Sự tham gia của cán bộ nữ vào các cấp ủy Đảng có ý nghĩa quan trọng, là yếu tố then chốt thúc đẩy công tác cán bộ nữ theo hướng có tính trách nhiệm giới, góp phần nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội. Bài viết tập trung tìm hiểu, phân tích chính sách của Đảng và kết quả sự tham gia cấp ủy của cán bộ nữ ở phạm vi toàn quốc. Đồng thời, tìm hiểu kinh nghiệm triển khai công tác cán bộ nữ và những khó khăn trong việc nâng cao tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy ở một số địa phương, cụ thể là bốn tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Thừa Thiên Huế (nay là Thành phố Huế) và Lâm Đồng. Trên cơ sở đó đưa ra một số đề xuất mang ý nghĩa chính sách và thực tiễn tăng cường sự tham gia cấp ủy của cán bộ nữ hướng tới đại hội lần thứ XIV của Đảng.
Bí thư Đảng ủy xã Yên Phú (Hàm Yên) Đỗ Thị Thu Hiền thăm hỏi đời sống Nhân dân. (Nguồn: tuyenquang.gov.vn)
1. Đặt vấn đề
Bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị nói riêng giữ vai trò quan trọng trong thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Việc tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị sẽ bảo đảm tính đại diện của cả hai giới trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, đồng thời đáp ứng nhu cầu và lợi ích của mỗi giới. Hơn nữa, sự tham gia bình đẳng của cả nam và nữ trong chính trị sẽ giúp tối ưu hóa việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực cho sự phát triển bền vững.
Việc tăng cường vai trò của phụ nữ trong chính trị, đặc biệt là sự tham gia của cán bộ nữ vào các cấp ủy có ý nghĩa quan trọng, bởi Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và cấp ủy là cơ quan điều hành của Đảng trong công việc này. Sự tham gia của các cán bộ nữ vào cấp ủy sẽ là yếu tố then chốt thúc đẩy công tác cán bộ theo hướng có tính trách nhiệm giới, qua đó góp phần nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội.
Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề nâng cao sự tham gia của phụ nữ trong chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo. Nghị quyết 11-NQ/TƯ (2007) của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) là một ví dụ điển hình. Bên cạnh đó, các nghị quyết và chỉ thị khác cũng được ban hành nhằm hướng đến mục tiêu này. Trước mỗi kỳ Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương đều có những hướng dẫn cụ thể để đảm bảo cơ cấu cán bộ nữ trong thành phần cấp ủy. Nhờ sự quan tâm và chỉ đạo sát sao từ các cấp ủy Đảng, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy đã tăng lên trong những năm qua, đặc biệt là ở cấp địa phương (tỉnh, huyện, xã). Ví dụ, “tỷ lệ cán bộ nữ tham gia tỉnh ủy nhiệm kỳ 2015-2020 là 11,4%, nhiệm kỳ 2020-2025 là 13,3% (đầu nhiệm kỳ) và hiện nay là 16%. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp huyện ủy tương ứng là: 15,0%; 17,3% và 20,1%. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia Ban Thường vụ cấp ủy cũng tăng lên, mặc dù không mạnh: Cấp tỉnh: từ 7,85% nhiệm kỳ 2015-2020 đến 10,75% nhiệm kỳ 2020-2025; Cấp huyện: từ 12,0% đến 13,2 %”1.
Tuy nhiên, so với những yêu cầu đặt ra từ Nghị quyết số 11-NQ/TW về công tác cán bộ nữ của Bộ Chính trị thì chỉ tiêu 25% cán bộ nữ tham gia cấp ủy vào năm 2020 không đạt được. Trong bối cảnh đó, việc tập trung nghiên cứu vấn đề tham gia của cán bộ nữ vào cấp ủy tại một số địa phương có tỷ lệ cao và thấp để rút ra bài học kinh nghiệm chung là rất cần thiết. Cần phân tích những hoạt động của các cấp ủy địa phương triển khai công tác cán bộ nữ, nhận diện được các yếu tố đang làm hạn chế sự tham gia của cán bộ nữ vào cấp ủy, từ các chiều cạnh thể chế, văn hóa, và đặc điểm cá nhân cán bộ nữ, từ đó cung cấp luận cứ đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tỷ lệ tham gia của cán bộ nữ vào cấp ủy các cấp ở nhiệm kỳ tới.
Trong năm 2024, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Hội Xã hội học Việt Nam, Đại sứ quán Ai Len, Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, đã tiến hành khảo sát về chủ đề này tại bốn tỉnh: Bình Dương và Bình Phước là tỉnh có tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy cao và Thừa Thiên Huế (nay là thành phố Huế trực thuộc Trung ương, trong bài viết này vẫn sử dụng tên tỉnh trong thời gian khảo sát là Thừa Thiên Huế) và Lâm Đồng là tỉnh có tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy thấp. Nhiều phương pháp thu thập thông tin đã được thực hiện: tổng quan các nghiên cứu trước có liên quan; phân tích các văn bản chỉ đạo của Đảng; tọa đàm, hội thảo trực tiếp với các cấp ủy tỉnh, huyện, xã; khảo sát trực tiếp tại các địa bàn với 3.050 đảng viên2.
Kết quả nghiên cứu tại bốn tỉnh đã cung cấp nhiều bài học kinh nghiệm quý về các giải pháp nâng cao tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy. Ngoài việc khảo sát trực tiếp ở bốn tỉnh, đoàn nghiên cứu cũng đã phân tích những vấn đề chung về sự tham gia của cán bộ nữ vào cấp ủy từ các nghiên cứu trước đây.
2. Chính sách của Đảng và kết quả sự tham gia cấp ủy của cán bộ nữ ở phạm vi toàn quốc
Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác cán bộ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được thể hiện rõ ở Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 27/4/2007, trong đó nhấn mạnh: “Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng”. Nghị quyết 11/NQ-TW xác định một số nội dung định hướng quan trọng đối với công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ nữ: “Xây dựng quy hoạch cán bộ nữ trong quy hoạch tổng thể về cán bộ của Đảng ở từng cấp, từng ngành, từng địa phương; Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ để chủ động về nhân sự; Thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, đề bạt và bổ nhiệm. Chỉ tiêu phát triển đội ngũ cán bộ nữ đến năm 2020, trong đó tỷ lệ tham gia cấp uỷ Đảng đạt từ 25% trở lên”.
Sau Nghị quyết 11/NQ-TW, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo nhằm cụ thể hóa các mục tiêu về sự tham gia của cán bộ nữ trong cấp ủy. Chẳng hạn, Kết luận số 55-KL/TW của Ban Bí thư ngày 18/01/2013 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TW nhấn mạnh việc tăng cường kiểm tra, giám sát nhằm tạo điều kiện phát triển cho phụ nữ, đồng thời khẳng định mục tiêu đến năm 2020, tỷ lệ cán bộ nữ trong cấp ủy các cấp đạt từ 25% trở lên. Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20/1/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới nhấn mạnh trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc chỉ đạo và triển khai đồng bộ các giải pháp để đạt được các chỉ tiêu về cán bộ nữ theo Nghị quyết 11-NQ/TW. Nghị quyết số 26-NQ/TW khóa XII ngày 19/5/2018 tiếp tục khẳng định yêu cầu có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp, với tỷ lệ nữ cấp ủy viên đạt từ 20-25%. Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh trách nhiệm của cấp ủy các cấp, đặc biệt là người đứng đầu, trong việc chủ động rà soát, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ nữ vào các vị trí có cơ cấu tham gia cấp ủy khóa mới, với mục tiêu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ. Ban thường vụ cấp ủy cấp dưới báo cáo ban thường vụ cấp ủy cấp trên trực tiếp về phương án nhân sự cấp ủy, khi được cấp trên đồng ý mới tiến hành đại hội. Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 14/6/2024 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng tiếp tục duy trì mục tiêu tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ, đồng thời giữ nguyên quy định về độ tuổi tái cử và lần đầu tham gia cấp ủy như các khóa trước.
Như vậy, trong thời gian qua, Đảng đã ban hành khá nhiều văn bản chỉ đạo về việc tăng cường đội ngũ cán bộ nữ nói chung và sự tham gia của cán bộ nữ vào cấp ủy nói riêng. Tuy nhiên, các chỉ tiêu được đề ra chủ yếu mang tính định hướng, với mức độ ràng buộc chưa thực sự chặt chẽ. Hơn nữa, trên cơ sở đánh giá thực tiễn, có thể nhận thấy các chỉ tiêu về tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy đã được điều chỉnh xuống thấp hơn so với mục tiêu ban đầu được xác định trong Nghị quyết 11/NQ-TƯ.
“Một số chính sách liên quan đến công tác cán bộ chưa tạo thuận lợi cho nữ giới trong tiếp cận các cơ hội học tập nâng cao trình độ. Ví dụ: trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ nữ về chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, hình thức tổ chức học tập trung ở độ tuổi trẻ tạo ra những rào cản nhất định đối với cán bộ nữ. Theo Quy định số: 57-QĐ/TW, ngày 08/02/2022, đối tượng cán bộ học không tập trung đối với hệ Trung cấp lý luận là nữ từ 33 tuổi và nam từ 35 tuổi; hệ Cao cấp lý luận là nữ từ 38 tuổi và nam từ 40 tuổi. Sự chênh lệch này thoạt nhìn là sự tạo điều kiện cho nữ giới, nhưng độ tuổi dưới 33 và 38 thường là độ tuổi thai sản, nuôi con nhỏ làm hạn chế khả năng tham gia học tập trung của cán bộ, công chức nữ”3. Nhiều cán bộ nữ ở các địa phương đã xin lùi thời gian học chính trị tập trung để chăm sóc con nhỏ, do đó bỏ lỡ cơ hội đào tạo và thiếu tiêu chuẩn lý luận chính trị để được bổ nhiệm.
Hệ thống quy định về quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện hành còn thiếu cơ chế và lộ trình dài hạn nhằm đảm bảo tỷ lệ cán bộ nữ được quy hoạch vào các chức danh. Ví dụ, vẫn còn khoảng cách giữa quy định và việc thực hiện công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ. Độ tuổi quy hoạch và bổ nhiệm vẫn được quy định căn cứ vào tuổi nghỉ hưu (đến năm 2035 phụ nữ mới chính thức được nghỉ hưu ở tuổi 60), vì vậy trong thời gian trước mắt, một bộ phận cán bộ nữ sẽ bị thiệt thòi trong vấn đề quy hoạch vì độ tuổi nghỉ hưu sớm hơn so với nam giới. Chỉ thị 35-CT/TW cũng bổ sung quy định về thời gian giữ chức vụ đối với cán bộ được giới thiệu ứng cử chức vụ cao hơn, theo đó cán bộ được giới thiệu để bầu tham gia cấp ủy, các chức danh lãnh đạo cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị – xã hội (chức vụ cao hơn), nhìn chung phải có thời gian giữ chức vụ đang đảm nhiệm hoặc chức vụ tương đương ít nhất là 2 năm (24 tháng); trường hợp đặc biệt có thời gian giữ chức vụ ít nhất là 1 năm (12 tháng), do cấp ủy có thẩm quyền bổ nhiệm cán bộ xem xét, quyết định. Trong điều kiện tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy hiện còn thấp, quy định này sẽ gây những khó khăn nhất định cho việc bổ nhiệm cán bộ nữ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có mối liên hệ mật thiết với việc đảm bảo nguồn quy hoạch. Mặc dù Nghị quyết 11-NQ/TƯ năm 2007 đã quy định tỷ lệ nữ tham gia các khóa đào tạo tại các trường lý luận chính trị và quản lý nhà nước phải đạt từ 30% trở lên, song Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TƯ cho thấy tỷ lệ này chưa đạt được trên thực tế.
Cán bộ nữ cũng còn gặp khó khăn trong vấn đề luân chuyển. Quy định 65-QĐ/TW năm 2022 về luân chuyển cán bộ nhấn mạnh đến thời gian công tác: “Có đủ sức khoẻ và còn thời gian công tác ít nhất 10 năm công tác tính từ thời điểm luân chuyển. Trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định”. Như vậy, với những khác biệt về tuổi về hưu hiện nay, việc luân chuyển cán bộ nữ trong một số năm trước mắt cũng sẽ gặp trở ngại. Đội ngũ cán bộ nữ từ 45 tuổi trở lên có khả năng đóng góp lớn do đã tích lũy được nhiều kiến thức và kỹ năng công việc, đồng thời các công việc chăm sóc gia đình đã đỡ hơn, nhưng sẽ gặp trở ngại trong vấn đề này. Một số chế độ chính sách cho cán bộ không chuyên trách còn nhiều hạn chế như không được hưởng chế độ thai sản, mức lương thấp so với thực tế bằng cấp, vì vậy nhiều người đã từ bỏ công việc trong thời gian qua. Trong khi đó, tại một số địa phương khảo sát, số lượng cán bộ nữ đảm nhận các chức danh không chuyên trách khá nhiều. Trong bối cảnh của cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy hiện nay, việc chuyển các cán bộ này thành công chức gặp nhiều khó khăn, vì vậy nguồn cán bộ nữ cho giai đoạn mới sẽ rất hạn chế.
“Một số văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách chưa được ban hành kịp thời để đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng thụ hưởng chính sách. Ví dụ, theo Nghị định số 48/2009/NĐ-CP, Chính phủ giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính và các Bộ, ngành khác có liên quan xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy định hỗ trợ nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới 36 tháng tuổi. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn của Bộ Nội vụ về tổ chức thực hiện. Do vậy, hầu hết các địa phương khi xây dựng quy định về chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức không đề cập đến nội dung trên”4. Việc hỗ trợ cho cán bộ nữ sẽ tùy thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội của địa phương. Với các địa phương nguồn lực có hạn, điều này gây ra những khó khăn trong công tác đào tạo, bồi dưỡng và suy giảm động lực học tập và cơ hội thăng tiến của cán bộ, công chức nữ.
Bên cạnh một số hạn chế trong việc triển khai thực hiện các chính sách của Đảng, nguồn lực kinh tế-xã hội chưa cao và định kiến giới còn tồn tại trong cán bộ và đảng viên đã gây ra những trở ngại không nhỏ đối với sự tham gia của cán bộ nữ vào cấp ủy. Sự tham gia tăng lên của cán bộ nữ vào cấp ủy trong mấy nhiệm kỳ gần đây chưa thật sự đáng kể và chưa ổn định. Tính chung, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy chưa đạt được theo yêu cầu của NQ 11/NQ-TƯ. Đồng thời, sự tham gia của cán bộ nữ vào cấp ủy có khác biệt giữa các địa phương. Dựa trên số liệu tổng hợp tính đến tháng 6 năm 2024 (xem Hình 1), khu vực Đông Nam Bộ ghi nhận tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy cao nhất, lần lượt là 31,8% ở cấp xã, 27,3% ở cấp huyện và 21,3% ở cấp tỉnh. Ngược lại, tỷ lệ này thấp nhất ở khu vực Miền núi và Trung du phía Bắc đối với cấp xã (22,9%), khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đối với cấp huyện (16,9%) và khu vực Tây Nguyên đối với cấp tỉnh (13,4%). Tại bốn địa phương khảo sát, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng cũng khác nhau. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy ở Bình Dương cao hơn đáng kể so với toàn quốc, với tỉnh Bình Phước thì điểm nổi bật là tỷ lệ nữ tỉnh ủy viên rất cao so với toàn quốc, trong khi đó tỷ lệ ở Thừa Thiên Huế và Lâm Đồng thấp hơn mức trung bình toàn quốc (xem Hình 2). Hiện nay, 04 cán bộ chủ chốt của tỉnh Bình Phước (Bí thư, Phó Bí thư thường trực và Chủ tịch HĐND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh) đều là nữ.
Hình 1: Tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy các cấp tỉnh, huyện và xã năm 2024
(số liệu tổng hợp của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tháng 6/2024)
Hình 2: Tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy các cấp tỉnh, huyện và xã năm 2024 của bốn tỉnh khảo sát
(số liệu tổng hợp của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tháng 6/2024)
3. Kinh nghiệm triển khai công tác cán bộ nữ tham gia cấp ủy ở một số địa phương
a) Các giải pháp cấp ủy địa phương đã triển khai
Kết quả khảo sát tại bốn tỉnh cho thấy cấp ủy, người đứng đầu các cấp ở bốn tỉnh đã quan tâm chỉ đạo đối với công tác cán bộ nữ thông qua việc ban hành kịp thời các nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động nhằm cụ thể hóa những quy định của Trung ương5. Nhiều quy định bổ sung linh hoạt ở địa phương đã được thực hiện, đặc biệt ở hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước. Tỉnh ủy, Ban Thường vụ tỉnh ủy bốn tỉnh luôn xác định việc tạo điều kiện cho cán bộ nữ tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý là trách nhiệm và công việc quan trọng, thường xuyên của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đơn vị, nhất là cơ sở để phát huy vai trò của phụ nữ trong hoạt động chính trị. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết được các cấp ủy đảng trong tỉnh quan tâm, thực hiện thường xuyên, gắn với sơ kết, tổng kết việc tổ chức triển khai thực hiện.
Công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ nữ đã được đưa vào chiến lược quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, gắn với xu hướng phát triển đội ngũ cán bộ nữ để quy hoạch, tạo nguồn bảo đảm tính kế thừa, liên tục. Quá trình triển khai thực hiện công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ được tổ chức thực hiện chặt chẽ, bảo đảm đúng quy trình, đúng tiêu chuẩn và phát huy dân chủ theo các văn bản hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương và Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác quy hoạch cán bộ. Các cấp ủy Đảng đã chủ động xây dựng kế hoạch, cơ chế chính sách cụ thể để đáp ứng tỷ lệ cán bộ nữ tham gia vào nguồn quy hoạch cấp ủy các cấp. Một số hoạt động cụ thể được cấp ủy ở các tỉnh thực hiện đó là:
Thứ nhất, các cấp ủy thường xuyên theo dõi, rà soát, phát hiện những nhân tố mới, có tiềm năng phát triển để giới thiệu với cấp ủy, chính quyền các cấp (chẳng hạn ở Bình Dương, Bình Phước); kết hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để nhận xét, đánh giá cán bộ nữ, đưa vào quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chí; giới thiệu, đề cử vào các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp. Lãnh đạo cấp ủy đã có sự quan tâm, tạo điều kiện, cơ hội cho cán bộ nữ thể hiện năng lực, tạo đột phá trong công tác cán bộ (chẳng hạn ở huyện Phú Riềng, Bình Phước). Điển hình như tại phường Thuận Lộc, thành phố Huế (tỉnh TTH), bí thư đảng ủy phường được cấp trên tin tưởng, ủng hộ đã rất nỗ lực làm việc, thể hiện mình và hoàn thành tốt công việc được giao, tạo điểm sáng trong công tác cán bộ nữ của thành phố và tỉnh.
Thứ hai, chủ động xây dựng kế hoạch từ công tác tuyển dụng cán bộ và phát triển đảng viên. Trong những năm gần đây, tỷ lệ đảng viên mới là nữ tăng lên rõ rệt. Chẳng hạn, ở tỉnh Bình Dương, giai đoạn 2020-2024 tỷ lệ nữ đảng viên mới được kết nạp là 46,1%; ở Bình Phước là 41,9%; ở Thừa Thiên Huế, chỉ tính từ 01/01/2024 đến tháng 11/2024 tỷ lệ đảng viên mới nữ là 57,4%; và ở Lâm Đồng, giai đoạn 2020-2024, tỷ lệ đảng viên mới nữ là 49,2%. Đây chính là nguồn quan trọng cho việc tham gia cấp ủy của cán bộ nữ trong giai đoạn tiếp theo.
Thứ ba, phát hiện và bồi dưỡng nguồn cán bộ, không chỉ đối với đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan đảng và quản lý nhà nước mà cả trong các đơn vị sự nghiệp. Chẳng hạn, cấp ủy Bình Phước đặc biệt chú trọng vào nguồn cán bộ nữ ở các cơ sở giáo dục, nơi mà tỷ lệ cán bộ nữ rất cao, có thể nói đây là lực lượng quan trọng bổ sung cho việc quy hoạch và bố trí cán bộ nữ tham gia cấp ủy.
Thứ tư, chuẩn bị số lượng cán bộ được quy hoạch cao hơn yêu cầu từ Trung ương để bảo đảm sàng lọc cán bộ thường xuyên và kịp thời, đặc biệt là ở cấp huyện và xã. Chẳng hạn, ở Bình Dương tỷ lệ quy hoạch cán bộ nữ tham gia cấp ủy 3 cấp đều cao hơn 25%, trong đó ở cấp xã là khoảng 48,6%. Ở Bình Phước, tỷ lệ quy hoạch ở cấp xã là 50%. Một kinh nghiệm tốt ở Bình Dương và Bình Phước là đặt ra mục tiêu “giữ khoảng trống vị trí dành cho cán bộ nữ”. Một số cấp ủy địa phương có những biện pháp chặt chẽ để bảo đảm tỷ lệ cao các cán bộ nữ được quy hoạch thành công, thông qua việc sắp xếp chức danh phù hợp cho cán bộ nữ (chẳng hạn ở Bình Dương).
Thứ năm, thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về công tác cán bộ thông qua kiểm tra thường xuyên việc thực hiện công tác cán bộ nữ và kiên quyết yêu cầu các cấp ủy phải tuân thủ quy định, bảo đảm đủ chỉ tiêu cán bộ nữ được quy hoạch (ví dụ ở Bình Dương, Bình Phước). Vấn đề này được thực hiện chặt chẽ hơn trong giai đoạn gần đây (ví dụ ở Lâm Đồng).
Thứ sáu, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ được thực hiện sớm, triển khai với nhiều hình thức cả đào tạo chuyên môn và lý luận chính trị, đảm bảo chất lượng về mọi mặt, và gắn rất chặt với công tác quy hoạch, bảo đảm khi có điều kiện thì có cán bộ nữ để bố trí kịp thời. Chẳng hạn, trong thời gian 2020-2024, tỷ lệ cán bộ nữ ở Bình Phước tham gia đào tạo lý luận chính trị cao cấp là 28,5%, trung cấp lý luận chính trị là 43,1%. Từ năm 2021 đến nay, tỷ lệ cán bộ nữ được đào tạo về lý luận chính trị ở Thừa Thiên Huế là 37,5%.
Thứ bảy, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của địa phương, các tỉnh đã có những chính sách hỗ trợ kịp thời cho cán bộ nữ trong việc tham gia đào tạo ngoài chính sách chung của Nhà nước. Ví dụ, ngoài chế độ chính sách hỗ trợ chung trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, khi đi học các lớp ở trong nước có thời gian từ 01 tháng trở lên cán bộ nữ ở Bình Dương được trợ cấp thêm 500.000đ/tháng; ở Bình Phước cán bộ nữ được trợ cấp thêm mỗi tháng 0,2 lần mức lương tối thiểu (nếu cán bộ nữ là người dân tộc thiểu số thì được trợ cấp 0,3 lần mức lương tối thiểu và cán bộ nữ đang trong thời kỳ nuôi con nhỏ dưới 3 tuổi thì được trợ cấp 0,5 lần mức lương tối thiểu); ở tỉnh Thừa Thiên Huế là 300.000 đồng/tháng và ở tỉnh Lâm Đồng là mỗi ngày 20.000đ.
Thứ tám, tỉnh ủy các tỉnh đều quan tâm tới công tác luân chuyển cán bộ nữ và coi đây là một trong những biện pháp rất có hiệu quả để thực hiện định hướng chung tăng cường sự tham gia của cán bộ nữ vào cấp ủy. Công tác luân chuyển cán bộ được thực hiện hợp lý về cơ cấu, đảm bảo về chất lượng và được tiến hành thường xuyên, gắn chặt với công tác tạo nguồn cán bộ, đào tạo và quy hoạch. Thông qua công tác luân chuyển cán bộ trong thời gian qua, một số cán bộ nữ đã được bố trí vào vị trí người đứng đầu đơn vị, địa phương. Chẳng hạn, vị trí bí thư huyện ủy Phú Riềng (Bình Phước), hay ở Lạc Dương và Đơn Dương (Lâm Đồng). Cán bộ nữ khi luân chuyển được lãnh đạo quan tâm cả về sắp xếp địa bàn luân chuyển và mức hỗ trợ. Chẳng hạn, đối với cán bộ nữ ở Lâm Đồng, khi được luân chuyển, ngoài mức hỗ trợ theo quy định chung thì mỗi tháng được hỗ trợ thêm 0,3 lần mức lương cơ sở.
Thứ chín, các cấp Hội phụ nữ đã phát huy được vai trò trong công tác phát triển đảng và tham mưu giới thiệu cán bộ nữ vào cấp ủy. Công tác truyền thông được đẩy mạnh với nhiều hình thức đã góp phần nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong cán bộ và nhân dân, mà trước hết là đối với đảng viên ở các địa phương. Một kinh nghiệm tốt của Bình Phước là các cán bộ nữ đã và đang làm công tác lãnh đạo, quản lý thường xuyên có những hoạt động giao lưu, hỗ trợ các cán bộ nữ trẻ kỹ năng để bảo đảm sự cân bằng giữa công việc gia đình và xã hội, đặc biệt là trong giai đoạn đầu.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ nữ ở các tỉnh luôn nỗ lực để vượt qua những khó khăn khi phải cân bằng công việc gia đình và xã hội. Nhiều cán bộ nữ đã thường xuyên rèn luyện bản lĩnh, nâng cao nhận thức về vai trò của phụ nữ trong tham gia vào lĩnh vực chính trị và thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Qua khảo sát trực tuyến, đa số đảng viên đánh giá cán bộ nữ tham gia cấp ủy đã thực hiện tốt hoặc rất tốt nhiệm vụ; về cơ bản cán bộ nữ tham gia cấp ủy có mức độ hoàn thành nhiệm vụ như cán bộ nam và mức độ đáp ứng tiêu chuẩn cấp ủy của nam và nữ cấp ủy viên tại nơi công tác cũng tương đương nhau.
Nhờ những nỗ lực của các cấp ủy và người đứng đầu đơn vị cũng như của các cán bộ nữ, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy các cấp ở các tỉnh được khảo sát đã tăng lên trong nhiệm kỳ vừa qua. Chẳng hạn, ở Bình Dương, tỷ lệ cấp ủy viên nữ ở cả 3 cấp đều vượt mức 15% theo yêu cầu của Trung ương, tỷ lệ tỉnh ủy viên là nữ tăng 7,7% so với nhiệm kỳ 2015-2020, tỷ lệ huyện ủy viên là nữ tăng 2,2%. Thừa Thiên Huế và Lâm Đồng tuy tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy chưa cao nhưng cũng đã tăng lên: tỷ lệ huyện ủy viên nữ nhiệm kỳ 2020-2025 ở Thừa Thiên Huế tăng 1,9% và ở Lâm Đồng tăng lên 3% so với nhiệm kỳ 2015-2020.
Kinh nghiệm ở Bình Dương, Bình Phước cho thấy mặc dù yếu tố nguồn lực kinh tế rất quan trọng nhưng không phải là yếu tố quyết định về tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy. Yếu tố quan trọng hơn cả đó là sự chủ động và kiên quyết của cấp ủy và người đứng đầu trong chỉ đạo cùng với những nỗ lực tự thân của cán bộ nữ. Chỉ khi có sự quan tâm quyết liệt, chặt chẽ của cấp ủy và người đứng đầu thì các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới mới có điều kiện thực hiện. Ví dụ, Bình Dương đã lập ra các Tổ Công tác cán bộ nữ để giúp trực tiếp cho cấp ủy chỉ đạo việc tăng cường vai trò của cán bộ nữ. Việc thực hiện biện pháp “giữ khoảng trống vị trí dành cho cán bộ nữ” trong công tác quy hoạch và bố trí cán bộ cũng là một kinh nghiệm tốt. Ngoài ra, các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới cũng đã được tỉnh ủy chủ động thực hiện thông qua các chính sách hỗ trợ phù hợp đối với các cán bộ nữ tham gia đào tạo; triển khai sớm những biện pháp lồng ghép giới trong công tác luân chuyển cán bộ; và kiên quyết thực hiện những quy định đã đề ra về công tác quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong đó có cán bộ nữ.
b) Khó khăn đối với việc nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ vào cấp ủy
Tuy đã có nhiều nỗ lực triển khai các quy định của Trung ương, công tác cán bộ nữ tham gia cấp ủy ở bốn địa phương tham gia khảo sát cũng còn gặp một số khó khăn. Ngoài những bất cập chung về quy định của Đảng như đã nêu ở trên, việc triển khai cụ thể công tác này gặp một số khó khăn ở các địa phương, cho dù mức độ biểu hiện ở từng nơi có khác nhau.
Một là, ở một số cấp ủy cơ sở, người đứng đầu chưa quyết liệt tìm tòi các biện pháp để tăng tỷ lệ cán bộ nữ trong cấp ủy. Một số cấp ủy vin vào lý do không có nguồn cán bộ nữ phù hợp với vị trí chủ chốt. Có 18,6% đảng viên ở Thừa Thiên Huế và Lâm Đồng tham gia khảo sát trực tuyến cho rằng cấp ủy và người đứng đầu chưa thực sự quan tâm tới công tác cán bộ nữ ở đơn vị, đặc biệt ở các đơn vị có tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy thấp. Ví dụ, có 22,2% đảng viên ở đơn vị có tỷ lệ nữ cấp ủy viên dưới 15% cho rằng cấp ủy ở đơn vị chưa quan tâm phát triển cán bộ nữ. Tỷ lệ đảng viên cho rằng ít được quan tâm đào tạo bồi dưỡng là khó khăn lớn khi tham gia cấp ủy là cao hơn ở nhóm 2 tỉnh có tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy thấp và cao hơn ở nữ đảng viên. Ngoài ra, ở một số đơn vị, công tác cán bộ nữ chưa có lộ trình, kế hoạch cụ thể, đặc biệt là đối với công tác tạo nguồn và đào tạo cán bộ nữ. Việc quy hoạch cán bộ nữ ở các đơn vị này còn hình thức, vì vậy trở thành “quy hoạch treo”, tỷ lệ quy hoạch cao nhưng tỷ lệ được bầu thấp. Một trong những nguyên nhân là chưa gắn kết chặt chẽ việc quy hoạch cấp ủy với vị trí chính quyền, vì vậy nhiều cán bộ nữ được quy hoạch nhưng có vị trí chính quyền không phù hợp thường không được bầu.
Hai là, định kiến giới vẫn còn tồn tại dưới nhiều hình thức ở một số đảng viên và cấp ủy viên, cả nam và nữ, đặc biệt trong một số đảng viên trẻ. Một số đảng viên vẫn cho rằng phụ nữ không thích hợp với công tác lãnh đạo và năng lực của cán bộ nữ kém hơn cán bộ nam. Chẳng hạn, có 18,5% đảng viên ở hai tỉnh Bình Dương, Bình Phước và 17,4% đảng viên ở hai tỉnh Thừa Thiên Huế và Lâm Đồng cho rằng “năng lực của phụ nữ hạn chế hơn nam giới”, tương ứng là 17,1% và 23% cho rằng “công việc lãnh đạo phù hợp với giới nam hơn”. Một số nam giới chưa tích cực ủng hộ sự tham gia của phụ nữ vào lĩnh vực chính trị. Nhiều đảng viên đã nhấn mạnh tới định kiến giới của cộng đồng khi nêu khó khăn trong quá trình tham gia cấp ủy. Cũng lưu ý rằng, một bộ phận không nhỏ cán bộ nữ cũng có định kiến về chính giới mình. Chẳng hạn, tỷ lệ đảng viên dự khảo sát trực tuyến cho rằng sự cần thiết phải có cán bộ nữ tham gia cấp ủy trong nhiệm kỳ tới hay cán bộ nữ có thể làm bí thư là chưa cao, và tỷ lệ này không có sự khác biệt đáng kể giữa nam và nữ. Một trong các lý do quan trọng giải thích cho việc cán bộ nữ chỉ có thể làm phó bí thư/cấp ủy viên là “nữ giới hạn chế hơn nam giới về tầm nhìn” và “nữ giới hạn chế hơn nam giới về năng lực lãnh đạo”, mà trong đó không có sự khác biệt lớn giữa đánh giá của nam và nữ đảng viên.
Ba là, thiếu sự ủng hộ của gia đình cũng là một nguyên nhân quan trọng hạn chế sự tham gia lãnh đạo của cán bộ nữ, và nguyên nhân này cũng liên quan tới yếu tố định kiến giới vừa nêu ở trên vì quan niệm phổ biến coi chăm lo công việc gia đình là trách nhiệm của phụ nữ. Nhiều cán bộ lý giải việc phải tập trung giải quyết công việc gia đình là lý do quan trọng khiến cán bộ nữ không sắp xếp được thời gian để tham gia các lớp đào tạo bồi dưỡng, từ đó không đạt các tiêu chuẩn cần thiết để được bổ nhiệm làm cán bộ lãnh đạo. Có 48% đảng viên ở Thừa Thiên Huế và Lâm Đồng nêu lý do cán bộ nữ chỉ có thể làm phó bí thư/cấp ủy viên là do “nữ giới phải chăm lo cho gia đình”. Nhiều đảng viên nữ nhấn mạnh đến khó khăn mất nhiều thời gian cho chăm sóc con cái và gia đình khi tham gia cấp ủy.
Bốn là, đánh giá của các cán bộ tham gia thảo luận ở các địa phương cũng cho thấy, lý do rất quan trọng khiến tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy còn thấp là một số cán bộ nữ chưa thật sự nỗ lực, còn tự ti, chưa có ý chí vươn lên. Khoảng 1/3 số đảng viên ở Thừa Thiên Huế và Lâm Đồng nêu nguyên nhân quan trọng nhất của tỷ lệ nữ cấp ủy viên ở đơn vị còn thấp là “do bản thân người phụ nữ chưa quyết tâm nỗ lực”.
Năm là, hệ thống số liệu về đội ngũ cán bộ chưa được cập nhật thường xuyên để tạo điều kiện cho lãnh đạo cấp ủy nắm vững nguồn cán bộ và bố trí cán bộ, trong đó có cán bộ nữ, kịp thời.
4. Một số đề xuất mang ý nghĩa chính sách và thực tiễn tăng cường sự tham gia cấp ủy của cán bộ nữ hướng tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng
a) Hoàn thiện các chính sách, quy định ở cấp Trung ương
(1) Cân nhắc nâng chỉ tiêu tỷ lệ nữ trong ứng cử viên cấp ủy các cấp và ban hành các quy định mang tính bắt buộc cao hơn đối với những chỉ tiêu về cán bộ nữ tham gia cấp ủy (không phải chỉ nêu “phấn đấu” hay “khuyến khích”).
(2) Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát và có hình thức xử lý đối với việc không thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác cán bộ nữ. Đối với các địa phương không thực hiện nghiêm túc các quy định của Trung ương về công tác cán bộ nữ thì cần có những hình thức đánh giá hiệu quả thực hiện và xử lý phù hợp.
(3) Việc thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới có ý nghĩa rất quan trọng trong vấn đề tham gia của cán bộ nữ vào cấp ủy nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực chất. Cân nhắc điều chỉnh các quy định liên quan đến công tác cán bộ nữ, tạo điều kiện để cán bộ nữ tham gia vào cấp ủy. Chẳng hạn, có chính sách linh hoạt đối với cán bộ nữ trẻ cũng như các cán bộ nữ từ 45 tuổi trở lên về độ tuổi đào tạo, bổ nhiệm; tiêu chí đào tạo; hình thức đào tạo chuyên môn và lý luận chính trị (tập trung hay tại chức); phương thức và điều kiện luân chuyển; chính sách cân bằng công việc gia đình-xã hội; vận dụng các “trường hợp đặc biệt” liên quan đến thời gian bổ nhiệm cán bộ hoặc xem xét lựa chọn bổ nhiệm cán bộ nữ trong điều kiện cán bộ nam và nữ tương đương nhau về tiêu chuẩn trong quá trình sắp xếp sáp nhập tổ chức hiện nay; v.v.. Cũng cần quan tâm đến việc hoàn thiện các chính sách đối với đội ngũ cán bộ không chuyên trách, trong đó có nhiều cán bộ nữ, nhằm tạo nguồn cán bộ nữ cho cấp ủy.
(4) Xây dựng hệ thống dữ liệu và tập hợp các chỉ tiêu liên quan đến sự tham gia của cán bộ nữ vào cấp ủy, từ đó kịp thời nắm được và đào tạo, quy hoạch, điều động, luân chuyển kịp thời cán bộ nữ khi có điều kiện phù hợp.
(5) Tăng cường các nghiên cứu, tổ chức hội thảo, hội nghị bàn về chủ đề công tác cán bộ nữ tham gia cấp uỷ. Đây là lĩnh vực khó nghiên cứu hơn và hiện còn ít được quan tâm nghiên cứu.
b) Một số giải pháp gắn với các cấp ủy đảng và người đứng đầu ở địa phương
(1) Tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp ủy và người đứng đầu, yêu cầu thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Đảng về việc tăng cường sự tham gia của cán bộ nữ vào cấp ủy, đặc biệt là với các cấp ủy có tỷ lệ cán bộ nữ tham gia thấp. Cần xây dựng kế hoạch hành động chi tiết và đồng bộ ở tất cả các khâu đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, quy hoạch, bổ nhiệm đối với công tác cán bộ nữ. Các cấp ủy cấp trên cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác cán bộ nữ và có đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ của các tổ chức chịu trách nhiệm ở cấp dưới. Nghiên cứu thành lập Tổ công tác cán bộ nữ do đồng chí Bí thư cấp ủy làm tổ trưởng, và thực hiện tổng kết rút kinh nghiệm và đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ hàng năm của Tổ công tác.
(2) Công tác tạo nguồn cần được thực hiện ngay từ giai đoạn phát triển đảng viên và tạo điều kiện cho cán bộ nữ trẻ tham gia giữ các chức danh chủ chốt ở cơ sở. Quan tâm tới công tác tạo nguồn từ đối tượng học sinh, sinh viên, đặc biệt là sinh viên. Công tác quy hoạch phải được rà soát thường xuyên, bảo đảm luôn có nguồn đội ngũ nữ cán bộ đủ điều kiện để kịp thời bổ nhiệm vào các vị trí mới hoặc còn trống trong cấp ủy. Thực hiện việc để trống vị trí cấp ủy viên nữ (trong ngắn hạn) cho đến khi tìm được nguồn cán bộ nữ để bổ sung.
(3) Coi công tác luân chuyển cán bộ là một trong giải pháp quan trọng nhằm tăng đội ngũ cán bộ nữ tham gia cấp ủy. Các cán bộ nữ cần được giao nhiệm vụ, luân chuyển phù hợp để tích lũy kinh nghiệm. Tỉnh ủy chủ động đề xuất với Trung ương thí điểm công tác luân chuyển, đào tạo dành riêng cho cán bộ nữ một cách linh hoạt về thời gian và hình thức để cán bộ nữ có thể tham gia thuận lợi hơn.
(4) Gắn kết chặt chẽ công tác quy hoạch với bổ nhiệm và bố trí cán bộ, đặc biệt là có định hướng bố trí chức danh phù hợp để cán bộ nữ có thể trúng cử cấp ủy khi bầu cử.
(5) Tăng cường trang bị kiến thức và các kỹ năng cần thiết để cán bộ nữ hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác. Một số nội dung cần được quan tâm trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ là: năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; năng lực tổ chức thực hiện; và năng lực lập kế hoạch. Nâng cao chất lượng cán bộ nữ tham gia cấp uỷ, nữ lãnh đạo, quản lý để tạo sự phát triển bền vững. Bản thân cán bộ nữ cần chủ động, tích cực trong việc nâng cao kiến thức và kỹ năng làm việc, đáp ứng tốt các nhiệm vụ được giao.
(6) Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp trong diện quy hoạch nhưng chưa đủ tiêu chuẩn để tạo nguồn cấp ủy địa phương. Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong công tác phát triển đảng và tạo nguồn cán bộ nữ chất lượng cao; giới thiệu nguồn cán bộ nữ cho cấp ủy địa phương, kể cả nguồn cán bộ nữ ngoài hệ thống của Hội.
(7) Tiếp tục thúc đẩy công tác truyền thông nâng cao nhận thức đối với cán bộ, đảng viên, đặc biệt là với đội ngũ cán bộ chủ chốt có tiềm năng, về công tác cán bộ nữ, về ý nghĩa của việc tham gia của cán bộ nữ vào cấp ủy. Thường xuyên phổ biến các quy định của Đảng về công tác cán bộ nữ thông qua những hình thức truyền thông đa dạng, với nội dung tập trung vào việc thay đổi định kiến giới về năng lực của cán bộ nữ; khắc phục sự tự ti của phụ nữ, nâng cao sự nỗ lực của cán bộ nữ; và nâng cao sự ủng hộ của gia đình đối với sự tham gia chính trị của phụ nữ. Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp cần tổ chức truyền thông chia sẻ rộng rãi mô hình gia đình ủng hộ phụ nữ tham gia cấp ủy, phụ nữ làm lãnh đạo.
5. Kết luận
Trong thời gian tới, việc thúc đẩy bình đẳng giới và quyền tham chính của phụ nữ sẽ có nhiều cơ hội song cũng gặp nhiều thách thức, nhất là khi Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, do đó điều kiện phát triển của phụ nữ sẽ có nhiều thay đổi. Ngoài ra, trong bối cảnh của cuộc cách mạng về tổ chức và bộ máy, việc bổ sung đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng cũng sẽ gặp khó khăn. Các đề xuất nêu trên được dựa trên cơ sở thực tiễn ở các địa phương rất cần được quan tâm ngay trong giai đoạn tinh gọn tổ chức, bộ máy và chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV nhằm tăng cường sự tham gia của cán bộ nữ vào cấp ủy./.
GS.TS. Lê Văn Lợi
Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 44 (02/2025)
---
Tài liệu trích dẫn
(1) Ban Tổ chức Trung ương (2023), Báo cáo của Ban Tổ chức Trung ương tại Hội nghị sinh hoạt chuyên đề “Xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu giai đoạn mới”, ngày 08/4/2023 tại Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
(2) Chọn mẫu: mỗi tỉnh có 2 huyện/thành phố; mỗi huyện/thành phố chọn 2 xã/phường có tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy cao và thấp) và phỏng vấn sâu các cán bộ, đảng viên; thực hiện khảo sát trực tuyến 3.050 đảng viên thuộc hệ thống chính trị ở 4 tỉnh (550 ở Bình Dương; 500 ở Bình Phước; 1000 ở Thừa Thiên Huế; 1000 ở Lâm Đồng).
(3) Giải pháp tăng cường sự tham gia cấp ủy đảng các cấp của cán bộ nữ hướng tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng, hdll.vn.
(4) Giải pháp tăng cường sự tham gia cấp ủy đảng các cấp của cán bộ nữ hướng tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng, hdll.vn.
(5) Ví dụ, Hướng dẫn số 04-HD/BTCTU, ngày 22/11/2019 của Ban Tổ chức tỉnh ủy Bình Dương về công tác nhân sự các cấp nhiệm kỳ 2020-2025; Kế hoach số 18 – KH/TU, ngày 22/4/2021 của Ban thường vụ tỉnh ủy Bình Dương về phát triển đảng viên nhiệm kỳ 2020 – 2025; Quy định số 647-QĐ/TU ngày 21/7/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Phước về công tác quy hoạch cán bộ; Kế hoạch số 36-KH/TU ngày 20/8/2021 của Ban Thường vụ tỉnh ủy Bình Phước về kết nạp đảng viên giai đoạn 2021-2025; Quy định 700-QĐ/TU, ngày 20/04/2022 của tỉnh ủy Thừa Thiên Huế về công tác quy hoạch cán bộ; Quy định 892-QĐ/TU, ngày 12/9/2022 của Ban thường vụ tỉnh ủy Thừa Thiên Huế về luân chuyển cán bộ; Kế hoạch số 28-KH/TU ngày 21/4/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy LĐ “Thực hiện công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 và những năm tiếp theo”; v.v..