Tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, dài hạn là một nội dung quan trọng của mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc cũng như của Việt Nam, nhất là khi đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới. Để thực hiện hiệu quả mục tiêu này, đòi hỏi đặt ra là Nhà nước phải lấy con người làm trung tâm trong quá trình phát triển. Bài viết phân tích các nội dung và đề xuất các giải pháp lấy con người làm trung tâm trong phát triển, bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục ở Việt Nam trong thời gian tới.

Ảnh minh họa. Nguồn: baochinhphu.vn

MỞ ĐẦU

Phát triển đất nước theo phương châm bền vững là cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Để thực hiện điều đó, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt con người vào trung tâm của sự phát triển, đặc biệt là trong quá trình tăng trưởng kinh tế theo hướng nhanh và bền vững, toàn diện, liên tục. Đây là việc tiếp thu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân của Đảng và Nhà nước ta trong bối cảnh mới. Việc lấy con người làm trung tâm trong mọi chính sách phát triển có những nội hàm và cách thức cần được nhận thức và thực thi một cách đồng thuận của toàn bộ hệ thống chính trị và mỗi một người dân để thực hiện khát vọng xây dựng đất nước phồn thịnh, hùng cường, trường tồn, con người được tự do, ấm no, hạnh phúc và không ai bị bỏ lại phía sau.

1. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục của Liên hợp quốc và Việt Nam

Thế kỷ XX đầy biến động ở nửa đầu, tuy đã khá ổn định và phát triển mạnh mẽ ở nửa sau, nhưng những vấn đề như đói nghèo, nguy cơ xung đột/chiến tranh và ô nhiễm/huỷ hoại môi trường ngày càng trở nên bức xúc, nhất là vào thập niên 90, đặt ra yêu cầu Liên hợp quốc phải có những hành động mạnh mẽ để thực hiện sứ mệnh của mình. Năm 1992, tại Hội nghị thượng đỉnh Trái đất ở Rio de Janeiro, Brazil, đại diện lãnh đạo của hơn 178 thành viên Liên hợp quốc đã thống nhất thông qua Chương trình nghị sự 21 - một kế hoạch hành động toàn diện nhằm xây dựng quan hệ đối tác toàn cầu vì sự phát triển bền vững, hướng đến cải thiện cuộc sống con người và bảo vệ môi trường. Tám năm sau, tại Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (tháng 9/2000), các quốc gia thành viên nhất trí thông qua Tuyên bố Thiên niên kỷ với việc xây dựng tám Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), trong đó có mục tiêu bảo đảm sự bền vững của môi trường. Nhưng phải mất thêm 15 năm nữa, với nhiều nỗ lực không ngừng nghỉ, tại Hội nghị Thượng đỉnh về Phát triển bền vững của Liên hợp quốc (tháng 9/2015), Chương trình Nghị sự 2030 về Phát triển bền vững với hàng loạt mục tiêu lớn mới được thống nhất thông qua, trong đó mục tiêu thứ 8 chú trọng vào tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện và dài hạn. Các mục tiêu chi tiết gồm:

i) Duy trì mức tăng trưởng kinh tế bình quân đầu người phù hợp với hoàn cảnh mỗi quốc gia, đặc biệt tăng trưởng GDP ít nhất 7% mỗi năm ở các nước kém phát triển nhất;

ii) Nền kinh tế đạt được năng suất cao hơn thông qua đa dạng hóa, đổi mới và nâng cấp công nghệ, thông qua việc tập trung vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng và thâm dụng lao động;

iii) Thúc đẩy các chính sách định hướng phát triển để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất, tạo việc làm bền vững, tinh thần làm chủ doanh nghiệp, sự sáng tạo và sự đổi mới, khuyến khích hợp thức hóa và phát triển các các doanh nghiệp vi mô, nhỏ và vừa thông qua tiếp cận các dịch vụ tài chính;

iv) Đến năm 2030, cải thiện từng bước việc sản xuất và tiêu dùng hiệu quả tài nguyên toàn cầu, nỗ lực không để tăng trưởng kinh tế gây hủy hoại môi trường phù hợp với khuôn khổ 10 năm của chương trình sản xuất và tiêu dùng bền vững mà các nước phát triển đang dẫn đầu;

v) Vào năm 2030, cung cấp công ăn việc làm chất lượng và bền vững cho tất cả phụ nữ và nam giới, kể cả những người trẻ tuổi và người khuyết tật, và trả công bằng nhau cho công việc có giá trị ngang nhau;

vi) Đến năm 2020, giảm đáng kể tỷ lệ thanh niên không có việc làm, giáo dục và đào tạo;

vii) Thực hiện biện pháp khẩn cấp và hiệu quả đảm bảo việc nghiêm cấm và xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, xóa bỏ cưỡng bức lao động. Đến năm 2025, chấm dứt lao động trẻ em ở mọi hình thức bao gồm cả việc tuyển dụng và sử dụng binh lính trẻ em;

viii) Bảo vệ quyền lợi của người lao động, thúc đẩy và đảm bảo môi trường làm việc an toàn cho tất cả người lao động, bao gồm cả lao động nhập cư, đặc biệt là phụ nữ di cư và lao động làm các công việc tạm thời;

ix) Đến năm 2030, đưa ra và thực hiện các chính sách thúc đẩy du lịch bền vững, tạo công ăn việc làm, khuyến khích các sản phẩm và văn hóa địa phương;

x) Tăng cường năng lực của các tổ chức tài chính trong nước để khuyến khích và mở rộng cho tất cả mọi người khả năng tiếp cận với ngân hàng, bảo hiểm và dịch vụ tài chính1.

Như vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững của Liên hợp quốc tập trung vào 3 yếu tố chính: i) tốc độ tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động, việc làm; ii) tiêu dùng hiệu quả tài nguyên toàn cầu và bảo vệ môi trường; iii) quan tâm đến các nhóm xã hội dễ bị tổn thương (lao động nữ, trẻ em, người di cư...).

Dù là quốc gia đang phát triển, nhưng Việt Nam đã tích cực tham gia vào nỗ lực chung của khu vực và quốc tế về phát triển bền vững, theo đó, Việt Nam đã ban hành nhiều văn kiện chính sách về vấn đề này, như: Định hướng chiến lược phát triển bền vững Việt Nam năm 2004; Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020; Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự  2030 vì sự phát triển bền vững... Đặc biệt, Việt Nam đã có sự mềm dẻo trong việc “quốc gia hoá” SDGs với việc Chính phủ ban hành Nghị quyết số 136/NQ-CP ngày 25/9/2020 về phát triển bền vững. Theo đó, cũng với 17 mục tiêu, nhưng cách tiếp cận vừa mang màu sắc Việt Nam, đồng thời bảo đảm tuân thủ SDGs trong lĩnh vực này. Trong đó, mục tiêu thứ 8 của Việt Nam được xác định là: “Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người”.

Có thể thấy, quan điểm tăng trưởng kinh tế bền vững nói riêng, phát triển bền vững nói chung đã được Việt Nam hết sức chú ý kể từ sau Đổi mới. Gần đây, Việt Nam gắn tăng trưởng kinh tế bền vững với tăng trưởng nhanh, tức là có sự gắn bó chặt chẽ, hài hoà, hợp lý giữa yếu tố “nhanh” và “bền vững” với 3 trụ cột: tăng tốc tăng trưởng kinh tế; giải quyết tốt các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường2. Với quan điểm đó, có thể thấy, Việt Nam đã có sự mở rộng hơn trong cách tiếp cận về tăng trưởng bền vững so với Liên hợp quốc, khi không chỉ quan tâm đến các nhóm xã hội dễ bị tổn thương mà đưa việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội trở thành 1 trong 3 trụ cột của tăng trưởng kinh tế bền vững.

2. Nội dung lấy con người làm trung tâm trong thực hiện tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục ở Việt Nam

Tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, toàn diện, liên tục là mục tiêu của Nhà nước Việt Nam, thể hiện cam kết mạnh mẽ của mình trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế. Nhưng cam kết đó chỉ thực hiện được khi các cơ quan có thẩm quyền biết đặt con người vào trung tâm của quá trình tăng trưởng. Điều này xuất phát từ cách tiếp cận của Liên hợp quốc về quyền phát triển, khi tại Lời mở đầu của Tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền phát triển năm 1986 đã ghi nhận: “quyền phát triển là một quyền con người không thể chuyển nhượng, mà kết quả là mỗi người và mọi dân tộc đều có quyền được tham gia, đóng góp, và thụ hưởng sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị, trong đó tất cả các quyền con người và các quyền tự do cơ bản có thể được thực hiện đầy đủ”3.

Như vậy, tham gia, đóng góp và thụ hưởng của con người trong quá trình phát triển đất nước nói chung, trong tăng trưởng kinh tế nói riêng là những nội hàm căn bản của việc lấy con người làm trung tâm trong các quá trình này. Cụ thể, các nội dung này gồm:

Thứ nhất, sự tham gia của con người vào quá trình tăng trưởng kinh tế.

Sự tham gia của con người vào tăng trưởng kinh tế nói riêng, vào quản trị quốc gia nói chung từ lâu đã được ghi nhận trong Hiến pháp và trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Ngay từ Hiến pháp năm 1946, quyền này đã được hiến định: “tất cả công dân đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến thiết tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình” (Điều 7). Các bản Hiến pháp sau đó đều tiếp tục ghi nhận quyền này. Hiện nay, Hiến pháp năm 2013 tái khẳng định: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước” (Điều 28). Bên cạnh đó, “công dân từ đủ 18 tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân” (Điều 29) và “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân” (Điều 30). Ngoài ra, sự tham gia của người dân còn được thực hiện thông qua công tác giám sát, phản biện đối với các chính sách của Nhà nước cũng như hoạt động của cơ quan nhà nước. Hiến pháp năm 2013 quy định “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tuỵ phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân...” (khoản 2, Điều 8). Để người dân có thể tham gia vào tăng trưởng kinh tế nói riêng cũng như vào quản trị quốc gia nói chung, người dân phải có thông tin. Từ đó, quyền tiếp cận thông tin của công dân là một quyền hiến định.

Như vậy, sự tham gia của con người vào tăng trưởng kinh tế - với tính cách là chủ thể trung tâm - có thể được thực hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau, cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Nhưng nhìn chung đây là việc thể hiện tiếng nói, tâm tư, nguyện vọng, sáng kiến... của người dân đối với Nhà nước trong quá trình hoạch định và thực thi các chính sách phát triển kinh tế. Điều đáng chú ý là, sự tham gia của nhân dân cần phải “thực hiện trong toàn bộ quá trình xây dựng chính sách, từ các đề xuất sáng kiến ban đầu, đến việc tiến hành triển khai xây dựng, quyết định và thi hành chính sách”4. Chẳng hạn, khi Nhà nước ban hành một chính sách kinh tế nào đó thì người dân phải được biết thông tin về chính sách đó, được tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến và giám sát việc thực hiện chính sách ngay từ khâu hoạch định, đến các khâu ban hành và triển khai trên thực tế.

Thứ hai, con người đóng góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế.

Khi Đảng, Nhà nước ta coi con người là trung tâm của tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục không chỉ dừng lại ở việc người dân tham gia mà quan trọng hơn chính là ở việc người dân đóng góp vào quá trình tăng trưởng đó. Sự đóng góp của con người vào tăng trưởng kinh tế được ghi nhận và phát huy khi Nhà nước công nhận quyền tự do kinh doanh và chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tư duy “dân giàu, nước mạnh”, Đảng và Nhà nước ta chú trọng phát huy mọi nguồn lực để phát triển đất nước, trong đó, nguồn lực con người là quan trọng hàng đầu. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, mọi người đều có cơ hội để đóng góp tài năng, trí tuệ, sức lao động, sức sáng tạo…của mình để cùng cả nước thực hiện khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, cường thịnh. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước” (khoản 3, Điều 51).

Như vậy, chính con người là trung tâm, là chủ thể thực hiện tăng trưởng kinh tế, đóng góp vào sự phát triển của trước hết là cuộc sống cá nhân, gia đình, sau đó là vào tăng trưởng GDP của địa phương, đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh của nhân dân khi Người cho rằng: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”5. Người khẳng định: “Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển”6. Từ chỗ ghi nhận “Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến kết luận “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”7. Tiếp thu và thực hiện chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta cũng không ngừng coi trọng vai trò trung tâm của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Năm 1996, trong đánh giá thành tựu 10 năm Đổi mới, Đảng ta đã đánh giá: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”. Ba mươi năm sau Đổi mới, năm 2016, Đại hội Đảng lần thứ XII cũng rút ra bài học: “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân;...”8. Đến Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta đã đúc kết: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới”9, và đặt ra yêu cầu “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”10.

Thứ ba, con người là mục đích hướng tới và là đối tượng thụ hưởng chính thành quả của tăng trưởng kinh tế. 

Tăng trưởng kinh tế nói riêng, phát triển đất nước nói chung, suy cho cùng đều hướng tới người dân, và người dân là đối tượng thụ hưởng mọi thành quả của sự phát triển. Điều này đã được nhen nhóm từ rất sớm trong tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân..”. Theo Bác, “nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”11. Vì vậy, Người chỉ dẫn, giành được độc lập rồi thì phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, vì “chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”12, và “mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”13. Tiếp thu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh tư tưởng “vì dân”, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đưa ra phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”14.

Như vậy, con người là trung tâm của sự phát triển còn được thể hiện ở góc độ người dân là đối tượng thụ hưởng mọi thành quả của quá trình phát triển, trước hết là được hưởng lợi từ sự tăng trưởng kinh tế. Mở rộng ra, người dân được thụ hưởng mọi quyền con người cơ bản, từ các quyền dân sự, chính trị đến các quyền về văn hoá, xã hội. Điều đó có nghĩa, để phát triển bền vững đất nước, con người cần được thụ hưởng một cách toàn diện, liên tục và lâu dài các thành quả của phát triển trên mọi phương diện của cuộc sống, theo phương châm “không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần... Đây là một yếu tố có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”15. Thực tiễn cho thấy, khi con người được đặt ở vị trí trung tâm của sự phát triển thì một mặt, đây sẽ là mục đích hướng tới của mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; mặt khác, được thụ hưởng mọi thành quả của sự phát triển cũng là động lực to lớn để khơi dậy, phát huy mọi tiềm lực của mọi người dân trong xã hội.

3. Giải pháp tiếp tục lấy con người làm trung tâm trong thực hiện tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục ở Việt Nam

Năm 2020, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 136/NQ-CP về phát triển bền vững với quan điểm chỉ đạo “con người là trung tâm của phát triển bền vững” và mục tiêu tổng quát là “Duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm mọi người dân được phát huy tiềm năng, tham gia và thụ hưởng bình đẳng mọi thành quả của phát triển; xây dựng một xã hội Việt Nam hoà bình, thịnh vượng, bao trùm, công bằng, dân chủ, văn minh và bền vững” cùng với 5 nhiệm vụ giải pháp chung cũng như các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu liên quan đến lĩnh vực quản lý của các bộ, ngành. Đây có thể coi là những giải pháp căn bản, có tính định hướng lớn cho chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, để thực sự lấy con người làm trung tâm trong thực hiện phát triển bền vững bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục, cần tập trung một số giải pháp sau đây:

Một là, cần đẩy mạnh truyền thông nâng cao nhận thức cho người dân cũng như cán bộ, công chức, viên chức và các chủ thể liên quan về phát triển bền vững nói chung, về vị trí, vai trò của người dân trong quá trình phát triển đất nước nói riêng. Khi người dân nhận thức được vị trí và vai trò trung tâm của mình trong tiến trình phát triển bền vững đất nước với các trục nội hàm là tham gia, đóng góp và thụ hưởng thì họ mới thực sự tự giác, chủ động, tích cực phát huy mọi tiềm lực của mình để trở thành một phần không thể thiếu của quá trình đó. Về phía các chủ thể khác, khi hiểu được phương châm con người là trung tâm của phát triển bền vững với mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục thì họ sẽ có thái độ tôn trọng và có ý thức trong việc tạo mọi điều kiện và nguồn lực cần thiết để người dân thực sự được đồng hành cùng Đảng, Nhà nước thực hiện khát vọng xây dựng đất nước cường thịnh, trường tồn.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế cho phát triển bền vững, trong đó, mọi chính sách đều đặt con người vào trung tâm - xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng của người dân, do người dân tổ chức thực hiện và người dân được thụ hưởng mọi thành quả của chính sách. Trong xây dựng thể chế, cần chú ý bảo đảm tính thực chất cả hai góc độ: i) sự tham gia của người dân vào tất cả các khâu của quy trình xây dựng và thực hiện chính sách; ii) quyền và lợi ích của người dân phải được chú trọng hàng đầu trong nội dung chính sách - theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”. Điều này có nghĩa, tránh tình trạng qua loa, đại khái, mang tính hình thức khi huy động sự tham gia của người dân vào quy trình chính sách; đồng thời, các quy định của chính sách cần dự liệu mọi tình huống và lựa chọn phương án tối ưu nhất - phương án có lợi nhất cho người dân.

Ba là, chú trọng nâng cao thái độ, kiến thức và kỹ năng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc lấy người dân làm trung tâm trong thực hiện phát triển bền vững, bảo đảm tăng trưởng kinh tế lâu dài, toàn diện, liên tục. Người dân có tham gia một cách hiệu quả hay không, có cơ hội đóng góp tích cực hay không, và có khả năng thụ hưởng công bằng hay không trong tăng trưởng kinh tế phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ này. Trong bối cảnh hiện nay, để đạt được giải pháp này, điều cần thiết hàng đầu là cần chú trọng giáo dục, đào tạo cho họ kiến thức, kỹ năng về quyền con người để họ là những chủ thể tiên phong trong việc ghi nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người. Và để đạt được điều này một cách bền vững cho tương lai, cần đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân theo Quyết định số 1309/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 05/9/2017 một cách nhanh chóng, hiệu quả, thiết thực.

Bốn là, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính từ chính người dân - chủ thể trung tâm của phát triển và tăng trưởng bền vững. Để có thể tăng trưởng nhanh, bền vững và duy trì liên tục điều này thì sức dân luôn là nguồn lực hết sức quan trọng. Điều cốt yếu ở đây là Nhà nước phải xây dựng được niềm tin của người dân, tạo cơ chế, điều kiện và truyền cảm hứng để mọi người dân tích cực đồng hành với chính quyền trong xây dựng và thực thi mọi chính sách phát triển. Nguồn lực tài chính ở trong dân là rất lớn, nhưng để họ sẵn sàng đầu tư cho phát triển dưới nhiều hình thức thì việc huy động từ phía Nhà nước cần bảo đảm sự yên tâm cho người dân, không chỉ trước mắt mà còn về lâu dài. Việc để người dân chủ yếu lựa chọn các phương án đầu tư như mua vàng, ngoại tệ hoặc đầu tư vào bất động sản… thể hiện người dân chưa thật sự tin tưởng vào các chính sách phát triển của Nhà nước, và họ chọn phương án an toàn nhất.

Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển bền vững nói chung, trong thực hiện tăng trưởng kinh tế lâu dài, toàn diện, liên tục. Có thể thấy, phát triển bền vững là mối quan tâm chung, thách thức chung, nỗ lực chung của nhân loại hiện nay. Là quốc gia đang phát triển nhưng tích cực trong việc thực hiện các cam kết quốc tế về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh với nỗ lực Net Zero vào năm 2050, Việt Nam cần phải chủ động, tích cực hơn nữa trong hợp tác quốc tế nhằm tăng thêm tiềm lực và khả năng triển khai mọi hành động. Việt Nam cần đẩy mạnh việc tham gia và chủ động tổ chức các hoạt động quốc tế nhằm chia sẻ, học tập kinh nghiệm và nâng cao năng lực thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững nói chung, mục tiêu thứ 8 nói riêng, nhất là ở cách thức đưa người dân vào trung tâm của việc thực hiện các mục tiêu này. Việt Nam cần tích cực hơn nữa trong phối hợp và tham gia cùng cộng đồng quốc tế giải quyết các vấn đề toàn cầu và khu vực (như nghèo đói, xung đột vũ trang, ô nhiễm môi trường…). Bên cạnh đó, cần chú trọng huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn hỗ trợ quốc tế cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển, tăng trưởng bền vững, toàn diện, liên tục vì một Việt Nam giàu mạnh, trường tồn.

KẾT LUẬN

Lấy con người làm trung tâm trong thực hiện phát triển bền vững, bảo đảm tăng trưởng kinh tế lâu dài, toàn diện, liên tục là quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới. Vị trí, vai trò trung tâm của con người trong quá trình này thể hiện ở việc người dân là chủ thể tham gia (dưới nhiều phương thức), chủ thể đóng góp/tổ chức thực hiện và là đối tượng thụ hưởng bình đẳng mọi thành quả của sự phát triển. Để có được những điều này, trong thời gian tới, bên cạnh thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp theo Nghị quyết 136/NQ-CP ngày 25/9/2020 về Phát triển bền vững, cần đẩy mạnh một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò trung tâm của con người trong tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, lâu dài; hoàn thiện thể chế; nâng cao ý thức, năng lực, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và các chủ thể liên quan; huy động mạnh mẽ, hiệu quả mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính của người dân; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.../.

PGS.TS. Lê Văn Trung

Phó Viện trưởng Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 45 (04/2024)

---

Tài liệu trích dẫn

(1)  https://repositorio.cepal.org/server/api/core/bitstreams/6321b2b2-71c3-4c88-b411-32dc215dac3b/content

(2) Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Thị Hải Bình, Phát triển kinh tế nhanh, bền vững và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Tạp chí Kinh tế Tài chính Việt Nam, số 3, 2018.

(3) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2023), Các văn kiện quốc tế, khu vực về quyền con người - Tuyển chọn, NXB Lý luận Chính trị, trang 53.

(4) Hà Quang Ngọc, Hà Quang Trường, Tăng cường sự tham gia của nhân dân trong hoạt động quản lý nhà nước, https://tcnn.vn/news/detail/4560/Tang_cuong_su_tham_gia_cua_nhan_dan_trong_hoat_dong_quan_ly_nha_nuocall.html; truy cập ngày 28/7/2024.

(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.10, tr.453.

(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.8, tr.247.

(7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.6, tr.232.

(8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.69.

(9) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.27-28.

(10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.51.

(11) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.64.

(12) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.10, tr.390.

(13) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.10, tr.593.

(14) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.27.

(15) Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.21-22.