Pháp luật về quyền của phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong bình đẳng giới ở Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế và bảo đảm bình đẳng về quyền của người phụ nữ; đồng thời, giảm thiểu những đối xử khác biệt và tạo lập sự bình đẳng về cơ hội phát triển cho nữ giới ở Việt Nam. Bài viết đưa ra quan điểm cho rằng, mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về quyền phụ nữ, tuy vậy vẫn còn nhiều thách thức cần được giải quyết. Nghiên cứu này phân tích toàn diện thực trạng pháp luật về quyền phụ nữ tại Việt Nam, nhận diện những thách thức cơ bản và nêu lên các triển vọng cho cải cách pháp luật quyền của phụ nữ trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển bền vững.
Ảnh minh họa. Nguồn: hoilhpn.org.vn
1. Giới thiệu
Bình đẳng giới và quyền phụ nữ đã trở thành một trong những chỉ số quan trọng đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia. Với tư cách là một nước đang phát triển và đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ và bình đẳng giới. Thời gian qua, chính quyền các cấp ở Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động tăng cường giáo dục về quyền của phụ nữ nhằm nâng cao ý thức cộng đồng, cùng với việc thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Đáng chú ý là công tác hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới. Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp pháp lý, cụ thể hóa quyền lợi và trách nhiệm của nữ giới trong lĩnh vực giáo dục, lao động, hôn nhân gia đình, và các lĩnh vực khác. Công tác này không chỉ tạo điều kiện bình đẳng hơn cho phụ nữ, mà còn khuyến khích họ tham gia quản trị xã hội, quản trị quốc gia.
Tuy nhiên, khoảng cách giữa quy định pháp luật và thực tiễn thực thi vẫn còn đáng kể. Bài viết đi sâu phân tích các quy định pháp luật về quyền của phụ nữ cũng như nhận diện một số thách thức và triển vọng đối với cải cách pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
2. Thực trạng các quy định pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam
Quá trình hình thành và phát triển các quy định pháp luật về quyền bình đẳng giới tại Việt Nam là một chặng đường lịch sử rất phong phú và đa chiều. Nó không chỉ phản ánh sự tiến triển của một quốc gia mà còn thể hiện sự thay đổi, đổi mới và tiến bộ trong việc thúc đẩy quyền lợi và vai trò của phụ nữ trong xã hội. Ngay từ khi giành được độc lập (năm 1945), việc bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ và giải phóng phụ nữ luôn được chính quyền non trẻ quan tâm. Sắc lệnh số 14 (08/9/1945) - một trong những văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã quy định quyền bình đẳng của phụ nữ trong bầu cử. Kế đến, Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định nguyên tắc bình đẳng nam nữ trên tất cả các lĩnh vực khi quy định: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9); “Mọi công dân đều bình đẳng về quyền trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa (Điều 6); “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 7). Những quy định này đã đánh dấu một bước ngoặt về địa vị pháp lý của phụ nữ Việt Nam1. Có thể nói, các quy định trong Hiến pháp năm 1946 có ý nghĩa quan trọng trong việc phá bỏ xiềng xích của tư tưởng phong kiến và nửa thuộc địa “trọng nam khinh nữ”, mở đường cho khái niệm bình đẳng giới trên các phương diện cơ bản.
Hiến pháp năm 1959 đã đi sâu và cụ thể hóa sự bình đẳng giới trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, với việc đặt lĩnh vực chính trị hàng đầu trong việc đảm bảo bình đẳng. Về tổng thể, bản Hiến pháp thứ hai đã khẳng định rõ ràng nguyên tắc phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới khi tham gia vào đời sống xã hội, thể hiện sự tôn trọng và công nhận vai trò của phụ nữ trong xã hội. Hiến pháp năm 1980 tiếp tục ghi nhận và phát triển các nguyên tắc pháp lý về quyền của phụ nữ đã được thiết lập trong các Hiến pháp trước đó, đồng thời mở rộng quyền của phụ nữ trong xã hội. Điều 55 nhắc lại nguyên tắc nhất quán của các bản Hiến pháp trước rằng mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trong khi Điều 56 của Hiến pháp năm 1980 đã công nhận rõ ràng quyền bình đẳng chính trị của nam và nữ: “Công dân có quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội”.
Sự kiện quan trọng đánh dấu việc bảo đảm quyền bình đẳng giới là ngày 29/7/1980, Việt Nam là quốc gia thứ 6 tham gia ký Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Convention on Elimination of All Forms of Discrimination Agaist Women - CEDAW) và là quốc gia thứ 35 phê chuẩn Công ước vào ngày 27/11/1981. Từ đây, nền tảng pháp lý về bảo đảm quyền bình đẳng giới đã có những bước tiến vững chắc và ngày càng hoàn thiện.
Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định các quyền tự do cơ bản của công dân nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng như một phần thiết yếu trong khung pháp lý. Điều 50 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người trong các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và pháp luật”. Điều 54 khẳng định: “Mọi công dân không phân biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời gian cư trú, từ đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, và từ đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”. Đáng chú ý, Hiến pháp năm 1992 đã thiết lập quyền của phụ nữ được tham gia bình đẳng trong việc phát triển và thực thi chính sách của chính phủ, đảm nhiệm các vị trí công vụ và thực hiện chức năng công quyền ở mọi cấp độ.
Kế thừa và mở rộng các quy định của các Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 2013 đã điều chỉnh chương về Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân từ vị trí thứ năm lên vị trí thứ hai. Theo đó, quyền của phụ nữ một lần nữa được khẳng định và nhấn mạnh như một phần không thể tách rời của quyền con người và quyền công dân. Ngay điều đầu tiên của Chương II ghi nhận quyền con người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng trên mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa và xã hội, và những điều này được thể hiện cụ thể trong Điều 16 của Hiến pháp năm 2013. Hơn nữa, Hiến pháp nhấn mạnh trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc đảm bảo thực hiện bình đẳng giới tại Điều 26: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới” (Điều 26). Điều này không chỉ thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển công bằng và xã hội, mà còn xác định một giá trị cốt lõi, và cách tiếp cận đối với việc đối xử công bằng và đồng đều giữa nam và nữ2.
Có thể thấy, Hiến pháp không chỉ là một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, mà còn là tài liệu khẳng định tầm nhìn và sứ mệnh của quốc gia. Việc sửa đổi Hiến pháp nhằm ghi nhận quyền bình đẳng giới không chỉ phản ánh sự tiến bộ của quốc gia mà còn thể hiện sự nhạy bén và sáng tạo trong việc thích nghi với sự thay đổi của xã hội, giúp thúc đẩy sự công bằng và phát triển bền vững. Điều này không chỉ góp phần củng cố quyền lợi và vị thế của phụ nữ trong xã hội mà còn thể hiện cam kết vững chắc của quốc gia trong việc xóa bỏ mọi hạn chế, và phân biệt đối xử dựa trên giới tính. Sự thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với quyền bình đẳng giới trong Hiến pháp chính là nền tảng vững chắc cho thiết lập các quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật của quốc gia3.
Để cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp năm 2013, cơ quan lập pháp đã lồng ghép chính sách bình đẳng giới vào các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau trong nhiều lĩnh vực của xã hội, cụ thể:
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định tài sản được tạo lập trong thời kỳ chung sống được coi là tài sản chung của cả hai vợ chồng. Hơn nữa, một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình, được quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật Hôn nhân và Gia đình là “vợ chồng bình đẳng”.
Luật Đất đai năm 2024 đề cập đến việc ghi tên cả hai vợ chồng trên Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất (QSDĐ). Cụ thể, Điều 98 quy định trong trường hợp QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thuộc sở hữu chung của cả vợ và chồng, Giấy chứng nhận QSDĐ phải ghi đầy đủ tên của cả vợ và chồng, trừ trường hợp vợ chồng đã thỏa thuận chỉ ghi tên một người.
Bộ luật Lao động năm 2019 thể chế hóa nhiều chính sách mới liên quan đến bình đẳng giới, như dành riêng một chương về lao động nữ và các vấn đề bình đẳng giới nhằm bảo vệ sức khỏe sinh sản của phụ nữ khi làm việc (Chương X); thu hẹp khoảng cách tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ từ năm năm xuống còn hai năm; bãi bỏ lệnh cấm phụ nữ tham gia một số công việc nhất định; hỗ trợ người lao động (cả nam và nữ) trong việc chăm sóc con cái bằng cách yêu cầu Chính phủ và người sử dụng lao động lập kế hoạch và xây dựng thêm nhà trẻ và cơ sở chăm sóc trẻ; đảm bảo quyền bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe sinh sản và nuôi dưỡng trẻ em bằng cách cho phép người lao động nam nghỉ phép khi vợ sinh con; đảm bảo quyền bình đẳng của người lao động trong thực hiện các chức năng sinh sản và chăm sóc con nhỏ theo giới tính; đưa ra định nghĩa rõ ràng hơn về quấy rối tình dục tại nơi làm việc; và thiết lập trách nhiệm chung giữa Chính phủ và doanh nghiệp trong việc tổ chức nhà trẻ và mẫu giáo, cũng như hỗ trợ chi phí chăm sóc trẻ cho người lao động.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 ưu tiên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em và phụ nữ; giao cho Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trách nhiệm hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân của bạo lực gia đình; mở rộng tổ chức các hoạt động đào tạo nghề, tín dụng, và tiết kiệm nhằm hỗ trợ nạn nhân của bạo lực gia đình.
Điều 2 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định: “Tính đến ngày bầu cử, tất cả công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp theo quy định của Luật này”. Ngoài ra, khoản 3 Điều 8 của Luật này cũng quy định: “Số lượng phụ nữ được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội sẽ do Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề xuất theo gợi ý của Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, đảm bảo ít nhất ba mươi lăm phần trăm tổng số ứng cử viên đại biểu Quốc hội trong danh sách chính thức là phụ nữ”.
Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023 quy định nguyên tắc “Tôn trọng, bảo vệ, đối xử bình đẳng và không kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người bệnh” (khoản 1 Điều 3). Luật Giáo dục năm 2019 quy định: “Học tập là quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân. Mọi công dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính, đặc điểm cá nhân, hoàn cảnh gia đình, địa vị xã hội và điều kiện kinh tế, đều bình đẳng về cơ hội học tập” (khoản 1 Điều 13).
Khoản 5 Điều 5 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) cũng xác định việc thực hiện “bình đẳng giới” là một trong các nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức. Theo đó, khoản 1 Điều 36 quy định: “Người đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây, không phân biệt quốc tịch, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng và tôn giáo, được đăng ký dự tuyển công chức”.
Ngoài ra, để đảm bảo hiệu quả kinh tế trong việc thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, khoản 5 Điều 8 Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015 quy định rõ rằng một trong các nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước là “bảo đảm ưu tiên bố trí ngân sách để đạt được mục tiêu bình đẳng giới.” Điều 41 của Luật này cũng quy định rằng một trong các cơ sở để lập dự toán ngân sách nhà nước hàng năm là nhiệm vụ bình đẳng giới.
Điều 165 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định “Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới”, xử lý các trường hợp thực hiện các hành vi dưới mọi hình thức cản trở người khác tham gia các hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, y tế vì lý do giới tính.
Nhìn chung, các văn bản pháp luật tại Việt Nam đã công nhận và thiết lập các quy định toàn diện nhằm bảo vệ quyền của phụ nữ. Tuy nhiên, các quy định về quyền bình đẳng giới trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, vô hình trung, tạo ra sự rời rạc, tản mạn và dễ dẫn đến sự thiếu thống nhất, nhất quán. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) chỉ yêu cầu lồng ghép nội dung bình đẳng giới trong các dự thảo luật có liên quan đến bình đẳng giới. Trong khi đó, Luật Bình đẳng giới quy định phải lồng ghép nội dung bình đẳng giới trong việc xây dựng tất cả các văn bản quy phạm pháp luật4. Vì thế, trên thực tế có nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã không thực hiện việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới hoặc thực hiện nhưng trong hồ sơ của dự án, dự thảo văn bản chưa thể hiện được điều đó, chỉ đến giai đoạn thẩm tra của các Ủy ban của Quốc hội (đặc biệt là Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội) vấn đề này mới được xem xét, đánh giá cụ thể. Điều này cũng đồng nghĩa với việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới nếu có cũng chỉ thực hiện đối với luật, pháp lệnh; trong khi đó, các văn bản quy phạm pháp luật khác thì không bắt buộc.
Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều quy định chưa phù hợp dẫn đến những hạn chế về điều kiện và cơ hội thụ hưởng quyền của nữ giới. Điển hình là sự khác biệt về độ tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ cũng hạn chế phần nào quyền bình đẳng trong mọi lĩnh vực. Mặc dù, Bộ luật Lao động năm 2019 đã có những quy định mới, theo hướng phù hợp hơn với các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động, bao gồm chống phân biệt đối xử trong lao động việc làm như: quy định giảm số năm chênh lệch giữa tuổi nghỉ hưu của nam và nữ từ 5 năm xuống còn 2 năm. Chính sách này một mặt tạo điều kiện để phụ nữ có thêm thời gian nghỉ ngơi và chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện hưởng lợi cho những nhóm phụ nữ ở các ngành nghề nặng nhọc, độc hại. Nhưng xét ở góc độ bình đẳng giới thì chính sự khác biệt trong độ tuổi nghỉ hưu giữa nam giới và phụ nữ mặc dù khoảng cách không dài (2 năm) nhưng vẫn tạo ra các áp lực đối với phụ nữ phấn đấu vào các vị trí nghề nghiệp của mình, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo cao cấp, hạn chế cơ hội quy hoạch, bổ nhiệm của phụ nữ. Bởi vậy, những quy định về độ tuổi này đang đặt nam và nữ trên những mặt bằng so sánh khác nhau, làm cho nam giới ở vị thế có lợi hơn5.
Ngoài ra, các biện pháp chế tài để thực hiện quyền bình đẳng giới không đủ mạnh mẽ, dẫn đến việc nhiều hành vi vi phạm không bị xử lý hoặc bị xử lý nhẹ nhàng, tính răn đe không cao. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 đã dành chương III quy định về các hoạt động bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy vậy, bạo lực trên cơ sở giới, trong đó có bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã được xác định là vấn đề khá nghiêm trọng của bất bình đẳng giới trong thời gian qua ở Việt Nam. Điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 được thực hiện với sự hỗ trợ của Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc và UNFPA cho thấy, 62,9% phụ nữ ở Việt Nam từng trải qua một hoặc hơn một hình thức bạo lực, bao gồm bạo lực thể xác, tình dục; có đến 90,4% nạn nhân của bạo lực không tìm kiếm bất kỳ sự trợ giúp nào từ chính quyền, một nửa trong số đó chưa từng kể với ai về tình trạng bị bạo lực của mình6. Đây là vấn đề đáng báo động khi các quy định về phòng, chống bạo lực gia đình chưa thể can thiệp và xử lý thỏa đáng, kịp thời.
3. Một số thách thức đối với cải cách pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam
Thứ nhất, Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ thông qua việc ký kết và phê chuẩn các công ước quốc tế về bình đẳng giới, nhưng quá trình nội luật hóa (tức là chuyển dịch từ các quy định quốc tế thành quy định pháp luật trong nước) vẫn còn nhiều vướng mắc mang tính cấu trúc và văn hóa. Các quy định quốc tế thường có phạm vi và tiêu chuẩn rộng hơn so với pháp luật nội địa, khiến cho việc điều chỉnh khung pháp lý quốc gia gặp khó khăn. Chẳng hạn, theo CEDAW, Việt Nam phải loại bỏ các phân biệt đối xử ẩn sâu trong xã hội và pháp luật, nhưng việc nhận diện và loại bỏ những vấn đề này trong hệ thống luật pháp lại cần nhiều thời gian và nguồn lực. Hơn nữa, việc nội luật hóa các điều ước quốc tế thường gặp phải rào cản do sự khác biệt giữa ngôn ngữ và văn hóa pháp lý quốc tế so với pháp luật quốc gia. Nhiều quy định trong các điều ước quốc tế mang tính chất khái quát, đòi hỏi phải có sự cụ thể hóa khi nội luật hóa, nhưng đôi khi quá trình cụ thể hóa lại không đảm bảo được đầy đủ tinh thần của các điều ước này.
Bên cạnh đó, một số công ước của Liên hợp quốc liên quan trực tiếp đến quyền của phụ nữ chưa được Việt Nam ký kết và phê chuẩn, trong đó cần kể đến Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ năm 1952. Điều này khiến cho pháp luật về nữ quyền ở Việt Nam chưa theo kịp với pháp luật quốc tế, bởi lẽ Công ước này qui định khá cụ thể và chi tiết về các quyền chính trị của phụ nữ cũng như các biện pháp bảo đảm thực hiện nhằm không ngừng nâng cao vị thế của phụ nữ.
Thứ hai, những rào cản từ định kiến giới và văn hóa truyền thống. Ở Việt Nam, do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo thời phong kiến nên định kiến giới vẫn ăn sâu, bén rễ trong xã hội đặc biệt là khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Điều này ảnh hưởng tương đối lớn đến khả năng thực hiện quyền bình đẳng giới. Các quan điểm “trọng nam khinh nữ”, quan niệm “nam trưởng, nữ phó” và quan điểm cho rằng phụ nữ yếu đuối nên thiếu kiên quyết trong việc ra quyết định đã khiến phụ nữ ít được ủng hộ vào các vị trí lãnh đạo có tầm ảnh hưởng lớn. Bên cạnh đó, quan niệm về vai trò giới truyền thống cho rằng đàn ông lo việc đại sự, phụ nữ lo việc tiểu sự, đã hình thành trong xã hội các khuôn mẫu truyền thống luôn ủng hộ nam giới với vai trò lãnh đạo. Còn đối với nữ giới, các khuôn mẫu lại gắn họ nhiều hơn với những phẩm chất của người nội trợ gia đình7. Chính định kiến về năng lực của phụ nữ và các quan niệm rập khuôn về hình ảnh lãnh đạo là thách thức đối với cải cách pháp luật về quyền của phụ nữ.
Thứ ba, sự yếu kém trong cơ chế thực thi pháp luật và kiểm soát việc tuân theo pháp luật về quyền của phụ nữ. Nhiều quy định về bình đẳng giới và quyền của phụ nữ đã được ban hành, nhưng việc giám sát và đảm bảo thực thi vẫn còn hạn chế. Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới chưa được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục và rộng khắp. Mới chủ yếu tập trung thanh tra, kiểm tra ở khu vực doanh nghiệp về thực hiện pháp luật đối với lao động nữ. Chưa chú trọng thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các nội dung có liên quan đến phụ nữ ở nông thôn trong các chương trình, dự án, đề án. Các kết luận, kiến nghị thanh tra chủ yếu mới chỉ dừng lại ở mức độ nhắc nhở, chấn chỉnh. Công tác theo dõi, đôn đốc kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra chưa được quan tâm đúng mức; việc xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm chưa nghiêm.
Thứ tư, sự thiếu hụt về nguồn lực hỗ trợ, bao gồm cả tài chính, nhân sự, và cơ sở hạ tầng. Điều này không chỉ gây ra khó khăn trong quá trình thực thi các quy định pháp lý, mà còn ảnh hưởng đến khả năng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cần thiết cho phụ nữ, đặc biệt là các nạn nhân của bạo lực. Trước hết, sự thiếu hụt nguồn lực tài chính để triển khai các chương trình và chính sách liên quan đến bình đẳng giới. Trên thực tế, nguồn kinh phí để xây dựng các trung tâm tư vấn, nơi trú ẩn an toàn, và các dịch vụ y tế cho nạn nhân của bạo lực gia đình và bạo lực tình dục thường không đủ đáp ứng nhu cầu. Một nghiên cứu của UNFPA Việt Nam chỉ ra rằng các dịch vụ hỗ trợ cho nạn nhân bạo lực gia đình và bạo lực tình dục tại Việt Nam vẫn còn rất giới hạn, cả về phạm vi lẫn chất lượng. Các trung tâm hỗ trợ thường bị quá tải và không có đủ nguồn tài chính để vận hành hiệu quả. Điều này đặc biệt nghiêm trọng ở các tỉnh thành ngoài khu vực đô thị lớn, nơi phụ nữ dễ bị tổn thương nhưng lại khó tiếp cận với các dịch vụ tư vấn và hỗ trợ pháp lý8.
Bên cạnh vấn đề về tài chính, thiếu nhân lực chuyên môn cũng là một thách thức lớn đối với việc thực thi các luật về nữ quyền của phụ nữ. Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về bình đẳng giới ở Việt Nam mới hình thành sau khi có Nghị định số 186/2007/NĐ ngày 25/12/2007. Theo đó, đội ngũ cán bộ công chức và nhân viên xã hội có chuyên môn về các vấn đề bình đẳng giới và bạo lực gia đình còn mỏng về số lượng, hạn chế kiến thức chuyên môn về giới, kỹ năng lồng ghép giới. Nhiều cán bộ công chức chưa được đào tạo đúng chuyên ngành, không ổn định, thường xuyên thay đổi theo yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan.
Thứ năm, bảo vệ quyền của phụ nữ trong không gian kỹ thuật số. Phụ nữ hiện đang đối mặt với nguy cơ bị lộ thông tin cá nhân, các hành vi quấy rối, đe dọa, và phân biệt đối xử trên mạng xã hội và nền tảng kỹ thuật số. Các hành vi này không chỉ xâm phạm quyền riêng tư mà còn gây ra những tổn thương tinh thần. Hiện tại, pháp luật Việt Nam chưa có nhiều quy định trong việc tạo ra một môi trường an toàn cho phụ nữ tham gia vào các hoạt động trực tuyến, cũng như xử lý các hành vi quấy rối trực tuyến hiệu quả.
4. Triển vọng cải cách pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam
Phong trào nữ quyền toàn cầu đang ngày càng tạo ra sức ép đối với các quốc gia trong việc cải cách pháp luật và chính sách về quyền của phụ nữ. Các tổ chức quốc tế, như Liên hợp quốc, và các hiệp định quốc tế về quyền con người, đã tạo ra nhiều cơ hội để Việt Nam tiếp cận và điều chỉnh chính sách của mình theo các tiêu chuẩn quốc tế. Các cam kết quốc tế của Việt Nam về quyền con người và bình đẳng giới, chẳng hạn như Công ước CEDAW, có thể là động lực thúc đẩy các cải cách pháp luật trong nước. Việt Nam có thể tiếp tục hợp tác với các tổ chức quốc tế nhằm thúc đẩy thực hiện các chương trình bảo vệ và nâng cao quyền phụ nữ.
Việt Nam đã có một số tiến bộ đáng kể trong việc bảo vệ quyền của phụ nữ thông qua việc tiếp tục kiện toàn khung pháp lý. Trong thời gian tới, khung pháp lý liên quan đến quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động và việc làm, bảo vệ phụ nữ trước bạo lực giới, và sức khỏe sinh sản và quyền tự quyết của phụ nữ là những ưu tiên hoàn thiện nhằm đảm bảo tính hiệu lực và khả năng thực thi trong thực tế. Đặc biệt là cần tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến phòng, chống bạo lực giới, quyền tiếp cận chăm sóc sức khỏe sinh sản, và bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong môi trường làm việc, các chính sách về lương, bảo hiểm xã hội, và giờ làm việc.
Với sự xuất hiện và phát triển của công nghệ số và các nền tảng mạng xã hội, phụ nữ có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận thông tin, tham gia thảo luận về các vấn đề xã hội và chính trị, cũng như thúc đẩy các phong trào về quyền phụ nữ. Công nghệ số đã giúp các phong trào nữ quyền tại Việt Nam, cũng như trên toàn thế giới, phát triển mạnh mẽ hơn. Mạng xã hội và diễn đàn trực tuyến đã trở thành nơi để phụ nữ bày tỏ quan điểm và yêu cầu thay đổi chính sách. Bên cạnh đó, công nghệ số có thể giúp phụ nữ có thể tiếp cận thị trường lao động toàn cầu, làm việc từ xa và khởi nghiệp dễ dàng hơn thông qua các nền tảng thương mại điện tử. Điều này thúc đẩy phụ nữ, đặc biệt là những người sống ở vùng nông thôn, tham gia vào các hoạt động thương mại.
5. Kết luận
Cải cách pháp luật về quyền của phụ nữ tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức và triển vọng trong bối cảnh xã hội hiện đại. Các thách thức đến từ lộ trình nội luật hóa, nguồn lực hỗ trợ chưa đầy đủ, và tổ chức thực thi pháp luật chưa hiệu quả, đến các rào cản định kiến xã hội, văn hóa truyền thống và những khoảng trống pháp lý trong bối cảnh công nghệ số. Tuy nhiên, những triển vọng hiện hữu bao gồm sự cam kết của Việt Nam với các tiêu chuẩn quốc tế về bình đẳng giới, sự gia tăng hoạt động lập pháp, và cơ hội từ chuyển đổi số. Một hệ thống pháp luật về quyền của phụ nữ ngày càng hoàn thiện sẽ có vai trò thiết yếu trong việc tạo dựng một xã hội bình đẳng, công bằng và phát triển bền vững, đồng thời đáp ứng được những yêu cầu của thời đại công nghệ số và hội nhập quốc tế./.
TS. Võ Công Khôi
Học viện Chính trị khu vực III
Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 44 (02/2024)
---
Tài liệu trích dẫn
(1) Báo Xây dựng Đảng Điện tử, Giải phóng phụ nữ - Giá trị nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, https://www.xaydungdang.org.vn/tu-tuong-ho-chi-minh/giai-phong-phu-nu-gia-tri-nhan-van-trong-tu-tuong-ho-chi-minh-15893/, truy cập ngày 05/9/2024.
(2) Vũ Công Giao, Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, 2015, tr.223.
(3);(5) Nguyễn Thanh Hiền (2023), Đảm bảo pháp lý về quyền bình đẳng giới ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam), tr.88, 102.
(4);(6);(8) UNFPA Vietnam, "Tóm tắt chính sách: Bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam"
(7) Nguyễn Thanh Hiền (2022), Pháp luật về hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi của người lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức tại Việt Nam, Tạp chí Pháp luật về Quyền con người, số 28, tr.45.