 quy định nhóm người sử dụng đất mà có chung quyền sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì có quyền và nghĩa vụ như chuyển nhượng quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, được thừa kế quyền sử dụng đất, quyền được thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất tại các tổ chức tín dụng... (Điều 26, 27, 37 Luật Đất đai năm 2024). Đồng thời, Điều 27 Luật Đất đai năm 2024 quy định về quyền và nghĩa vụ của nhóm người sử dụng đất mà có chung quyền sử dụng đất, theo đó: “Trường hợp quyền sử dụng đất của nhóm người sử dụng đất không phân chia được theo phần thì các thành viên cùng nhau thực hiện hoặc ủy quyền cho người đại diện để thực hiện quyền và nghĩa vụ của nhóm người sử dụng đất”.
Như vậy, theo quy định này, nhóm người sử dụng đất mà có chung quyền sử dụng đất có quyền ủy quyền cho người đại diện để thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Tuy nhiên, tại Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 lại quy định về giao dịch dân sự của người chưa thành niên: “... Giao dịch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện; Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi; Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”.
Theo quy định này, đối với người dưới 18 tuổi khi tham gia giao dịch dân sự về bất động sản phải thông qua người đại diện. Có thể khẳng định pháp luật không ngăn cấm người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản. Các giao dịch này có thể bao gồm những hình thức phổ biến như: chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp hay từ chối nhận di sản thừa kế là nhà, đất. Các giao dịch dân sự cũng bao gồm những hành vi pháp lý đơn phương8, tức hành vi được thực hiện theo ý chí đơn phương của một người làm phát sinh hậu quả pháp lý, như việc để di chúc hay từ chối nhận di sản. Đây là quyền của mỗi người thuộc năng lực pháp luật của họ, vốn không bị hạn chế. Tuy nhiên, khi xác lập và thực hiện giao dịch liên quan đến bất động sản, thì họ cần phải đáp ứng điều kiện kèm theo, đó là: có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Đây là điều kiện hạn chế năng lực hành xử quyền (năng lực hành vi) của họ, là điều kiện duy nhất mà pháp luật đặt ra để chủ thể này có thể thực hiện các giao dịch liên quan đến bất động sản.
Đối chiếu với Điều 27 Luật Đất đai năm 2024, có thể thấy, việc phải có sự đồng ý của người đại diện với việc ủy quyền cho người đại diện để thực hiện quyền và nghĩa vụ liên quan đến bất động sản là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn, thành viên của nhóm người sử dụng đất có xung đột về lợi ích với người đại diện thì việc ủy quyền cho người đại diện được thực hiện như thế nào? Điều này hiện đang là khoảng trống của pháp luật và dễ bị lạm dụng thực hiện trong thực tiễn thành hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhằm trốn thuế. Hoặc trường hợp người đại diện lại chính là người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của nhóm người sử dụng đất thì ủy quyền cho người đại diện áp dụng như thế nào? Hiện nay pháp luật dân sự, đất đai và luật công chứng chưa có quy định cụ thể.
Từ những hạn chế, vướng mắc trên, tác giả đề xuất, kiến nghị sửa đổi quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành đồng bộ với Luật Đất đai năm 2024 về vấn đề hộ gia đình thực hiện các giao dịch về đất đai. Lý do là bởi vì hiện nay Luật Đất đai năm 2024 không còn quy định chủ thể là hộ gia đình tham gia các quan hệ pháp luật đất đai. Bên cạnh đó, vấn đề ủy quyền của nhóm người sử dụng đất mà có chung quyền sử dụng đất cho người đại diện khi tham gia các giao dịch dân sự về quyền sử dụng đất đối với người dưới 18 tuổi cần quy định cụ thể hơn nhằm xây dựng được hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, qua đó giúp giải quyết một cách nhanh chóng, thấu tình đạt lý các tranh chấp liên quan đến chủ thể trong hợp đồng về quyền sử dụng đất.
Thứ hai, còn tồn tại một số bất cập giữa các luật chuyên ngành, như Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Đa dạng sinh học... về quản lý, bảo vệ đất đai gắn với quyền sử dụng đất, rừng. Ví dụ, Luật Đất đai năm 2024 quy định cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất được giao, cho thuê có thu tiền, trong khi Luật Bảo vệ và phát triển rừng nắm 2004 không cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng rừng sản xuất là rừng tự nhiên...; việc phân cấp lập, thẩm định dự án, quyết định thành lập khu bảo tồn, thành lập vườn quốc gia còn chồng chéo, dẫn tới khó áp dụng thống nhất trên thực tế.
Thứ ba, về quyền sở hữu trí tuệ, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ diễn ra đồng thời ở tất cả các lĩnh vực, như sản xuất, chế biến, lưu thông, xuất - nhập khẩu và liên quan tới nhiều thành phần kinh tế, như tư nhân, nhà nước, liên doanh và thậm chí là thành phần 100% vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn diễn ra ở hầu hết các đối tượng sở hữu trí tuệ. Trên thị trường, hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày càng khó phân biệt, nhiều mặt hàng rơi vào tình trạng thật - giả lẫn lộn, rất khó nhận biết. Đặc biệt, việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã xuất hiện ở nhóm hàng hóa có khả năng gây hậu quả nghiêm trọng đối với người tiêu dùng và xã hội, như thuốc chữa bệnh, thuốc bảo vệ thực vật, sắt, thép xây dựng...
Thứ tư, quyền bề mặt, quyền hưởng dụng và quyền đối với bất động sản liền kề đều được xác lập trên cơ sở quyền sở hữu của chủ thể khác nên pháp luật Việt Nam cũng nên ghi nhận quyền định đoạt của chủ thể có quyền hưởng dụng như là chủ sở hữu một tài sản độc lập, tức có thể chuyển đổi, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố quyền hưởng dụng.
Thứ năm, hoàn thiện quy định của BLDS năm 2015 về quyền đối với bất động sản liền kề để phù hợp với Luật Đất đai năm 2024 và các luật chuyên ngành khác. Còn có nhiều quyền đối với bất động sản liền kề khác có thể được thỏa thuận giữa các bên nên trong thực tiễn cần tổng kết để đưa vào Bộ luật Dân sự năm 2015 và các luật chuyên ngành. Ví dụ, hiện nay Luật Đất đai năm 2024 đã quy định rõ hơn về quyền sử dụng đất liền kề tại Điều 29, do đó cần bổ sung vào Bộ luật Dân sự năm 2015 cho phù hợp như quyền về lối đi; cấp nước, thoát nước; tưới nước, tiêu nước trong canh tác; cấp khí ga; lắp đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cần thiết khác theo quy định của pháp luật.
Thứ sáu, ban hành pháp luật về đăng ký tài sản đối với những tài sản mà người có quyền bề mặt, quyền hưởng dụng có thể xác lập quyền sở hữu của mình trên đó. Hiện nay BLDS năm 2015 không quy định bắt buộc các chủ thể có quyền bề mặt, quyền hưởng dụng đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, đây có thể là nguyên nhân phát sinh các tranh chấp dân sự và không có căn cứ pháp lý giải quyết để bảo đảm quyền lợi cho chủ sở hữu đối với tài sản của mình, do vậy, cần phải ban hành luật riêng hoặc lồng ghép các luật chuyên ngành về từng tài sản được xác lập từ quyền hưởng dụng, quyền bề mặt hay quyền sử dụng hạn chế nào đó trên tài sản phải được đăng ký quyền sở hữu.
Thứ bảy, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc tự do sở hữu tài sản thông qua quy định về việc không hạn chế về số lượng và giá trị của tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân. Tuy nhiên, đối với tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở nên hạn chế đối với cá nhân, tổ chức để phù hợp với thực tiễn và tránh được hiện tượng đầu cơ đất đai và nhà ở.
TS. Tăng Thị Thu Trang
Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện CTQG Hồ Chí Minh
Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 45 (04/2024)
---
Tài liệu trích dẫn
(1) Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (đồng chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Công an nhân dân, tr. 228
(2) Nguyễn Ngọc Điện, Cần xây dựng lại khái niệm “Quyền tài sản” trong Luật Dân sự, tr.112.
(3) Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb Công an nhân dân, Điều 115, Điều 105, Điều 160, Điều 116.
(4) Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb Công an nhân dân, Điều 115, Điều 105, Điều 160, Điều 116.
(5) Nguyễn Ngọc Điện (2016), Giáo trình luật dân sự, tập 1, Nxb. Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 175.
(6) Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb Công an nhân dân, Điều 115, Điều 105, Điều 160, Điều 116.
(7) Quốc hội (2024) Luật Đất đai năm 2024, Nxb Công an nhân dân, Điều 29.
(8) Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb Công an nhân dân, Điều 115, Điều 105, Điều 160, Điều 116.
(9) Bộ luật Dân sự năm 2005 của Pháp (Bản dịch), Điều 578, Điều 595.