Mục đích của bài viết này là gợi ý ra các chiều cạnh cụ thể nhằm đánh giá quyền này, gồm: (1) Quyền tiếp cận nguồn nước trong bối cảnh dễ bị tổn thương; (2) Quyền tiếp cận nguồn nước trong các vốn/tài sản sinh kế; (3) Quyền tiếp cận nguồn nước trong các chiến lược sinh kế; (4) Quyền tiếp cận nguồn nước trong các đầu ra sinh kế; (5) Quyền tiếp cận nguồn nước trong các quy trình, thể chế, chính sách
Tính đến cuối năm 2023, khoảng 74% hộ gia đình nông thôn Việt Nam đã tiếp cận được nguồn nước sạch đạt quy chuẩn.
Nguồn: ns.mard.gov.vn
1. Một số khái niệm liên quan
a) Quyền sử dụng nước, quyền tiếp cận nguồn nước
Theo Bình luận chung số 15 của Liên hợp quốc, quyền sử dụng nước bao gồm các quyền sử dụng nước cho các mục đích sau: (1) “sử dụng cho cá nhân và gia đình”1; (2) thừa nhận rằng nước cần thiết cho các mục đích sử dụng khác nhau ngoài mục đích cá nhân và gia đình: “để sản xuất lương thực [...], đảm bảo an ninh sinh kế [...]”2; (3) đồng thời lưu ý rằng sản xuất lương thực thông qua nông nghiệp là một mục đích của sử dụng nước: “đảm bảo khả năng tiếp cận bền vững tài nguyên nước cho nông nghiệp để thực hiện quyền có đủ lương thực”3.
Quyền tiếp cận nguồn nước được khẳng định và cụ thể hoá trong Luật Tài nguyên nước (của Việt Nam) năm 2012 tại khoản 5 Điều 3 như sau: “Khai thác, sử dụng tài nguyên nước phải tiết kiệm, an toàn, có hiệu quả; bảo đảm sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu, công bằng, hợp lý, hài hòa lợi ích, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các tổ chức, cá nhân”. Việc bảo đảm quyền khai thác, tiếp cận nguồn nước là một trong những chính sách quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên nước nói riêng và bảo đảm quyền con người nói chung. Khoản 3 Điều 4 Luật Tài nguyên nước năm 2012 quy định về chính sách của nhà nước đối với tài nguyên nước nói chung4. Theo đó, Nhà nước ưu tiên đầu tư tìm kiếm, thăm dò, khai thác nguồn nước, có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư khai thác nước để giải quyết nước sinh hoạt, sản xuất cho nhân dân ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng khan hiếm nước ngọt sao cho đảm bảo nguyên tắc công bằng, bình đẳng về quyền lợi giữa cá nhân và tổ chức trong việc khai thác, sử dụng nguồn nước.
Như đã nói ở trên, nội dung quy phạm của quyền tiếp cận nước (theo nghĩa rộng) của Bình luận chung số 15 có bao gồm nước cho sản xuất nông nghiệp bên cạnh nước cho sinh hoạt và được hiểu là quyền tiếp cận nguồn nước nhằm đảm bảo sinh kế (ở đây là trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản) bao gồm các chiều cạnh đó là: (1) tính sẵn có, (2) chất lượng, và (3) khả năng tiếp cận5.
b) Sinh kế bền vững
Theo Robert Chambers và Gordon Conway (1991), sinh kế được định nghĩa như sau: “Sinh kế bao gồm các khả năng, tài sản (dự trữ, tài nguyên, yêu cầu và khả năng tiếp cận) và các hoạt động cần thiết để làm phương tiện sinh sống: một cuộc sống bền vững có thể đương đầu và phục hồi sau những căng thẳng và cú sốc, duy trì hoặc nâng cao khả năng và tài sản của mình, và cung cấp cơ hội sinh kế bền vững cho thế hệ tiếp theo; và đóng góp lợi ích ròng cho các sinh kế khác ở cấp địa phương và toàn cầu cũng như trong ngắn hạn và dài hạn.”6. Scoones (1998) nhận thấy rằng, cá nhân hoặc tập thể sử dụng cơ sở vốn của mình, bao gồm vốn con người, xã hội, kinh tế và tự nhiên (nước, đất và rừng) để thực hiện các mục tiêu sinh kế của họ. Các nguồn vốn này chịu ảnh hưởng của các bối cảnh có đặc điểm lịch sử, chính trị, xã hội và/hoặc kinh tế khác nhau. Từ đó, Scoones, (1998) đã đựa ra các yếu tố của sinh kế bền vững như sau: (1) Bối cảnh dễ bị tổn thương; (2) Nguồn lực/vốn/tài sản sinh kế, (3) Chiến lược sinh kế, (4) Đầu ra sinh kế và (5) Quy trình, thể chế, chính sách7.
c) Quyền tiếp cận nguồn nước trong khung sinh kế bền vững.
Các chiều cạnh của quyền tiếp cận nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp và sinh kế nông thôn (với các loại hình gồm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản) được phát triển dựa trên khung lý thuyết sinh kế bền vững như sau: (1) Quyền tiếp cận nguồn nước trong bối cảnh dễ bị tổn thương với các vấn đề như tăng nhiệt độ và lượng mưa hàng năm, tăng độ sâu lũ lụt, mực nước biển dâng và sự xâm nhập mặn; (2) Quyền tiếp cận nguồn nước trong các vốn/tài sản sinh kế (chính là tài sản từ tự nhiên) bao gồm: tính có thể tiếp cận được, tính sẵn có, chất lượng của nguồn nước, tính có thể chi trả được, khoảng cách và thời gian tới điểm lấy nước. (3) Quyền tiếp cận nguồn nước trong các chiến lược sinh kế bao gồm cân bằng giữa nước cho sinh hoạt và nước cho sản xuất nông nghiệp, tích hợp nguồn cung cấp nước cho mục đích sử dụng trong nước với các vấn đề quản lý tài nguyên nước ở cấp độ trung và vĩ mô, tích hợp quản lý nước với quản lý tài chính và các tài sản hộ gia đình khác; (4) Quyền tiếp cận nguồn nước trong các đầu ra sinh kế bao gồm đầu tư vào cơ sở hạ tầng hệ thống thủy lợi, cấp nước, quản lý, phân phối, xử lý nguồn nước nông thôn, tiếp cận việc làm trong nông nghiệp, năng suất nông nghiệp, khả năng phục hồi trước biến đổi khí hậu; (5) Quyền tiếp cận nguồn nước trong các quy trình, thể chế, chính sách bao gồm cải cách thể chế (văn hóa, chuẩn mực) nhằm tăng khả năng tiếp cận các nguồn nước, duy trì tài sản sinh kế, tăng cường năng lực cộng đồng thông qua đào tạo về các chính sách hiện hành liên quan đến nguồn nước và sinh kế để cộng đồng nhận thức được các vấn đề về mất an ninh nguồn nước có ảnh hưởng đến họ, các đối tượng dễ bị tổn thương như người nghèo, phụ nữ, người khuyết tật, người già được ưu tiên tham gia vào các quy trình ra quyết định để có thể giải quyết các vấn đề của các nhóm đối tượng cụ thể.
2. Các chiều cạnh đánh giá quyền tiếp cận nguồn nước cho sinh kế bền vững
a) Quyền tiếp cận nguồn nước trong các bối cảnh dễ bị tổn thương
Ở khu vực nông thôn nói chung, nước đóng vai trò vô cùng quan trọng. Việc tiếp cận nguồn cung cấp nước đáng tin cậy cho phép người dân mở rộng sinh kế, tăng năng suất và giảm thiểu rủi ro liên quan đến tình trạng dễ bị tổn thương. Bối cảnh dễ bị tổn thương tại Việt Nam có thể kể đến tình trạng biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn tại khu vực hạ lưu sông Mê Kông trong đó có Đồng bằng sông Cửu Long. Các nghiên cứu gần đây tại lưu vực sông Mê Kông chỉ ra các tác động khí hậu trong tương lai tại đây bao gồm các hiện tượng như sau: tăng nhiệt độ và lượng mưa hàng năm, tăng độ sâu lũ lụt, mực nước biển dâng và sự xâm nhập mặn (Eastham et al. 2008; Evers và Pathirana, 2018)8. Nhiều nghiên cứu khác nhau đã chỉ ra sự ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và tiếp cận nguồn nước đến các hoạt động nông nghiệp9.
b) Quyền tiếp cận nguồn nước trong các vốn/tài sản sinh kế
Grey-Gardner (2008) đã tóm tắt các tài sản sinh kế để đảm bảo quyền tiếp cận nguồn nước như sau: Tài sản từ tự nhiên trong quyền tiếp cận nguồn nước bao gồm: tính có thể tiếp cận được, tính sẵn có, chất lượng của nguồn nước, tính có thể chi trả được, khoảng cách và thời gian tới điểm lấy nước. Tài sản con người trong quyền tiếp cận nguồn nước bao gồm: kỹ năng, kiến thức, khả năng và sức khỏe. Tài sản vật chất trong quyền tiếp cận nguồn nước bao gồm: cơ sở hạ tầng cung cấp nước, thiết bị, vật liệu bảo trì (bao gồm cả công cụ). Các nguồn lực tài chính để đảm bảo quyền tiếp cận nguồn nước bao gồm: tiền tiết kiệm, trợ cấp, lương hưu và các khoản vay. Nguồn lực xã hội nhằm đảm bảo quyền tiếp cận nguồn nước: chất lượng của các mạng lưới xã hội và các mối quan hệ. Tài sản từ tự nhiên là một khía cạnh quan trọng của quyền tiếp cận nguồn nước nhằm đảm bảo sinh kế nông thôn bền vững bao gồm cụ thể là tính có thể tiếp cận được, tính sẵn có, chất lượng của nguồn nước, tính có thể chi trả được, khoảng cách và thời gian tới điểm lấy nước10. Và do vậy, cần được làm rõ như sau:
Tính có thể tiếp cận được của nguồn nước trong sinh kế nông thôn:
Theo Báo cáo Phát triển Con người (HDR) (UNDP, 2006), Ủy ban Liên hợp quốc về Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa tuyên bố rằng tiếp cận nguồn nước là quyền con người mà mỗi người đều có quyền được hưởng đầy đủ, an toàn, chấp nhận được, có thể tiếp cận được về mặt vật lý và giá cả phải chăng để sử dụng cho mục đích cá nhân và gia đình. Năm vấn đề cốt lõi này đại diện cho nền tảng của an ninh nguồn nước11.
Theo SIWI (2002) thì một số lợi ích liên quan đến khả năng tiếp cận nguồn nước bao gồm vấn đề sức khỏe, giáo dục, an ninh lương thực và sản xuất lương thực12. Những điều này không thể dễ dàng đạt được nếu không áp dụng các biện pháp quản lý tốt nguồn nước và đảm bảo rằng các cộng đồng quản lý và sử dụng nguồn nước một cách có hiệu quả và hiệu suất. Cần phải liên kết các yếu tố để xác định mức độ tác động của việc tiếp cận nguồn nước đối với sinh kế nông thôn bền vững. Điều này có thể bao gồm việc xem xét tính khả dụng của nguồn nước, khoảng cách để lấy nước, khả năng chi trả và quản lý các dự án nguồn nước và những thách thức của chúng đến sinh kế nông thôn.
Tính sẵn có của nguồn nước phục vụ sinh kế nông thôn:
Để hiểu được tình trạng sẵn có của nước, Gonzalez (2011) đã xác định các nguồn nước và phân loại thành ba loại chính; nước mưa, nước mặt (sông, suối, hồ) và nước ngầm13. Trong ba nguồn này, nước ngầm được cho là có chất lượng tốt, tuy nhiên, đây là một giả định không phải lúc nào cũng đúng. Việc lựa chọn nguồn nước sẽ phụ thuộc vào chất lượng, số lượng nước, chi phí phát triển, vận hành, nguồn vốn khả dụng và khoảng cách từ cộng đồng mà nguồn nước phục vụ. Tất cả các yếu tố này có thể ảnh hưởng tiêu cực hoặc tích cực đến sinh kế của các hộ gia đình. DFID (2011) kết luận rằng việc có nguồn nước chất lượng tốt gần nhà mang lại nhiều lợi ích về sinh kế14.
Tác động của chất lượng nguồn nước tới sinh kế nông thôn:
Thu hoạch nước mưa và sinh kế nông thôn bền vững là một phương pháp truyền thống đã được chứng minh là có hiệu quả cả trong sinh hoạt và sản xuất hộ gia đình như tăng năng suất đất canh tác và tưới nước cho gia súc (Smet, 2005)15. Các gia đình không có công nghệ để sử dụng nước có thể không thu hoạch được nước. Điều này cần thiết có hướng dẫn về thiết kế, xây dựng và bảo trì hệ thống thu gom nước mưa để tiết kiệm và giảm chi phí (Petersen và Gould, 1999)16. Đôi khi, nước mưa có thể mang theo các chất ô nhiễm mà nó thu được từ khí quyển và do đó cần có các kỹ năng kỹ thuật để có thể loại bỏ dòng nước đầu tiên từ bề mặt thu gom (Pacey và Cullis, 1986)17. Một gia đình có nguồn tài chính ổn định và có thái độ tích cực trong việc tích trữ nước mưa có thể xây dựng các công trình giúp cải thiện sinh kế và giảm bớt căng thẳng liên quan đến tình trạng thiếu nước cho hộ gia đình hoặc cho chăn nuôi và các hoạt động nông nghiệp khác.
c) Quyền tiếp cận nguồn nước và các chiến lược sinh kế
Các loại chiến lược sinh kế khác nhau quyết định các mức thu nhập khả dụng và/hoặc thời gian lao động có sẵn khác nhau để tham gia vào hoạt động tài chính/thu hồi chi phí. Ví dụ, tính khả dụng của thu nhập và/hoặc sức lao động vào các thời điểm khác nhau trong năm là quan trọng trong nông nghiệp tự cung tự cấp. Nước được phân loại là một tài sản, là đầu vào cho sinh kế của hộ gia đình, do đó mối quan hệ giữa cung và cầu có thể phụ thuộc một phần vào các lợi nhuận khác nhau đối với các hoạt động khác nhau trong các chiến lược sinh kế. Trong khi quan điểm dựa trên nhu cầu xác định nước chủ yếu là hàng hóa tiêu dùng, thì cách tiếp cận sinh kế coi nước cũng là tài sản sản xuất. Điều này có ý nghĩa đối với việc hiểu được khía cạnh kinh tế rộng hơn được áp dụng cho nước, ý nghĩa của nó vào các thời điểm khác nhau trong năm (thường được phản ánh trong giá của nó trong các môi trường khan hiếm nước) và trình tự của tính khả dụng.
Hầu hết các cuộc thảo luận về tiếp cận nước sinh hoạt đều liên quan đến nhu cầu tiêu dùng của con người và việc sử dụng nước như một phần nhu cầu hàng ngày của hộ gia đình để nấu ăn, vệ sinh, giặt giũ và uống. Việc coi trọng quan điểm này về nước trái ngược lại với việc sử dụng nước như một tài sản sản xuất. Ở đây, tiếp cận nguồn nước vừa là một loại hàng hóa có chi phí kèm theo (trong quá trình cung cấp và xử lý), vừa là một tài sản trong các quy trình sản xuất ở cấp hộ gia đình, cho dù là để tưới tiêu hay nuôi trồng thủy hải sản và gia súc, gia cầm, bổ sung cho hệ thống tưới tiêu nhỏ, sản xuất đồ uống địa phương để bán hoặc các sản phẩm công nghiệp thủ công khác hoặc thậm chí bán lại để kiếm lời cho các hộ gia đình khác. Nước là một tài sản tự nhiên tạo thành một phần trong phạm vi tài sản có sẵn cho các hộ gia đình và giá trị kinh tế cũng như chi phí của nước cần được hiểu đúng để hiểu được mối liên hệ với các chiến lược sinh kế. Trong trường hợp này là củng cố các nhóm tài sản thông qua việc cải thiện khả năng tiếp cận vốn tự nhiên, và còn có ý nghĩa về mặt phương pháp luận đối với việc đánh giá nhu cầu tiếp cận nguồn nước của người dân.
Quan điểm sinh kế tích hợp việc quản lý nước như một tài sản tự nhiên với quản lý tài chính, vật chất và các tài sản hộ gia đình khác bao gồm việc lập kế hoạch trước cho nhiều năm đối với tài sản khan hiếm. Quản lý tài sản toàn diện ở cấp hộ gia đình và cộng đồng đòi hỏi kiến thức về: (1) Nguồn tài nguyên cộng đồng có sẵn/có thể tiếp cận; (2) Mối quan hệ giữa việc sử dụng tài nguyên của hộ gia đình và tính khả dụng của tài nguyên chung trong cộng đồng; (3) Mức tiếp cận tài nguyên, mà nếu thấp hơn, các hộ gia đình sẽ buộc phải tìm kiếm sự hỗ trợ; (4) Các chiến lược quản lý tài nguyên hiện có. Quản lý tài sản theo cách tích hợp có liên quan chặt chẽ đến các nhu cầu và cung cấp tài nguyên nước theo mùa vụ. Nó cũng liên quan chặt chẽ đến vấn đề năng lực giám sát kiến thức để đánh giá tính khả dụng của nguồn nước, quản lý tài nguyên nước với nhu cầu an ninh lương thực. Hiểu được quản lý tài sản tích hợp ở cấp hộ gia đình giúp rút ra mối quan hệ quan trọng giữa quyền tiếp cận tài nguyên nước và an ninh lương thực.
d) Quyền tiếp cận nguồn nước và các đầu ra sinh kế
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng và vận hành các dịch vụ liên quan đến nước có thể thúc đẩy tăng trưởng sản xuất bền vững và tạo việc làm; và nên được lên kế hoạch cho các lĩnh vực có liên quan như nông nghiệp và năng lượng để tối đa hóa kết quả kinh tế và việc làm tích cực. Điều này liên quan chặt chẽ với việc xây dựng và vận hành cơ sở hạ tầng cho thủy lợi, cấp nước, và quản lý nguồn nước nông thôn bao gồm phân phối và xử lý nước ở các vùng nông thôn18. Tiếp cận nguồn nước góp phần làm tăng thu nhập, tăng năng suất nông nghiệp và cải thiện khả năng phục hồi trước biến đổi khí hậu19. Ví dụ, đầu tư vào phát triển thủy lợi giúp tiếp cận nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp tăng lên có thể góp phần tăng năng suất lao động và giảm giá lương thực. Đồng thời, có thể dẫn đến các cơ hội việc làm trong nền kinh tế xanh và tăng năng suất trên mỗi đơn vị nước. Bên cạnh đó, việc dễ dàng tiếp cận nguồn nước nhờ đầu tư công và cơ sở hạ tầng thủy lợi được cải thiện có thể giảm bớt gánh nặng cho công việc không được trả lương của phụ nữ, chẳng hạn như việc phải đi lấy nước (WWAP, 2019)20 .
e) Quyền tiếp cận nguồn nước trong cấu trúc, quy trình
DFID (1999) báo cáo rằng để cải thiện tiếp cận nguồn nước để đảm bảo sinh kế nông thôn, cần phải chuyển đổi các cấu trúc và quy trình như sau: cải cách thể chế (văn hóa, chuẩn mực) nhằm tăng khả năng tiếp cận các nguồn nước, duy trì tài sản sinh kế. Tiếp đó là tăng cường năng lực cộng đồng thông qua đào tạo về các chính sách hiện hành liên quan đến nguồn nước và sinh kế để cộng đồng nhận thức được các vấn đề về mất an ninh nguồn nước có ảnh hưởng đến họ. Một chiến lược khác có thể là thực hiện việc xây dựng năng lực của cộng đồng ở những khu vực dễ tiếp cận để có thể tiếp cận được nhiều người. Thêm vào đó, một số thành viên nhất định của cộng đồng (các đối tượng dễ bị tổn thương như người nghèo, phụ nữ, người khuyết tật, người cao tuổi) được ưu tiên tham gia vào các quy trình ra quyết định để có thể giải quyết các vấn đề của các nhóm đối tượng cụ thể.
3. Kết luận và một số giải pháp đề xuất
Trong những năm gần đây, tiếp cận nguồn nước đang được nhiều quốc gia quan tâm, nghiên cứu, đánh giá. Tuy nhiên, các nghiên cứu về quyền tiếp cận nguồn nước còn rất hạn chế, chủ yếu các nghiên cứu về chủ đề này là những nghiên cứu đánh giá tác động và tập trung vào khoa học thủy lợi và môi trường, các yếu tố văn hóa, xã hội, các bối cảnh dễ bị tổn thương còn bị xem nhẹ. Việc đưa ra các chiều cạnh để đánh giá quyền tiếp cận nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp và sinh kế nông thôn dựa trên khung lý thuyết sinh kế bền vững giúp cho các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội của quyền tiếp cận nguồn nước được bao trùm và đánh giá đầy đủ.
Về giải pháp, cần có sự tính toán nhằm đảm bảo cân bằng giữa nhu cầu sử dụng nước trong sinh hoạt và trong sản xuất nông nghiệp. Do đó, việc tính toán nhu cầu dự kiến ở cấp hộ gia đình và cộng đồng có thể đòi hỏi phải phân tích sâu hơn về các mục đích sử dụng sinh kế của hộ gia đình (và các mục đích sử dụng tiềm năng) so với việc thường thực hiện bằng đánh giá nhu cầu. Điều này cũng có ý nghĩa chính sách đối với các khái niệm về sự khan hiếm, đặc biệt là về sự hiện diện hay vắng mặt của các tài sản khác quan trọng để tiếp cận bền vững với nguồn nước được cung cấp. Sự khan hiếm có thể được xác định bởi sự không có sẵn của vốn vật chất và vốn con người cũng như sự thiếu hụt nguồn nước. Do đó, việc sắp xếp thứ tự tính khả dụng của tài sản là quan trọng để hỗ trợ một môi trường chính sách mới dựa trên nhu cầu, theo quan điểm tài chính.
Việc quản lý tốt hơn các nguồn tài nguyên nước cũng như các chính sách tăng cường khả năng phục hồi sẽ có tác động tích cực đến đời sống người dân. Quan điểm về sinh kế cũng thực hiện một bước quan trọng hướng tới việc tích hợp nguồn cung cấp nước cho mục đích sử dụng trong nước với các vấn đề quản lý tài nguyên nước ở cấp độ trung và vĩ mô. Rõ ràng, khi hàm ý của việc áp dụng cách tiếp cận kinh tế xã hội để phát triển nguồn cung cấp nước cho cộng đồng xuất hiện, vấn đề phân bổ trong và giữa các cộng đồng chia sẻ một hoặc nhiều lưu vực trở nên quan trọng hơn. Ở đây, các chiến lược quản lý nước của cộng đồng nên được xem xét trong bối cảnh rộng hơn, trong đó việc đảm bảo tính bền vững của lưu vực, giảm dòng chảy và xói mòn, và nhấn mạnh vào việc quản lý lưu vực nhỏ bổ sung cho việc xây dựng giếng khoan, ao và phát triển các công trình bề mặt khác.
Tình trạng thiếu nước và thiếu khả năng tiếp cận nguồn nước thường là vấn đề xã hội chứ không phải là vấn đề tự nhiên. Mặc dù có thể có đủ nước, nhưng không phải lúc nào và không phải ai cũng có thể tiếp cận được và có tiếng nói trong cách sử dụng tài nguyên nước. Do đó, Chính phủ cần xây dựng và thực hiện hiệu quả các chính sách và luật pháp trong đó vai trò và trách nhiệm của các bên liên quan khác nhau về nước được xác định. Việc đưa ra các hệ thống quản lý nước công bằng và bình đẳng đòi hỏi sự tham gia và tham vấn có ý nghĩa, cũng như nâng cao nhận thức và giáo dục nhiều hơn nữa về quyền và trách nhiệm của người sử dụng nước, bao gồm cả những nhóm dễ bị phân biệt đối xử như: người dân tộc thiểu số, nông dân sản xuất nhỏ, cũng như các nhóm yếu thế khác.
Nước là yếu tố sản xuất quan trọng trong nông nghiệp nhưng đồng thời nông nghiệp cũng là ngành tiêu thụ nước lớn nhất. Trong khi phát triển nông nghiệp góp phần vào an ninh lương thực, thì việc mở rộng nông nghiệp không bền vững làm tăng tính dễ bị tổn thương của hệ sinh thái và con người, dẫn đến cạnh tranh về đất đai và/hoặc tài nguyên nước, làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn nước ngầm và các nguồn nước khác và làm tăng độ mặn của đất. Do đó, cần thiết phải chuyển sang các hệ thống nông nghiệp-lương thực bền vững, tiết kiệm và công bằng hơn.
Trong thế giới việc làm đang thay đổi, một số công việc sẽ mất đi, một số khác sẽ được chuyển đổi và những công việc mới sẽ được tạo ra. Các ngành liên quan đến nước có tiềm năng hưởng lợi từ quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh hơn và cần có những cách tiếp cận sáng tạo để tạo ra những công việc xanh trong các ngành này. Một số cơ hội mới sẽ nảy sinh từ tình trạng thiếu nước và ô nhiễm nước gia tăng, có thể dẫn đến thị trường mới cho các sản phẩm tiết kiệm nước và nhu cầu về các thiết bị và hệ thống kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Việc thúc đẩy các phương pháp sản xuất thân thiện với nguồn nước và bền vững, chẳng hạn như quản lý nước ngầm, tưới tiêu dựa vào cộng đồng, quản lý nước mưa và tiếp cận các công nghệ quy mô nhỏ để thu thập, lưu trữ và phân phối nước, có thể có tác động tích cực đến cả năng suất nông nghiệp và môi trường. Chúng cũng có thể góp phần vào việc tăng cường và tạo ra sự công bằng hơn trong việc tiếp cận nguồn nước ở các vùng nông thôn.
TS. Phan Thanh Thanh
Viện Nghiên cứu Con người, Gia đình với Giới, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 45 (04/2024)
---
* Bài viết này là một sản phẩm đầu ra của Nhiệm vụ cấp Bộ có tên “Quyền tiếp cận nguồn nước nhằm đảm bảo sinh kế của người dân nông thôn tại tỉnh An Giang trong bối cảnh biến đổi khí hậu” của Viện Nghiên cứu Con người, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam năm 2025-2026 do TS. Phan Thanh Thanh làm chủ nhiệm.
Tài liệu trích dẫn
(1);(2);(3) CESCR (2002). General Comment No.15: The Right to Water, E/C.12/2002/11, đoạn 12(a); đoạn 6; đoạn 7.
(4) Quốc hội (2012). Luật Tài nguyên nước ban hành ngày 21/06/2012.
(5) CESCR (2002). General Comment No.15: The Right to Water, E/C.12/2002/11.
(6) Chambers, R., & Conway G. R. (1991). Sustainable rural livelihoods: Practical concepts for the 21st century. IDS Discussion Paper 296, Institute of Development Studies.
(7) Scoones, I. (1998). Sustainable rural livelihoods: A framework for analysis. IDS Working Paper 72, Institute for Development Studies, UK.
(8) Eastham, J., Mpelasoka, F., Mainuddin, M., Ticehurst, C., Dyce, P., Hodgson, G., Ali, R. and Kirby, M., (2008). Mekong river basin water resources assessment: Impacts of climate change. Water for a Healthy Country National Research Flagship Report; Commonwealth Scientific and Industrial Research Organisation (CSIRO): Canberra, Australia.
Evers, J. and Pathirana, A., (2018). Adaptation to climate change in the Mekong River Basin: introduction to the special issue. Climatic Change, 149(1), pp.1-11.
(9) Le X T, (2017). “Floods and sediments on the Mekong Delta”. In Proceedings of the Science Conference on Agricultural Production in terms of flood and alluvial changes in the Mekong Delta June 27, 2017 (Vietnam: An Giang University)
Nguyen, C.T. and Scrimgeour, F., (2022). Measuring the impact of climate change on agriculture in Vietnam: A panel Ricardian analysis. Agricul(28) Muller, M. & Bellmann, C. (2016). Trade and Water: How Might Trade Policy Contribute to Sustainable Water Management? Geneva, Switzerland, International Centre for Trade and Sustainable Development.
tural Economics, 53(1), pp.37-51.
Le, S.T. and Vo, C.D., (2021). The livelihood adaptability of households under the impact of climate change in the Mekong Delta. Journal of Agribusiness in Developing and Emerging Economies, 11(1), pp.7-26.
Tran, D.D., Park, E., Tuoi, H.T.N., Thien, N.D., Tu, V.H., Ngoc, P.T.A., Van, C.T., Long, P.K., Ho, H.L. and Quang, C.N.X., (2022). Climate change impacts on rice-based livelihood vulnerability in the lower Vietnamese Mekong Delta: Empirical evidence from Can Tho City and Tra Vinh Province. Environmental Technology & Innovation, 28, p.102834.
(10) Grey-Gardner, R. (2008). Remote Community Water Management – Report 27. Desert
(11) Mehta, L., (2006). Water and human development: Capabilities, entitlement and power. Human Development Occasional Papers (1992–2007) HDOCPA-2006-09, Human Development Report Office (HDRO), United Nations Development Programme (UNDP)
(12) SIWI, (2002). Balancing Competing Water Uses-Present status and New Prospects, Stockholm. International Water Institute (SIWI), Stockholm, Sweden.
(13) Carlevaro F, and Gonzalez C. (2011). Costing improved water supply systems for low-income communities: a practical manual. CDROM. World Health Organization, Geneva.
(14) DFID, (2011). Sustainable Livelihood. DFID, London.
(15) Smet J (2005). WELL fact sheet: domestic rainwater harvesting. Waterlines, 24: 13-20.
(16) Petersen, E., and Gould, J. (1999). Rainwater catchment systems for domestic supply: design, construction and implementation. Intermediate Technology Development Group Publishing. London.
(17) Pacey A, and Cullis A (1986). Rainwater harvesting: the collection of rainfall and runoff in rural areas. Intermediate Technology Publications. London.
(18) Muller, M. & Bellmann, C. (2016). Trade and Water: How Might Trade Policy Contribute to Sustainable Water Management? Geneva, Switzerland, International Centre for Trade and Sustainable Development.
(19) ILO (2013). “Sustainable development, decent work, and green jobs”. In the International Labour Conference, 102nd Session. International Labour Office. Geneva 2013.
(20) WWAP (UNESCO World Water Assessment Programme) (2013). “The United Nations World Water Development Report (2019): Leaving No One Behind”. Paris 2019.