Trong những thập kỷ gần đây, thế giới đã dành sự quan tâm đặc biệt đến các vấn đề có liên quan đến trẻ em. Cộng đồng nhân loại đã thiết lập một số cam kết mang tính toàn cầu nhằm đem lại cho trẻ em tương lai ngày càng tốt đẹp. Việc trẻ em tham gia hoạt động lao động như thế nào đã được cộng đồng quốc tế bàn luận nhằm thúc đẩy sự tham gia của trẻ và thực hiện đầy đủ những quyền của trẻ em. Lao động trẻ em không chỉ là vấn đề mang tính toàn cầu, mà còn là chủ đề được xem xét trong các thỏa thuận quốc tế về thương mại và hợp tác quốc tế. Bài viết nghiên cứu về hai Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về xóa bỏ lao động trẻ em, từ đó gợi mở một số nội dung cơ bản về vấn đề này cho Việt Nam hiện nay.
Ảnh minh họa. Nguồn: vov2.vn
1. Khái quát nội dung cơ bản trong hai Công ước của tổ chức Lao động thế giới về lao động trẻ em
Cho đến nay, mặc dù lao động trẻ em là vấn đề được quan tâm sâu sắc trên phạm vi toàn cầu, tuy nhiên ở nhiều quốc gia trên thế giới vẫn chưa có những hành động thỏa đáng nhằm giải quyết vấn đề này. Từ khi thành lập năm 1919 và trở thành cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc vào năm 1946 tới nay, ILO đã thông qua gần 200 công ước và gần 190 khuyến nghị bao quát 12 lĩnh vực lao động. Trong hệ thống các chuẩn mực quốc tế về lao động của ILO, bảo vệ trẻ em là một chủ đề được Tổ chức này quan tâm, thể hiện thông qua hai Công ước quan trọng làm cơ sở khuôn khổ cho các chương trình hành động ở cấp quốc tế và quốc gia về vấn đề lao động trẻ em.
a) Về Công ước số 138
Công ước số 138 của ILO (Công ước Về tuổi tối thiểu được đi làm việc) được thông qua ngày 26/6/1973, có hiệu lực từ 19/6/19761 (gọi tắt là Công ước 138).
Thứ nhất, nội dung Công ước 138 quy định về mức tuổi tối thiểu mà trẻ em được làm việc (lao động). Mục đích của quy định này nhằm phòng ngừa sự bóc lột lao động của trẻ em mà các quốc gia thành viên của Công ước phải tuân thủ. Theo Công ước này, các mức tuổi được khái quát trong bảng sau đây:
Thứ hai, về phạm vi tác động. Công ước này có phạm vi áp dụng tương đối rộng. Theo đó, Công ước tác động đến tất cả các khu vực kinh tế và các dạng nghề nghiệp, loại hình việc làm; kể cả công việc có hợp đồng hay không có hợp đồng; công việc được trả công hay không được trả công; công việc thực hiện tại gia đình hay ngoài môi trường xã hội,...
Tuy nhiên, Điều 6 Công ước 138 loại trừ các trường hợp sau: (1) Người dưới 18 tuổi lao động tại cơ sở giáo dục phổ thông, trường dạy nghề/ kỹ thuật hay các trường lớp đào tạo nghề; (2) Người từ 14 tuổi trở lên lao động trong cơ sở tuân thủ điều kiện do cơ quan có thẩm quyền quy định và là một bộ phận không tách rời của: (a) một chương trình giáo dục/ đào tạo nghề của nhà trường hay một trường lớp đào tạo nghề; (b) một chương trình đạo tạo nghề được tiến hành chủ yếu (hoặc toàn bộ) trong phạm vi một cơ sở và đã được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận; (c) một chương trình hướng nghiệp với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho việc lựa chọn nghề nghiệp/ lựa chọn hướng đào tạo nghề cụ thể.
Bên cạnh đó, Điều 7 Công ước 138 quy định các quốc gia thành viên có thể cho phép sử dụng lao động của người từ 13 đến 15 tuổi (đối với các quốc gia đang phát triển thì mức tuổi này có thể từ 12 đến 14 tuổi) với công việc nhẹ nhàng hoặc công việc mà: (1) không có khả năng ảnh hưởng đến sức khỏe hoặc sự phát triển của họ; (2) phương hại đến việc học tập, việc tham gia vào những chương trình hướng nghiệp hay đào tạo nghề đã được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận, hoặc phương hại khả năng giáo dục mà họ đã nhận được.
Thứ ba, về ngoại lệ liên quan đến độ tuổi trong Điều 8 Công ước 138, quy định các quốc gia thành viên, sau khi đã tham khảo ý kiến các tổ chức của người sử dụng lao động và của người lao động, có thể cấp phép cho trẻ em dưới những độ tuổi nêu trên được tham gia các hoạt động như biểu diễn nghệ thuật. Đối với các trường hợp này, việc cấp giấy phép phải giới hạn, đồng thời có quy định về điều kiện sử dụng hoặc lao động đã được cho phép.
Thứ tư, Điều 9 Công ước 138 yêu cầu quốc gia thành viên phải áp dụng các biện pháp cần thiết, kể cả chế tài thích đáng để bảo đảm việc thi hành hữu hiệu những quy định của Công ước này, bao gồm: (i) việc xác định chủ thể có trách nhiệm phải tuân thủ những quy định của Công ước; (ii) nghĩa vụ của người lao động phải lập và xuất trình sổ đăng ký hoặc tài liệu khác ghi rõ tên, tuổi hoặc ngày sinh của người dưới 18 tuổi mà mình sử dụng hoặc đang làm việc cho mình.
b) Về Công ước số 182
Công ước số 182 của ILO (Công ước Nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất) thông qua ngày 17/6/1999, có hiệu lực từ 19/11/20002.
Thứ nhất, “những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất” đã được Điều 3 Công ước chỉ ra như sau: (a) tất cả các hình thức nô lệ/ tương tự nô lệ như buôn bán và vận chuyển trẻ em, gán nợ và lao động nô lệ và lao động cưỡng bức, thậm chí cả việc tuyển mộ cưỡng bức trẻ em tham gia vào các xung đột vũ trang; (b) sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em vào hoạt động mại dâm, sản xuất các sản phẩm phim ảnh khiêu dâm hoặc biểu diễn khiêu dâm; (c) sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em vào các hoạt động bất hợp pháp, đặc biệt vào mục đích sản xuất và vận chuyển chất ma tuý như được nêu tại các hiệp định quốc tế; (d) những công việc mà tính chất hoặc các điều kiện của nó có thể xâm hại đến sức khoẻ, an toàn và đạo đức của trẻ3. Cụ thể nội dung Điều 3 Công ước 182 như sau:
Một là, từ “như” trong nhóm (a) theo Điều 3 của Công ước hàm ý những hình thức đã được liệt kê chưa bao hàm hết phạm vi của khái niệm “các hình thức tương tự như nô lệ”. Cùng với quy định tại Điều 3 Công ước, có một số văn kiện pháp lý quốc tế được Liên hợp quốc, ILO đã làm rõ hơn nội dung về xóa bỏ chế độ nô lệ/ tương tự như nô lệ như: Công ước số 29 (năm 1930), Công ước số 105 (năm 1957) về cưỡng bức lao động; Công ước về chế độ nô lệ và Nghị định thư sửa đổi (năm 1953); Công ước bổ sung về xóa bỏ chế độ nô lệ, buôn bán nô lệ và các thể chế, tập tục tương tự như chế độ nô lệ (năm 1956); Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước về quyền trẻ em về sử dụng trẻ em trong xung đột vũ trang (năm 2001)...
Hai là, các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất theo quy định tại nhóm (b) và nhóm (c) (Điều 3 Công ước) đã được thể hiện đồng thời trong một số văn kiện pháp lý quốc tế với nội dung về buôn bán người vào mục đích mại dâm và sản xuất văn hoá phẩm khiêu dâm, chống tội phạm xuyên quốc gia như: Công ước về trấn áp việc buôn người và bóc lột mại dâm người khác (năm 1949); Nghị định thư (không bắt buộc) bổ sung Công ước về quyền trẻ em về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em (năm 2001); Công ước về chống tội phạm có tổ chức liên quốc gia và Nghị định thư (năm 2000),...
Ba là, về công việc được nêu tại điểm (c) Điều 3, sẽ do quốc gia thành viên xác định dựa trên: (1) sự tham vấn của tổ chức người lao động và người sử dụng lao động; (2) tham chiếu quy định ở đoạn 3,4 trong Khuyến nghị số 190 của ILO.
Nội dung đoạn 3 Khuyến nghị số 190 chỉ ra rằng, khi xác định những công việc đã đề cập tại Điều 3, diểm d Công ước số 182 và nơi tồn tại các công việc đó, trừ những vấn đề khác, phải xem xét các yếu tố: (i) Công việc đó có khiến trẻ em lâm vào tình trạng dễ bị lạm dụng về thể chất, tâm lý hoặc tình dục hay không; (ii) Công việc đó được tiến hành dưới mặt đất, dưới nước, ở độ cao nguy hiểm hay trong không gian tù hãm; (iii) Công việc sử dụng các loại máy móc, thiết bị/ dụng cụ nguy hiểm hoặc liên quan đến điều khiển thủ công hay vận chuyển hàng hoá nặng; (iv) Công việc trong môi trường có hại cho sức khỏe (phải tiếp xúc trực tiếp với chất, hoá chất và quy trình độc hại hay nhiệt độ, các mức độ tiếng ồn/ độ rung ảnh hưởng đến sức khoẻ của trẻ em); (v) Công việc trong điều kiện đặc biệt khó khăn (làm việc nhiều giờ liền, làm việc ban đêm hoặc công việc khiến trẻ em bị giam hãm một cách vô lý trong cơ sở của người sử dụng lao động).
Thứ hai, xác định nghĩa vụ của quốc gia thành viên trong việc áp dụng biện pháp cấp bách nhằm nghiêm cấm và xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất tại Điều 1 Công ước này. Các yêu cầu mang tính nguyên tắc với các quốc gia thành viên được chỉ ra gồm: (i) Xây dựng cơ chế quốc gia giám sát thực hiện Công ước (Điều 5); (ii) Xây dựng, thực hiện chương trình hành động quốc gia để xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (Điều 6); (iii) Tổ chức thực hiện các biện pháp hữu hiệu với thời gian xác định nhằm ngăn ngừa lao động trẻ em và bảo vệ trẻ em lao động (điểm 2, Điều 7); (iv) Thực thi tất cả các biện pháp cần thiết (kể cả chế tài thích hợp) để bảo đảm Công ước được thực hiện có hiệu quả (điểm 1, Điều 7); (v) Tổ chức bộ máy, trong đó xác định chủ thể chuyên trách thực hiện Công ước (điểm 3, điều 7); (vi) Thực thi biện pháp hỗ trợ và hợp tác quốc tế thích hợp (Điều 8).
Thứ ba, để các quốc gia thực hiện hiệu quả Công ước số 182, Khuyến nghị số 190 (tại các điểm 10,12,13,14,15) đã nêu ra các biện pháp cần thiết cơ bản: (1) Đưa vào hệ thống pháp luật hình sự đối với hành vi sử dụng trẻ em làm công việc thuộc các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; (2) Hệ thống pháp luật phải quy định tức khắc các biện pháp xử lý (hành chính, dân sự) đối với những tổ chức kinh tế đã sử dụng trẻ em làm công việc thuộc các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; (3) Xác định nguyên tắc, bất cứ ai vi phạm quy định pháp luật quốc gia về nghiêm cấm và xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất đều bị xử lý, kể cả xử lý về hình sự; (4) Tiến hành song song các biện pháp tổ chức, kinh tế, xã hội khác như: Nâng cao nhận thức cho các chủ thể bằng các phương thức phù hợp; Thúc đẩy các cá nhân, tổ chức tham gia bảo vệ quyền của trẻ em; Nâng cao năng lực cho các chủ thể có trách nhiệm trong ngăn ngừa và xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; Cải cách thủ tục pháp lý trong việc xử lý những vi phạm pháp luật về lao động trẻ em; Hỗ trợ các bậc cha mẹ và gia đình không sử dụng trẻ em vào các hoạt động kinh tế, v.v..
2. Một số gợi mở đối với Việt Nam
Từ khi tham gia Công ước số 138 (ngày 24/6/2023) và Công ước số 182 (ngày 19/12/2000), Việt Nam đã nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tuổi lao động tối thiểu và xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục pháp luật về các vấn đề này thông qua các chương trình ở cấp độ quốc gia; tăng cường quản lý nhà nước và thanh tra lao động đối với vấn đề lao động trẻ em; lồng ghép mối quan tâm về lao động trẻ em vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh xoá bỏ lao động trẻ em... Biểu hiện nổi bật trong thời gian qua là:
Thứ nhất, đã chuyển hóa một số quy định của Công ước số 138 và Công ước số 182 vào hệ thống pháp luật. Nguyên tắc cốt lõi đã được Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Lao động năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) khẳng định: Nhà nước, gia đình và xã hội có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Nghiêm cấm các hành vi xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em; Mọi hành vi vi phạm pháp luật về trẻ em đều bị xử lý nghiêm minh.
Ở Việt Nam, người dưới 16 tuổi là trẻ em, quy định này đã được thể hiện tại Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016. Đồng thời, liên quan đến vấn đề lao động trẻ em, Luật này quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bóc lột sức lao động; không phải lao động trước tuổi, quá thời gian hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định của pháp luật; không bị bố trí công việc hoặc nơi làm việc có ảnh hưởng xấu đến nhân cách và sự phát triển toàn diện của trẻ em4. Hành động lạm dụng, bóc lột trẻ em bị Luật này nghiêm cấm5. Bên cạnh đó, Luật này còn quy định một loạt quyền khác của trẻ em và những hành vi nghiêm cấm có tác dụng bảo vệ trẻ em khỏi bị bóc lột sức lao động, đặc biệt là các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất và xác lập cơ chế quốc gia bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em mà đồng thời có chức năng phòng, chống lao động trẻ em và bảo vệ, giúp đỡ trẻ em lao động.
Ở Việt Nam, quy định về các công việc và nơi làm việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi) đã được chỉ ra trong Thông tư số 10/2013/QĐ-BLĐTBXH. Bên cạnh đó, Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH cũng đã xác định các công việc nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi làm việc áp dụng đối với tất cả các chủ thể có sử dụng lao động, không phân biệt là cá nhân hay cơ quan, tổ chức,...
Thứ hai, ngăn ngừa và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về lao động trẻ em. Việc ngăn ngừa và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về lao động trẻ em được thực hiện chủ yếu thông qua hai loại chế tài: hành chính và hình sự. Hành vi vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự đã được quy định trong Điều 296 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đồng thời cũng quy định một số tội danh khác có liên quan đến các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (Điều 297,...).
Thứ ba, bên cạnh các chế tài hành chính và hình sự nêu trên, Việt Nam cũng đã xây dựng và thực hiện nhiều chương trình xã hội có tác dụng trực tiếp hoặc gián tiếp phòng ngừa lao động trẻ em, trong đó tiêu biểu là Chương trình Hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam (các giai đoạn 1991-2000, 2001-2010, 2011-2015, 2012-2020); Chương trình Hành động quốc gia về bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (các giai đoạn 1999 -2002, 2011-2015, 2016-2020); Chương trình Quốc gia ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm (các giai đoạn 2004-2010, 2011-2015); Chương trình phòng ngừa trẻ em đường phố, lạm dụng tình dục trẻ em và trẻ em làm việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010; Chương trình Hành động quốc gia phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em giai đoạn 2004-2010; Chương trình Hành động quốc gia phòng chống tội phạm mua bán người (các giai đoạn 2011-2015, 2016-2020); Chiến lược Phát triển giáo dục (các giai đoạn 2001 2010, 2016-2020). Song song với các chương trình nêu trên, Chương trình hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm, Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo… đã được thực hiện thời gian qua với mục đích hỗ trợ trực tiếp cho công tác phòng, chống lao động trẻ em.
Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em giai đoạn 2016-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 20166. Mục tiêu của Chương trình này đã xác định tính hiệu quả của công tác phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em; tất cả trẻ em có nguy cơ và trẻ em lao động trái với pháp luật đều được phát hiện, can thiệp và có biện pháp hỗ trợ kịp thời nhằm hòa nhập cộng đồng và cơ hội phát triển cho đối tượng.
Từ những vấn đề nêu trên, một số gợi mở cho Việt Nam trong việc bảo đảm thực hiện hiệu quả Công ước số 138 và Công ước số 182 của ILO, như sau:
Một là, hoàn thiện chính sách, pháp luật, cơ chế về phòng ngừa lao động trẻ em, tiến tới làm hài hòa các quy định pháp luật với Công ước số 138 và Công ước số 182. Nội dung của các cơ chế, chính sách và pháp luật cần đặc biệt chú trọng ngăn ngừa và xoá bỏ lao động trẻ em ở khu vực nông thôn, khu vực phi kết cấu và kinh tế hộ gia đình; đồng thời làm rõ sự khác biệt và chính sách, pháp luật liên quan đến lao động trẻ em, trẻ em tham gia hoạt động kinh tế. Hệ thống pháp luật đảm bảo có chế tài (hành chính và hình sự) làm cơ sở xử lý nghiêm hành vi sử dụng lao động trẻ em, đặc biệt là vi phạm những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
Hai là, hệ thống quốc gia quan tâm và thực hiện việc xây dựng cơ chế giám sát có chất lượng tình trạng lao động trẻ em. Hệ thống này phải bao gồm cả công cụ thống kê, phương tiện theo dõi được tình trạng và cả các vụ việc lao động trẻ em ở các khu vực khác nhau (khu vực kinh tế chính thức, không chính thức và khu vực nông thôn). Thanh tra lao động phải được củng cố, tăng cường và mở rộng diện bao phủ để có thể tiếp cận với các vụ việc vi phạm và trở thành một bộ phận không thể thiếu trong các hành động ngăn ngừa và phòng chống lao động trẻ em. Mạng lưới thực thi chức năng kiểm tra trẻ em tham gia hoạt động kinh tế cần được mở rộng và kịp thời phát hiện trẻ em đang làm các công việc có nguy cơ thuộc nhóm cấm sử dụng lao động trẻ em hoặc có điều kiện lao động ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ em. Hệ thống pháp luật phải đảm bảo có sự đa dạng các biện pháp xử lý (hành chính, dân sự, hay hình sự) đối với các vi phạm về lao động trẻ em. Có cơ chế và tiến hành hiệu quả việc giám sát đặc biệt đối với chủ thể đã sử dụng trẻ em vào những hình thức lao động tồi tệ nhất.
Ba là, để có thể phòng ngừa và thực hiện hiệu quả pháp luật về lao động trẻ em, một trong những biện pháp xã hội quan trọng đó là củng cố hệ thống giáo dục quốc dân; trong đó chú trọng giáo dục tiểu học, trung học cơ sở trên phạm vi quốc gia, có tính đến tính đặc thù của các khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hệ thống quốc gia quan tâm và xác định được các mục tiêu về giáo dục, trong đó có các mục tiêu cơ bản như: tăng tỷ lệ trẻ em đến trường, giảm cả tương đối và tuyệt đối tỷ lệ trẻ em bỏ học sớm có liên quan đến nguyên nhân tham gia hoạt động kinh tế. Trong xây dựng chính sách phải quan tâm và lồng ghép có hiệu quả trong việc giải quyết vấn đề lao động trẻ em với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội tạo điều kiện thúc đẩy xóa bỏ lao động trẻ em trên diện rộng. Có biện pháp phát huy hiệu quả vai trò của gia đình trong phòng ngừa và xoá bỏ lao động trẻ em thông qua các biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp.
Bốn là, để thực hiện được các yêu cầu của Công ước số 138 và Công ước số 182 về xóa bỏ lao động trẻ em, đặc biệt là các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, cần xây dựng và thực thi có hiệu quả hệ thống bảo vệ trẻ em ở các cấp độ khác nhau từ phòng ngừa, can thiệp đến hỗ trợ giải quyết đặc biệt đối với trẻ em làm việc trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, trẻ em thành thị, trẻ em dưới 11 tuổi. Đồng thời, mối liên kết giữa các bên: trẻ em, gia đình, nhà trường, cán bộ làm công tác xã hội phải được quan tâm và tăng cường.
Năm là, công tác truyền thông, giáo dục mở, vận động xã hội về phòng, chống sử dụng lao động trẻ em phải được coi là biện pháp quan trọng hỗ trợ cho các biện pháp kinh tế, pháp lý. Bên cạnh đó, tiến hành song song một số biện pháp khác để xoá bỏ lao động trẻ em như: Cải cách thủ tục pháp lý trong việc xử lý vi phạm pháp luật về lao động trẻ em; Truyền thông, vận động các chủ thể sử dụng lao động về ý thức, trách nhiệm trong việc sử dụng lao động là trẻ em; Xây dựng cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo và bảo vệ nhân chứng, nạn nhân trong các vụ, việc về/có liên quan đến lao động trẻ em,...
Tóm lại, xóa bỏ lao động trẻ em là công việc vô cùng khó khăn, lâu dài đòi hỏi phải có các chương trình với những biện pháp đồng bộ như nâng cao, cải thiện đời sống kinh tế - xã hội, tạo cơ hội có công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe, trước hết tập trung xóa bỏ lao động bóc lột và độc hại, tập trung ưu tiên những em ít tuổi và dễ bị tổn thương nhất, những em đang phải làm các công việc độc hại nhất. Mỗi quốc gia cần có những chính sách và chiến lược phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện riêng của mình, đặt quyền lợi của trẻ em lên hàng đầu. Trong vài thập kỷ qua, Việt Nam bên cạnh việc ban hành nhiều văn bản luật pháp, chính sách dành cho trẻ em đã tham gia một số điều ước quốc tế có tính chất ràng buộc pháp lý nhằm đảm các quyền trẻ em và giảm thiểu tiến tới xóa bỏ lao động trẻ em./
TS. Vũ Thị Thu Quyên
Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 44 (02/2024)
---
Tài liệu trích dẫn
(1) Toàn văn tiếng Anh của Công ước này xem tại địa chỉ sau: http://www.ilo.org/dyn/normlex/en/f?p=NORM LEXPUB:12100:0::NO::P12100_ILO_CODE:C138
(2) Toàn văn tiếng Anh của Công ước này xem tại địa chỉ sau: http://www.ilo.org/public/english/standards/ relm/ilc/ilc87/com-chic.htm
(3) Xem: Điều 3 Công ước số 182 bằng tiếng Anh theo địa chỉ: http://www.ilo.org/public/english/standards/ relm/ilc/ilc87/com-chic.htm
(4);(5) Xem: Điều 26 Luật Trẻ em năm 2016.
(6) Chương trình ban hành kèm theo Quyết định số 1023/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 07/6/2016