Hiện nay, vấn đề quy định ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật đã trở thành một chủ đề phổ biến ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 20221 được ban hành cũng bắt đầu ghi nhận nhóm quyền này dành cho người khuyết tật, tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập nên chưa tạo được hiệu quả trong áp dụng thực tiễn của quyền. Trong phạm vi bài viết, các ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật sẽ được phân tích trên cơ sở tham khảo Luật Bản quyền Nhật Bản, thông qua đó đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật tại Việt Nam.

Họa sĩ Lê Minh Châu vẽ tranh bằng miệng. Nguồn: laodong.vn.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh  phát triển của Việt Nam hiện nay, nguyên tắc bình đẳng ngày càng được nhận thức một cách rõ rệt. Người khuyết tật có quyền được đối xử công bằng, được tiếp nhận mọi thông tin, tri thức giống như những người không khuyết tật khác. Việc tiếp cận tri thức là quyền cơ bản của con người, đó là điều kiện tiên quyết của sự phát triển hòa nhập và phát huy tiềm năng cá nhân, vì nó mở ra cho mọi người các cơ hội học tập, việc làm, chăm sóc sức khỏe, hay tham gia các hoạt động chính trị, xã hội. Do đó, nhu cầu áp dụng ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật ngày càng trở nên quan trọng và cùng với đó là những khó khăn trong việc chuyển đổi các tác phẩm gốc sang bản sao tác phẩm dưới định dạng dễ tiếp cận nói riêng cũng như việc áp dụng các trường hợp ngoại lệ nói chung.

Dưới góc độ pháp luật quốc tế, Hiệp ước Marrakesh, có tên đầy đủ là “Hiệp ước Marrakesh nhằm tạo điều kiện tiếp cận các tác phẩm đã xuất bản cho người khiếm thị, người khiếm thị một phần hoặc gặp khó khăn trong việc đọc chữ in” được thông qua ngày 27/6/20132 dưới sự bảo trợ của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO).  Hiệp ước này nhằm giải quyết vấn đề thiếu các bản sao sách ở định dạng dễ tiếp cận cho người có khiếm khuyết về thị giác hoặc gặp khó khăn trong việc đọc chữ in. Mục tiêu chính của hiệp ước là yêu cầu các quốc gia thành viên đưa ra các ngoại lệ bắt buộc về luật bản quyền để cho phép sản xuất và trao đổi xuyên biên giới các tác phẩm ở định dạng dễ tiếp cận, nhằm cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục, văn hóa và thông tin cho người khuyết tật. Việt Nam gia nhập Hiệp ước này vào tháng 12/2022.

Hiệp ước Marrakesh đã có những tác động đến Luật Bản quyền của Châu Âu3 và được nhiều quốc gia trên thế giới ủng hộ áp dụng ngoại lệ bản quyền cho người khuyết tật4, bao gồm Nhật Bản. Để đảm bảo quyền tiếp cận của người khuyết tật với tài liệu đọc được bảo vệ bản quyền5, Nhật Bản gia nhập Hiệp ước Marrakesh năm 2018, cho phép các tổ chức được ủy quyền tạo ra bản sao các tác phẩm dưới định dạng dễ tiếp cận như sách chữ nổi Braille6 hoặc sách âm thanh cho người khiếm thị, giúp mở rộng quyền tiếp cận tri thức cho người khuyết tật tại Nhật Bản7.

Có thể nói, Nhật Bản là một trong những nước có cơ chế bảo hộ quyền tác giả chặt chẽ và nghiêm ngặt trên thế giới. Quốc gia này cũng có sự quan tâm từ sớm đến các ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật từ năm 1899, khi Luật Bản quyền của họ ra đời và được cải tiến dần cho đến nay với các quy định về ngoại lệ dành cho người khiếm thị và người khiếm thính. Tương tự như Nhật Bản, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2022 đã có một bước tiến vượt bậc khi mở rộng chủ thể người khuyết tật bao gồm người khuyết tật nhìn, người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in và người khuyết tật khác không có khả năng tiếp cận tác phẩm để đọc theo cách thông thường thay vì chỉ quy định ngoại lệ dành cho người khiếm thị như trước đây. Tuy nhiên, các quy định về ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật hiện nay vẫn tồn tại một số hạn chế.

2. Ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật theo Luật Bản quyền Nhật Bản

Sự phát triển của một loạt các luật liên quan đến quyền tác giả ở các nước phương Tây đã ảnh hưởng đến sự hình thành của hệ thống pháp luật về quyền tác giả ở Nhật Bản. Lịch sử hình thành Luật Quyền tác giả của Nhật Bản diễn ra khá sớm từ việc tiếp nhận và học hỏi các quy định của pháp luật nước ngoài và liên tục có sự thay đổi, bổ sung phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội. Năm 1887, văn bản pháp luật điều chỉnh quyền tác giả đầu tiên của Nhật Bản được ban hành với tên gọi là Pháp lệnh Quyền tác giả. Năm 1899, Nhật Bản đã tham gia Công ước Berne. Việc Nhật Bản tham gia công ước này đặt ra yêu cầu phải có sự điều chỉnh luật cho phù hợp với các quy định của Công ước. Pháp lệnh Quyền tác giả năm 1887 đã được thay đổi toàn bộ với tên gọi chính thức là Luật Quyền tác giả năm 18998. Văn bản luật này được xây dựng dựa trên những nguyên tắc cơ bản của Công ước Berne để đáp ứng cho việc Nhật Bản gia nhập Công ước này. Sau khi  được ban hành, Luật Quyền tác giả năm 1899 đã được sửa đổi nhiều lần để mở rộng phạm vi bảo hộ quyền tác giả và để tạo điều kiện bảo hộ được rộng hơn. Nhật Bản đã dần thông qua nhiều đạo luật sửa đổi của Công ước Berne như Đạo luật Berlin, Công ước Rome để không ngừng sửa đổi cho phù hợp với các điều ước quốc tế mà Nhật Bản là thành viên. Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản cũng đã quyết định tự cải cách hệ thống pháp luật về quyền tác giả một cách triệt để. Năm 1970, Luật Quyền tác giả mới chính thức được ban hành và lần đầu tiên ghi nhận các quy định về ngoại lệ quyền tác giả liên quan đến việc cho phép việc sử dụng các tác phẩm trong trường hợp đặc biệt như phục vụ cho việc sử dụng cá nhân, trong thư viện, cho các mục đích giáo dục,... Tuy nhiên đến năm 2000, Luật Quyền tác giả của Nhật Bản mới bổ sung thêm quy định về ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật, cụ thể là các ngoại lệ trong việc khai thác các công trình cho những người khiếm thị. Quy định này đã bước đầu tạo điều kiện cho những người khuyết tật có thể tiếp cận được với những tác phẩm được bảo hộ về quyền tác giả. Đến năm 2006, Luật Quyền tác giả Nhật Bản tiếp tục bổ sung quy định hướng đến lợi ích dành cho người khuyết tật thông qua việc hình thành các quyền hạn chế, chẳng hạn như truyền dẫn tương tác sách kỹ thuật số ghi lại cho người khuyết tật, để có quyền này cần nộp hồ sơ thủ tục kiểm tra văn bằng bảo hộ và thủ tục phê duyệt. Năm 2008, nhận thấy được nhu cầu cần được học tập và phát triển một cách lành mạnh, hiệu quả cho các em nhỏ bị khuyết tật, Luật Quyền tác giả của Nhật Bản tiếp tục mở rộng thêm các ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả trong việc phục vụ chuẩn bị in sách giáo khoa và cho phép sử dụng với mục đích nghiên cứu cho trẻ em và học sinh khuyết tật, khiếm thị9. Luật Bản quyền Nhật Bản đã tiếp tục trải qua các lần sửa đổi ngày một hoàn thiện hơn, cụ thể, Luật Bản quyền Nhật Bản năm 2014 đã quy định ngoại lệ về sao chép cho người khiếm thị tại Điều 3710 và sao chép cho người khiếm thính tại Điều 37bis11. Theo đó, Điều 37 cho phép sao chép bằng chữ nổi một tác phẩm đã được công bố và được phép sử dụng hệ thống xử lý chữ nổi Braille trên máy vi tính để ghi lại tác phẩm đã được công bố trên phương tiện ghi âm hoặc truyền tới công chúng tác phẩm đó, ngoại trừ trong chương trình phát sóng hoặc truyền hình cáp và Điều 37bis cũng ghi nhận về việc sao chép hoặc truyền tải tự động đến công chúng bằng phương pháp cần thiết giúp người khiếm thính có thể tiếp cận tác phẩm như tạo chữ viết từ âm thanh trong tác phẩm.

Như vậy, với việc gia nhập các điều ước quốc tế về quyền tác giả từ rất sớm, Nhật Bản đã có sự điều chỉnh pháp luật phù hợp nhằm bảo hộ quyền tác giả nói chung cũng như các ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật nói riêng.

3. Quy định về ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật ở Việt Nam

So với Nhật Bản, thì đến năm 2022 Việt Nam mới cụ thể hóa quy định về ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật theo hướng mở rộng phạm vi quyền. Trước đó, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 chỉ có quy định về “Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị” trong nhóm các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao. Tuy nhiên, mặc dù pháp luật đã đưa ra ngoại lệ dành cho người khuyết tật nhưng chỉ ở mức độ nêu ra các quyền mà các chủ thể được thực hiện mà không quy định các quyền đó sẽ được thực hiện như thế nào. Theo nhóm tác giả, việc chỉ quy định một số vấn đề về trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật tại Điều 30 của Nghị định 17/2023/NĐ- CP là còn thiếu sót và dẫn đến một số khó khăn trong quá trình thực thi quy định, cụ thể như sau:

Thứ nhất, bất cập đối với điều kiện được sử dụng ngoại lệ quy định tại khoản 4 Điều 25a Luật Sở hữu trí tuệ. Đây là trường hợp tổ chức đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ có quyền phân phối hoặc truyền đạt bản sao dưới định dạng dễ tiếp cận của tác phẩm tới người khuyết tật ở nước ngoài theo quy định tại điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên mà không cần sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Tuy nhiên, điều kiện mà pháp luật đặt ra cho các tổ chức này là “trước khi phân phối hoặc truyền đạt, tổ chức này không biết hoặc không có cơ sở để biết bản sao dưới định dạng dễ tiếp cận này sẽ được sử dụng cho bất cứ đối tượng nào khác ngoài người khuyết tật”. Phần điều kiện này không đưa ra cụ thể các biện pháp kiểm soát cũng như cơ chế để đảm bảo rằng bản sao chỉ được sử dụng cho người khuyết tật. Có thể thấy, các quy định đặt ra tại Điều 25a Luật Sở hữu trí tuệ là ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật, nhưng điều kiện sử dụng ngoại lệ của tổ chức đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ quy định tại Khoản 4 Điều 25a thì lại không quy định một cách chắc chắn người nước ngoài đó có phải là người khuyết tật hay không. Điều này tạo ra một rủi ro lớn về việc sử dụng bản sao dưới định dạng dễ tiếp cận của tác phẩm cho mục đích khác. Ngoài ra, có thể dẫn đến việc lạm dụng quyền tác giả từ các tổ chức thực hiện việc phân phối, truyền đạt bản sao đến người khuyết tật ở nước ngoài, nhất là khi lợi ích kinh tế được đặt lên hàng đầu. Điều này có thể tạo ra lỗ hổng pháp lý trong việc thực hiện và giám sát quy định này, làm mất đi lòng tin của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và cả chủ thể thụ hưởng là người khuyết tật hợp pháp.

Thứ hai, bất cập do chưa có chính sách liên kết các nguồn cung xuất bản phẩm ở định dạng dễ tiếp cận. Bên cạnh tầm quan trọng của việc tạo ra các tác phẩm dưới định dạng bản sao dễ tiếp cận dành cho người khuyết tật thì việc có sự liên kết giữa các nguồn cung các bản sao này cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy vậy, hiện nay Việt Nam vẫn chưa có chính sách khuyến khích áp dụng phương pháp xuất bản bao trùm, dẫn đến việc các nhà xuất bản thực hiện việc xuất bản các bản sao dưới định dạng dễ tiếp cận của tác phẩm một cách riêng lẻ với số lượng ít nhưng chi phí cho mỗi lần xuất bản lại tốn kém trong khi vẫn cần nguồn nhân lực, tài chính và cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, nước ta vẫn chưa có chính sách liên kết các nguồn cung xuất bản phẩm ở định dạng dễ tiếp cận cũng như chính sách tạo ra chuỗi liên kết thư viện. Đây là một trong những thách thức lớn đối với việc cung cấp tài liệu dưới định dạng bản sao dễ tiếp cận cho người khuyết tật ở Việt Nam. Việc không có quy định cụ thể về việc liên kết các nguồn cung xuất bản phẩm dẫn đến mỗi thư viện hoặc nhà xuất bản sẽ cung cấp tài liệu theo cách riêng, không có sự đồng nhất trong việc đảm bảo tất cả các tác phẩm đều được chuyển đổi thành định dạng dễ tiếp cận dành cho người khuyết tật. Người khuyết tật có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận tri thức dưới các định dạng mà họ có thể tiếp cận được do thiếu sự liên kết giữa các nguồn cung và thư viện, làm giảm khả năng tiếp cận tài liệu phù hợp với nhu cầu của họ. Điều này đã gây ra sự lãng phí về mặt nguồn lực chuyển đổi, thời gian, công sức khi nhiều tổ chức cùng chuyển đổi một tác phẩm dẫn đến sự trùng lặp trong việc tạo bản sao dễ tiếp cận.

Bên cạnh đó, việc chưa có sự liên kết giữa các nguồn cung và thư viện cũng như cho phép chia sẻ các bản sao dưới định dạng dễ tiếp cận cũng ảnh hưởng đến số lượng các tác phẩm đã chuyển đổi mà người khuyết tật có thể sử dụng, tạo ra sự phụ thuộc lớn hơn vào các nguồn tài liệu có hạn, khiến cho việc cung cấp tài liệu cho người khuyết tật trở nên khó khăn hơn. Một thực trạng về việc tiếp cận tri thức của người khuyết tật khi chưa có sự liên kết giữa các nguồn cung xuất bản phẩm đó là vẫn còn có sự chênh lệch giữa các tỉnh thành. Những người khuyết tật sống ở tỉnh, thành nhỏ không được tiếp cận với nguồn tri thức từ các thư viện với các trang thiết bị và ấn bản phẩm xuất bản dành riêng cho họ.

4. Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật ở Việt Nam

Các ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật hiện nay vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể để có thể áp dụng hiệu quả trong thực tế. Do đó, cần bổ sung các quy định cơ bản như:

Thứ nhất, quy định chi tiết các biện pháp nhằm đảm bảo tổ chức đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ phải biết chắc chắn chủ thể thụ hưởng là người khuyết tật theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 30 Nghị định 17/2023/NĐ-CP12. Trong thực tế, việc tổ chức không có khả năng đảm bảo rằng bản sao dưới định dạng dễ tiếp cận sẽ được sử dụng đúng mục đích là một điểm yếu của quy định pháp luật. Điều này có thể dẫn đến việc sử dụng bản sao cho các mục đích khác ngoài mục đích cá nhân của người khuyết tật, gây ra mất mát cho chủ sở hữu quyền tác giả và làm suy giảm tính công bằng và minh bạch của hệ thống bảo vệ quyền tác giả. Để giải quyết điểm bất cập này, có thể xem xét thêm các biện pháp điều chỉnh hoặc quy định bổ sung để đảm bảo rằng việc phân phối hoặc truyền đạt bản sao dưới định dạng dễ tiếp cận chỉ được thực hiện cho mục đích của người khuyết tật mà không gây ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu quyền tác giả. Theo đó, pháp luật nên có quy định chi tiết để tạo điều kiện cho tổ chức đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ có thể thiết lập các quy trình chứng thực và xác thực người khuyết tật trước khi cung cấp bản sao dưới định dạng dễ tiếp cận. Tổ chức nên thúc đẩy sự minh bạch trong các hoạt động liên quan đến việc phân phối và truyền đạt bản sao dưới định dạng dễ tiếp cận dành cho người khuyết tật. Quy định này giúp đảm bảo rằng chỉ có người khuyết tật mới có quyền mới có thể truy cập vào các bản sao dưới định dạng dễ tiếp cận. Ngoài ra, cần có hệ thống giám sát và đánh giá để các tổ chức này có thể theo dõi việc sử dụng bản sao dễ tiếp cận của người khuyết tật sau khi đã phân phối và truyền đạt. Bên cạnh đó, các tổ chức có thể thiết lập một hệ thống phản hồi và xử lý khiếu nại từ người khuyết tật để giải quyết các vấn đề phát sinh và cải thiện dịch vụ của mình. Bằng cách kết hợp các giải pháp trên, tổ chức có thể đảm bảo rằng việc phân phối và truyền đạt tác phẩm dưới định dạng bản sao dễ tiếp cận chỉ được thực hiện cho việc giúp người khuyết tật tiếp cận tri thức một cách hiệu quả và công bằng.

Thứ hai, đề xuất tạo chính sách liên kết các nguồn cung xuất bản phẩm ở định dạng dễ tiếp cận cũng như chính sách tạo ra chuỗi liên kết thư viện. Có thể thấy, thị trường xuất bản phẩm dành cho nhóm người khuyết tật chưa mang lại hiệu quả kinh tế, cho nên nguồn tài liệu không phong phú, hoặc cũng chỉ được chuyển đổi một phần. Quá trình chuyển đổi tác phẩm thành các bản sao dưới định dạng dễ tiếp cận gặp nhiều khó khăn. Trong khi các quy định pháp luật bảo đảm quyền của người khuyết tật được tiếp cận tri thức phù hợp với khả năng thì việc thiếu sách giáo khoa, xuất bản phẩm ở các định dạng phù hợp đang là rào cản đối với việc tiếp cận tri thức của nhóm người khuyết tật. Do đó, pháp luật cần có chính sách khuyến khích áp dụng phương pháp xuất bản bao trùm các tác phẩm dưới định dạng bản sao dễ tiếp cận dành cho người khuyết tật. Bởi khi áp dụng phương pháp xuất bản bao trùm, các bản sao tác phẩm dưới định dạng dễ tiếp cận sẽ được xuất bản một cách đồng loạt và thống nhất với số lượng đáng kể. Điều này sẽ giúp tiết kiệm được thời gian, nguồn nhân lực và đặc biệt là nguồn chi phí cho nguyên liệu cũng như quy trình chuyển đổi hơn rất nhiều so với việc chuyển đổi một cách riêng lẻ. Ngoài ra, cần sớm có các chính sách khuyến khích các tổ chức tham gia chuỗi cung ứng xuất bản phẩm ở định dạng dễ tiếp cận cho người khuyết tật trên phạm vi cả nước, kể cả các tỉnh thành nhỏ. Đặc biệt là chính sách tạo ra chuỗi liên kết thư viện, những chính sách này sẽ giúp giảm lãng phí nguồn lực chuyển đổi, phân phối và trợ giúp người khuyết tật chữ in dễ tiếp cận hơn với các nguồn xuất bản phẩm ở định dạng phù hợp13. Qua đó giúp mở rộng phạm vi tiếp cận tri thức cho người khuyết tật. Bằng cách liên kết với nhau, các tổ chức có thể chia sẻ các xuất bản phẩm với nhau, có thể cùng nhau cung cấp một loạt các tác phẩm dưới định dạng dễ tiếp cận, từ sách in, sách audio đến sách điện tử,... cho người khuyết tật. Họ sẽ có thêm cơ hội lựa chọn từ một loạt các tác phẩm dưới các định dạng bản sao dễ tiếp cận. Bên cạnh đó, các tổ chức cung cấp xuất bản phẩm còn có thể chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức để cải thiện chất lượng và độ tin cậy của các tài liệu được cung cấp, có thể chia sẻ các xuất bản phẩm với nhau và cùng nhau phối hợp trong việc sản xuất và phân phối các tác phẩm dưới định dạng bản sao dễ tiếp cận dành cho người khuyết tật.

5. Kết luận

Hoàn thiện pháp luật về ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả là một nhu cầu cấp thiết nhằm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam cũng như đảm bảo cân bằng lợi ích của chủ thể quyền tác giả với cộng đồng. Trong đó, cần chú trọng hoàn thiện các quy định của pháp luật, ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết mang tính cụ thể hóa các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật, góp phần tạo điều kiện cho người khuyết tật có cơ hội tiếp cận tri thức với các định dạng bản sao dễ tiếp cận, giúp người khuyết tật có thể thực thi các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật trong Luật Sở hữu trí tuệ một cách hiệu quả, công bằng.

ThS. Trần Thị Cẩm Nhung

Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ

TS. Nguyễn Thị Mỹ Linh

Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ

Đặng Mỹ Nhung

Cựu sinh viên Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ

Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 45 (04/2024)

---

Tài liệu trích dẫn

  (1) Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2023, trừ trường hợp quy định về bảo hộ nhãn hiệu là dấu hiệu âm thanh và quy định về bảo hộ dữ liệu thử nghiệm dùng cho nông hóa phẩm.

 (2) WIPO (2016). The Marrakesh Treaty to Facilitate Access to Published Works for Persons Who Are Blind, Visually Impaired, or Otherwise Print Disabled. https://www.wipo.int/wipolex/en/text/301016, , truy cập ngày 20/10/2024.

(3);(5) Zemer, L., & Gaon, A. (2015). Copyright, disability and social inclusion: The Marrakesh Treaty and the role of non-signatories. Journal of Intellectual Property Law & Practice, 10(11), 836-849.

(4);(6) Infojustice (2020). Disability Exceptions in Copyright Legislations https://infojustice.org/archives/33768, , truy cập ngày 20/10/2024.

(7) Keisen Associates (2018). Japan Joins Marrakesh Treaty for Copyright Exceptions, Serving People with Visual Impairments, https://www.mondaq.com/copyright/745914/japan-joins-marrakesh-treaty-for-copyright-exceptions-serving-people-with-visual-impairments#authors, , truy cập ngày 20/10/2024.

(8) Japan Copyright Office (JCO) Agency for Cultural Affairs Government of Japan (October, 2016), Copyright system in Japan, Pulished by Copyright Research and Information Center (Cric) Japan. Tr.7

(9) Hoàng Thị Phương Hoa, “Lịch sử hình thành và phát triển Luật Bản quyền tác giả Nhật Bản”, Nghiên cứu Nhật bản (Center for Japanese Studies), https://cjs.inas.gov.vn/index.php?newsid=1276, truy cập ngày 20/10/2024.

(10) Điều 37. Sao chép cho người khiếm thị

1. Được phép sao chép tác phẩm đã công bố thành chữ nổi Braille.

2. Được phép ghi lại hoặc truyền tải công khai (trừ phát sóng hoặc truyền dẫn qua dây, bao gồm cả việc làm cho có thể truyền tải trong trường hợp truyền tải tương tác) một tác phẩm đã công bố, bằng hệ thống xử lý chữ nổi Braille sử dụng máy tính.

3. Người thực hiện các hoạt động vì phúc lợi của người khiếm thị được chỉ định bởi Lệnh của Nội các và những người khác gặp khó khăn trong việc nhận thức các biểu hiện thị giác được phép sao chép hoặc truyền tải tác phẩm đã công bố bằng cách chuyển đổi từ viết thành từ ngữ hoặc các phương tiện khác cần thiết cho người khiếm thị sử dụng. Tuy nhiên, ngoại lệ được áp dụng trong trường hợp tác phẩm thị giác đó đã được cung cấp hoặc làm cho có thể nhận thức bằng các phương tiện đó, bởi chủ sở hữu bản quyền hoặc với sự cho phép của họ hoặc bởi người có quyền xuất bản được đề cập trong Điều 79 hoặc với sự cho phép của người đó để sao chép hoặc truyền tải công khai tác phẩm.

(11) Điều 37bis. Sao chép cho người khiếm thính

Người thực hiện các hoạt động vì phúc lợi của người khiếm thính được chỉ định bởi Lệnh của Nội các và những người khác gặp khó khăn trong việc nhận thức các biểu hiện thính giác được phép:

(i) Sao chép hoặc truyền tải tác phẩm đã công bố bằng cách chuyển đổi từ ngữ thính giác thành từ viết hoặc các phương tiện khác cần thiết cho người khiếm thính sử dụng.

(ii) Sao chép tác phẩm thính giác để cho mượn cho người khiếm thính sử dụng, cùng với việc chuyển đổi từ ngữ thính giác thành từ viết hoặc các phương tiện khác cần thiết.

Tuy nhiên, ngoại lệ được áp dụng trong trường hợp tác phẩm thính giác đó đã được cung cấp hoặc làm cho có thể nhận thức bằng các phương tiện cần thiết cho việc sử dụng bởi người khiếm thính, bởi chủ sở hữu bản quyền hoặc với sự cho phép của họ, hoặc bởi người có quyền xuất bản được đề cập trong Điều 79 hoặc với sự cho phép của người đó để sao chép hoặc truyền tải công khai tác phẩm.

(12) Theo khoản 1 Điều 30 Nghị định 17/2023/NĐ-CP quy định người khuyết tật bao gồm: “1. Người khuyết tật quy định tại điểm m khoản 1 Điều 25, Điều 25a của Luật Sở hữu trí tuệ và tại Điều này bao gồm:

a) Người khuyết tật nhìn;

b) Người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in và người khuyết tật khác không có khả năng tiếp cận tác phẩm để đọc theo cách thông thường, được hiểu là: Người đang trong tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức hoặc khả năng đọc mà không thể cải thiện được dẫn đến không thể đọc tác phẩm in như một người bình thường hoặc người khuyết tật đang trong tình trạng không thể cầm nắm, thao tác trên một cuốn sách hoặc tác phẩm in tương tự hay không thể di chuyển mắt để đọc ở mức độ bình thường”.

(13) Đình Toán, Báo Văn hóa,  “Tăng cường khả năng tiếp cận các xuất bản phẩm của người khuyết tật chữ in tại Việt Nam: Xây dựng lòng tin để sẵn sàng chia sẻ quyền lợi”, http://vanhoaonline.com.vn/gia-%C4%91inh/loi-song/artmid/2117/articleid/71411/tang-cuong-kha-nang-tiep-can-cac-xuat-ban-pham-cua160nguoi-khuyet-tat-chu-in-tai-viet-nam-xay-dung-long-tin-de-san-sang%E2%80%8B%E2%80%8B%E2%80%8B%E2%80%8B%E2%80%8B%E2%80%8B%E2%80%8B-chia-se-quyen-loi, truy cập ngày 26/10/2024.