Bài viết này phân tích những quy định pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền tham gia của trẻ em, chỉ ra tầm quan trọng, những trở ngại, thách thức và sơ bộ nêu ra một số gợi ý với việc nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tham gia của trẻ em ở nước ta trong thời gian tới.

Hội đồng trẻ em huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng tích cực thúc đẩy quyền tham gia của trẻ.

Nguồn: baolamdong.vn.

1. Quyền tham gia của trẻ em trong luật nhân quyền quốc tế

a) Nguồn và nội hàm của quyền tham gia của trẻ em trong luật nhân quyền quốc tế

Quyền tham gia của trẻ em trong luật nhân quyền quốc tế thể hiện tập trung ở các quy định của Công ước về quyền trẻ em (CRC).

Sự ra đời của CRC là một bước tiến lớn trong lịch sử luật nhân quyền quốc tế. CRC đã làm thay đổi sự công nhận toàn cầu về quyền trẻ em nói chung, trong đó có quyền tham gia của trẻ em. Trước khi CRC ra đời, trẻ em vẫn thường được coi là “chủ nhân tương lai” thay vì “hiện tại” của các xã hội. Việc chỉ được coi là những chủ nhân tương lai khiến trẻ em không được hưởng nhiều quyền công dân mà các em cũng phải được hưởng như người lớn. CRC thừa nhận rằng trẻ em cũng là những chủ thể của quyền thay vì chỉ là đối tượng chỉ hưởng thụ quyền thông qua việc trao cho trẻ quyền có tiếng nói trong các quyết định ảnh hưởng tới trẻ trực tiếp hoặc gián tiếp (quyền tham gia). 

Quyền tham gia của trẻ em thường được nhắc đến như là một trong ba nhóm quyền cơ bản của trẻ em trong CRC, bao gồm nhóm quyền được bảo vệ, nhóm quyền được chăm sóc, nhóm quyền được tham gia. Không có một định nghĩa chung về quyền tham gia của trẻ em được nêu trong CRC1, tuy nhiên quyền này thường được giải thích thông qua Điều 12 của CRC như là một nội dung trọng tâm của nhóm quyền tham gia. Ngoài ra, quyền tham gia của trẻ em còn được thể hiện qua một số điều khoản khác của CRC là Điều 13,14,15, và Điều 172.

Điều 12 đóng vai trò như một nguyên tắc hướng dẫn chung của CRC về quyền tham gia của trẻ em. Điều này thiết lập nền tảng về nội dung quyền tham gia của trẻ em và xác định nó nằm ở trung tâm của việc thực hiện tất cả các quyền dân sự và chính trị của trẻ em. Mục tiêu chính của Điều 12 là khuyến khích các quốc gia thành viên tạo điều kiện cho trẻ em hiểu và áp dụng các nguyên tắc dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống ở gia đình, trường học và xã hội nói chung.

Điều 12 CRC
1. Các Quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em, và những quan điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách thích đáng, tương ứng với độ tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ em.
2. Vì mục đích đó, trẻ em phải được đặc biệt trao cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có liên quan đến trẻ, trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp với những quy tắc thủ tục trong pháp luật quốc gia.

Điều 12 tập trung vào bốn yếu tố chính: tiếng nói, không gian, khán giả và ảnh hưởng3. Trong đó, “không gian” có nghĩa là trẻ em phải có cơ hội bày tỏ quan điểm  và phải được tạo điều kiện để có “tiếng nói” và bày tỏ quan điểm của mình. Quan điểm đó cần phải có “khán giả”, tức là trẻ phải nhận được sự chú ý, lắng nghe và có sự phản hồi từ người lớn. Nói cách khác, Điều 12 yêu cầu các quốc gia đảm bảo cho trẻ quyền bày tỏ quan điểm của mình, tức là tạo một không gian an toàn, phù hợp để trẻ có thể đưa ra ý kiến của trẻ và quan điểm của trẻ em cũng cần phải được “lắng nghe”.

Trong khi hầu hết các điều khoản của CRC có nguồn gốc từ các công ước về quyền con người trước đó như UDHR, ICCPR hay ICESCR, nội dung Điều 12 chỉ xuất hiện trong CRC. Mọi người đều có quyền được tham gia và bày tỏ ý kiến, tuy nhiên chỉ có trẻ em mới có quyền “được lắng nghe”. “Lắng nghe” ở đây không chỉ là việc “nghe” mà còn là “cân nhắc” hay “nhìn nhận” quan điểm của trẻ, bởi đôi khi trẻ em không thể diễn đạt một cách rõ ràng những mong muốn và nguyện vọng của mình như một người trưởng thành4. Theo Sherry Arnstein và Carole Pateman thì ảnh hưởng mà việc tham gia đem lại cho trẻ em mới chính là mục đích cuối cùng của việc tham gia, mới làm cho quyền này có hiệu quả và có ý nghĩa, nếu không thì việc tham gia đó chỉ mang tính hình thức hoặc giả tạo5,6.

Theo UNICEF, bên cạnh Điều 12, còn một số điều khoản khác của CRC cũng liên quan đến sự tham gia của trẻ em, tiêu biểu là:

- Điều 13 quy định quyền tự do ngôn luận của trẻ em, bao gồm quyền tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi loại thông tin và ý tưởng. Nhìn bề ngoài có thể thấy Điều 13 được coi là sự tái khẳng định về quyền tự do ngôn luận ở Điều 12, tuy nhiên, xét về nội dung, Điều 12 vượt xa sự công nhận đơn thuần về quyền tìm kiếm, truyền đạt và nhận mọi loại thông tin và ý tưởng. Nó bảo đảm quyền của trẻ em được tự do bày tỏ quan điểm và hơn nữa, được xem xét những quan điểm đó trong mọi vấn đề có thể liên quan đến trẻ em. Điều 13 sau đó khẳng định quyền của trẻ em không bị hạn chế về việc bày tỏ ý kiến. Nói cách khác, các quốc gia thành viên phải kiềm chế không can thiệp vào việc bày tỏ quan điểm của trẻ em. Mặt khác, Điều 12 đặt ra nghĩa vụ đối với các quốc gia thành viên trong việc chủ động thiết lập các cơ chế phù hợp để tạo điều kiện cho trẻ em tham gia trong mọi vấn đề và quyết định ảnh hưởng đến trẻ. Điều 13 cũng quy định các phương tiện phổ biến thông tin cho trẻ bao gồm các hình thức “bằng lời nói, văn bản hoặc bản in, dưới hình thức nghệ thuật hoặc thông qua bất kỳ phương tiện truyền thông nào khác mà trẻ em lựa chọn”. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ, nhóm đối tượng mà có thể chưa thể thể hiện được bản thân thông qua lời nói. Theo cách đó, Điều 13 là điều kiện tiên quyết để quyền được lắng nghe/quyền được lên tiếng của trẻ em có thể được thực hiện trong thực tế.

- Điều 14 là một cam kết quan trọng để bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo của trẻ em. Điều này cũng là một sự bổ sung của Điều 12, trong đó nhấn mạnh quyền của trẻ em thể hiện ý kiến và thực hành tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình một cách tự do và không bị áp lực hay cưỡng ép từ người lớn hoặc bất kỳ chủ thể nào khác. Trẻ em và cha mẹ hoặc người giám hộ của trẻ phải được tôn trọng trong việc thực hành tín ngưỡng hoặc tôn giáo của trẻ. Các quốc gia không được cưỡng ép trẻ em tham gia vào một tín ngưỡng hoặc tôn giáo cụ thể nào, đồng thời phải cung cấp hướng dẫn và giáo dục cho trẻ về quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo của trẻ có thể bị hạn chế chỉ trong trường hợp có lý do hợp lý và cần thiết như bảo đảm an ninh hoặc sức khỏe của cộng đồng, hoặc bảo vệ quyền và tự do của người khác; tuy nhiên, các hạn chế này phải tuân theo nguyên tắc của sự tương xứng, là cần thiết và không được lạm dụng.

- Điều 15 quy định quyền của trẻ em được tự do hội họp và kết giao, bao gồm việc tham gia những diễn đàn mà trong đó trẻ em có thể có cơ hội bày tỏ quan điểm của mình một cách tự do với người khác, kể cả thông qua các hoạt động xã hội, văn hóa, và thể thao. Quyền này giúp trẻ phát triển kỹ năng xã hội, tạo mối quan hệ bạn bè và học hỏi từ người khác. Trẻ em có quyền tự do tổ chức họp mặt, hội thảo, và lập các hội đoàn hoặc tổ chức nhằm thảo luận về các vấn đề quan trọng đối với trẻ, từ đó giúp trẻ nâng cao kỹ năng để thực hiện quyền được lên tiếng của trẻ ở Điều 12.

- Điều 17 quy định trẻ em có quyền tiếp cận nhiều nguồn thông tin trong nước và quốc tế. Nó cũng thừa nhận tầm quan trọng của các phương tiện truyền thông đại chúng trong khía cạnh này. Trẻ em cần phải được cung cấp những thông tin cần thiết về những vấn đề ảnh hưởng đến trẻ để có thể đưa ra quyết định về những vấn đề đó một cách tự do, đầy đủ và sáng suốt. Như vậy, Điều 17 củng cố nội dung của Điều 13 mà trong đó quy định rằng trẻ em có quyền tự do “tìm kiếm, truyền đạt và tiếp nhận tất cả các loại thông tin và tư tưởng ở mọi lĩnh vực...”7. Thông qua việc cung cấp thông tin cho trẻ, trẻ sẽ được trang bị những kỹ năng cần thiết, sự tự tin và sự trưởng thành để bày tỏ quan điểm của mình và tác động đến các quyết định liên quan đến mình8. Đây là điều kiện tiên quyết cần thiết để đạt được hiệu quả trong việc thực hiện quyền bày tỏ quan điểm của trẻ em là được tiếp cận thông tin, một yếu tố đã được Ủy ban về Quyền trẻ em khẳng định.

b) Ý nghĩa của quy định về quyền tham gia của trẻ em trong luật nhân quyền quốc tế 

Quyền tham gia của trẻ em là một cấu phần của quyền tham gia của công dân vào quản lý xã hội. Tầm quan trọng và cần thiết của sự tham gia của công dân là một vấn đề được thừa nhận trong mọi thể chế chính trị vì những lợi ích mà nó đem lại như góp phần tăng cường tính đại diện và tính chính danh, tính hiệu quả của hệ thống chính trị. Thông qua nhiều kênh, nhiều hình thức khác nhau, sự tham gia giúp cho lợi ích của các tầng lớp dân cư được quan tâm và bảo vệ tốt hơn, làm cho chính sách công phù hợp với nhu cầu của đại đa số nhân dân, hành vi và chính sách của các cơ quan công quyền phản ánh và đại diện cho lợi ích của đại đa số nhân dân và đáp ứng nhu cầu của người dân. Nếu không có sự tham gia của người dân vào quản trị công thì việc hoạch định chính sách công rất dễ trở thành công cụ của nhóm lợi ích đặc thù, đồng thời rất khó kiểm soát quyền lực của các cơ quan công quyền một cách hiệu quả.

Trẻ em, như là những công dân tích cực của xã hội, cũng nhận được nhiều lợi ích từ việc tham gia vào không chỉ những hoạt động hàng ngày trong gia đình, trường học mà cả quá trình ra quyết định ở xã hội. Thực tế là trẻ em cũng có những ý tưởng tốt trong những vấn đề liên quan đến trẻ. Trẻ có thể nghĩ ra những điều mà người lớn không nghĩ tới. Sự tham gia của trẻ em không chỉ là phương thức chuẩn bị cho tương lai khi trẻ trở thành người lớn mà còn là giải pháp quan trọng để cải thiện cuộc sống hiện tại của trẻ em. Sự tham gia cũng góp phần thực hiện tốt hơn các quyền khác của trẻ em và thúc đẩy sự phát triển trí tuệ, và cảm xúc của trẻ. Hart khẳng định rằng, sự tham gia giúp trẻ em tự bảo vệ mình; nó giúp đáp ứng nhu cầu của trẻ và cho phép trẻ phát triển hết tiềm năng9.

Sự tham gia của trẻ em đem lại lợi ích hai chiều. Một mặt, trẻ học được các kỹ năng như đàm phán, làm việc nhóm, giải quyết vấn đề liên quan đến chính bản thân trẻ cũng như cách tương tác với người lớn. Trẻ em được người lớn khuyến khích và hỗ trợ bày tỏ ý kiến của mình sẽ ít dễ bị lạm dụng hơn và do đó học cách bảo vệ bản thân tốt hơn. Uỷ ban về Quyền trẻ em của Liên hợp quốc cho rằng: “các quyết định liên quan đến trẻ em sẽ được biết đến rộng rãi hơn và có khả năng tạo ra kết quả tích cực hơn nếu  trẻ em cũng được tham gia vào quá trình ra quyết định đó”, và quá trình đó là "một phần trung tâm của việc trẻ em học cách chịu trách nhiệm, ra quyết định, phát triển lòng tự trọng và sự tự tin của trẻ”10. Mặt khác, thông qua quá trình này, người lớn có thể hiểu được rõ ràng nhất những điều mà trẻ mong muốn cũng như phù hợp nhất với trẻ. Trong thực tế, nhiều chính sách công mặc dù được xây dựng dành cho trẻ em nhưng lại dựa trên những giả định của người lớn thay vì ý kiến của chính trẻ em, vì thế không đưa ra được những bảo vệ tốt nhất dành cho trẻ. Như vậy, thông qua sự tham gia, trẻ em có thể giúp tạo ra một xã hội dân chủ và phát triển nhờ việc tăng tính hiệu quả của các chính sách công.

Xét cụ thể trong việc thực hiện CRC, bảo đảm sự tham gia của trẻ em có tác dụng việc thực hiện cả bốn nguyên tắc chính của Công ước, đó là: “Không phân biệt đối xử” (Điều 2),  “Vì lợi ích tốt nhất của trẻ” (Điều 3), “Quyền sống và phát triển của trẻ” (Điều 6) và “Tôn trọng quan điểm của trẻ” (Điều 12) – trong đó đặc biệt là nguyên tắc thứ tư. Việc thực hiện tất cả các nguyên tắc này đòi hỏi ý kiến, quan điểm của trẻ  phải luôn được xem xét trong mọi quá trình ra quyết định của các quốc gia thành viên.   Những quy định về quyền tham gia của trẻ em trong CRC có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý với các quốc gia thành viên. Hiện tại, hệ thống pháp luật có liên quan đến trẻ em của hầu hết quốc gia trên thế giới đã được xây dựng dựa trên các quyền trẻ em trong CRC, do đó, có thể khẳng định các quyền trẻ em nói chung, quyền tham gia của trẻ em nói riêng, đã trở thành xương sống của mọi chính sách dành cho và liên quan tới trẻ em ở các quốc gia11.

2. Quyền tham gia của trẻ em trong pháp luật Việt Nam

Với nhận thức trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, Đảng, Nhà nước và toàn xã hội Việt Nam luôn dành sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giáo dục và bảo đảm các quyền của trẻ em. Điều này được thể hiện thông qua Điều 37 của Hiến pháp năm 2013, trong đó nêu rõ: “(1) Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Quy định này cho thấy Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hoá những nguyên tắc của CRC, tạo ra cơ sở hiến định cho việc bảo đảm những quyền cơ bản của trẻ em trong thực tế.

Ngày 05/4/2016, Quốc hội đã thông qua Luật Trẻ em năm 2016 thay thế Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, trong đó bổ sung nhiều quy định mới nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 và CRC. Tương ứng với các Điều 12, 13, 14, 15 của CRC, Luật Trẻ em năm 2016 cũng có các quy định về quyền tham gia của trẻ em. Theo Luật, trẻ em có quyền được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về các vấn đề liên quan đến trẻ; được tự do hội họp theo quy định của pháp luật phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành và sự phát triển của trẻ; được cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân lắng nghe, tiếp thu, phản hồi ý kiến, nguyện vọng chính đáng (Điều 34). Trẻ em cũng có quyền được tiếp cận thông tin đầy đủ, kịp thời, phù hợp; có quyền tìm kiếm, thu nhận các thông tin dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật và được tham gia hoạt động xã hội phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành, nhu cầu, năng lực của trẻ (Điều 33); có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào (Điều 19).

Xét về phạm vi và hình thức thực hiện quyền tham gia của trẻ, tuỳ theo năng lực và độ tuổi phù hợp, pháp luật Việt Nam quy định trẻ được tham gia vào các vấn đề sau đây: xây dựng và triển khai chương trình, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Xây dựng và thực hiện quyết định, chương trình, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; Quyết định, hoạt động của nhà trường, cơ sở giáo dục khác, cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; Áp dụng biện pháp, cách thức chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, bảo vệ trẻ em của gia đình (khoản 1, Điều 74 Luật Trẻ em năm 2016). Hình thức tham gia của trẻ em được quy định bao gồm: diễn đàn, hội nghị, hội thảo, tọa đàm, cuộc thi, sự kiện; Thông qua tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em; hoạt động của Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoạt động vì trẻ em; hoạt động của câu lạc bộ, đội, nhóm của trẻ em được thành lập theo quy định của pháp luật; tham vấn, thăm dò, lấy ý kiến trẻ em; bày tỏ ý kiến, nguyện vọng trực tiếp hoặc qua kênh truyền thông đại chúng, truyền thông xã hội và các hình thức thông tin khác (khoản 2, Điều 74 Luật Trẻ em năm 2016).

Để bảo đảm quyền tham gia của trẻ em, Luật Trẻ em năm 2016 cũng quy định trách nhiệm của các chủ thể có liên quan, bao gồm:

Trách nhiệm của gia đình: gia đình là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của trẻ em đồng thời có vai trò quan trọng hình thành những phẩm chất của một công dân tương lai. Trong gia đình, mọi quyết định của cha, mẹ không chỉ ảnh hưởng ngay đến trẻ khi quyết định đó thực hiện mà còn ảnh hưởng tới cách hiểu của trẻ về việc lắng nghe người khác và làm thế nào để giải quyết xung đột về lợi ích. Do đó, theo Luật Trẻ em năm 2016, cha mẹ và các thành viên trong gia đình có trách nhiệm: tôn trọng, lắng nghe, xem xét, phản hồi, giải thích ý kiến, nguyện vọng của trẻ em phù hợp với độ tuổi, sự phát triển của trẻ em và điều kiện cũng như hoàn cảnh của mỗi gia đình; tạo điều kiện, hướng dẫn trẻ em tiếp cận các nguồn thông tin an toàn, phù hợp với độ tuổi, giới tính và sự phát triển toàn diện của trẻ; tạo điều kiện để trẻ em được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng đối với những quyết định, vấn đề của gia đình liên quan đến trẻ; đồng thời chỉ từ chối việc trẻ tham gia vào các hoạt động hay vấn đề nào đó mà ảnh hưởng đến lợi ích tốt nhất của trẻ (Điều 75).

Trách nhiệm của nhà trường: sau gia đình, nhà trường đóng vai trò thiết yếu trong đời sống hàng ngày của trẻ em, không chỉ là không gian cho việc học tập mà còn là nơi các em được tham gia các hoạt động giải trí lành mạnh và vui chơi. Tại đây, các em không chỉ được nuôi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước và gia đình mà còn được hình thành và củng cố hiểu biết, ý thức tuân thủ pháp luật. Vai trò của nhà trường vô cùng quan trọng trong việc đào tạo các em trở thành công dân có trách nhiệm và mẫu mực trong xã hội. Do đó, theo Luật Trẻ em năm 2016, nhà trường có trách nhiệm: tổ chức và tạo điều kiện cho trẻ em tham gia vào các hoạt động của Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, cũng như các câu lạc bộ, đội nhóm khác tại trường; mở rộng cơ hội cho các em tham gia vào các hoạt động ngoại khóa và xã hội; cung cấp thông tin về các chính sách, pháp luật và quy định giáo dục liên quan đến học sinh; khuyến khích trẻ em kiến nghị và bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về chất lượng giảng dạy và các quyền lợi chính đáng của mình; tiếp nhận và giải quyết các ý kiến, kiến nghị của trẻ em theo phạm vi trách nhiệm hoặc chuyển đến cơ quan có thẩm quyền, đồng thời thông báo kết quả cho các em một cách rõ ràng và minh bạch. (Điều 76).

Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội: Nhà nước và xã hội có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm quyền tham gia của trẻ em. Theo Luật Trẻ em năm 2016, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm đặt lợi ích tốt nhất của trẻ em làm trọng tâm trong các chương trình nghị sự, nghị quyết và các quyết định có liên quan đến sự sống còn, phát triển và an toàn của trẻ em; tích cực hoạch định và triển khai các kế hoạch kinh tế - xã hội nhằm bảo vệ và thúc đẩy các quyền và lợi ích của trẻ em. Các tổ chức xã hội cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền để thực thi các chính sách về trẻ em một cách hiệu quả. Các phương tiện thông tin đại chúng có trách nhiệm phổ biến ý kiến và quyền của trẻ em qua các chương trình, sản phẩm truyền thông, trong đó cần khuyến khích để trẻ em có thể trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất tin tức và bày tỏ ý kiến (Điều 77).

3. Những rào cản trong thực hiện quyền tham gia của trẻ em ở Việt Nam

Mặc dù có khung pháp luật tiến bộ về quyền tham gia của trẻ em, nhưng trong thực tế vẫn còn những rào cản trong việc thực hiện quyền này của trẻ em ở Việt Nam. Những rào cản này xuất phát từ một số yếu tố sau:

Truyền thống xã hội: quyền tham gia có thể được hiểu, quy định và thực hiện khác nhau trong các nền văn hoá, bối cảnh xã hội khác nhau. Sự tham gia của trẻ không xuất hiện trong nhiều nền văn hoá truyền thống, vì vậy, có sự phản đối của một bộ phận người lớn đối với quyền tham gia của trẻ em xuất phát từ các rào cản văn hoá. Việt Nam là một nước phương Đông, nơi mà theo truyền thống văn hoá, các giá trị của cộng đồng, của tập thể thường được đề cao, dẫn đến định kiến rằng, trẻ em phải vâng lời và lắng nghe ý kiến của cha mẹ hơn là bày tỏ ý kiến của mình. Điều nảy cản trở tính độc lập và khả năng trẻ em tự do thể hiện tiếng nói của mình. Nói cách khác, có những rào cản trong văn hóa truyền thống với việc bảo đảm quyền tham gia của trẻ em ở Việt Nam hiện nay.

Năng lực của các chủ thể: nhận thức chưa đầy đủ về quyền tham gia của trẻ em là một rào cản khác khiến cho việc bày tỏ ý kiến và tham gia vào các quá trình ra quyết định của trẻ em chưa được coi trọng thích đáng. Nhiều bậc cha mẹ do không hiểu rõ rằng trẻ cũng có quyền tham gia nên không cho phép hoặc không lắng nghe ý kiến của trẻ em về các vấn đề liên quan đến cuộc sống của trẻ trong gia đình. Một số giáo viên chưa được đào tạo về quyền của trẻ em nói chung, bao gồm quyền tham gia của trẻ em, nên thiếu cởi mở với sự tham gia ý kiến của trẻ ở nhà trường. Ngoài ra, chương trình giảng dạy hiện nay của nhà trường thường tập trung vào kiến thức lý thuyết mà chưa chú trọng đúng mức đến việc phát triển các kỹ năng giao tiếp, tư duy phản biện, và các kỹ năng mềm khác cần thiết để trẻ có thể thực hành quyền tham gia. Ở khu vực công, nhiều cán bộ nhà nước chưa được trang bị đầy đủ kiến thức và kỹ năng để hiểu và tương tác hiệu quả với trẻ em, vì thế thiếu khả năng nắm bắt tâm lý và sử dụng ngôn ngữ cũng như có hành vi phù hợp khi làm việc với trẻ - những vấn đề có thể ảnh hưởng đến khả năng bảo đảm quyền tham gia của trẻ em trong hoạt động của bộ máy nhà nước.

Một trong những ví dụ thực tế thể hiện những nỗ lực và cả những rào cản với việc bảo đảm quyền tham gia của trẻ em ở Việt Nam hiện nay là việc lấy ý kiến trẻ em về dự thảo Luật Đất đai.

Năm 2023, trong quá trình lấy ý kiến của người dân về Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), trường THCS Lương Yên, Hà Nội đã tổ chức hội nghị lấy ý kiến tham gia của học sinh của trường về vấn đề này. Hội nghị đã thu hút sự quan tâm và nhiều ý kiến trái chiều về sự tham gia của trẻ em, có thể tổng hợp như sau:

- Tôi thấy hình thức lắm.

- Chúng ta có thể góp ý về một lĩnh vực mà chúng ta chưa hiểu gì về lĩnh vực đó không? Thiết nghĩ hãy xin ý kiến các em về quyền của trẻ em, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức, pháp luật đã bảo đảm được cho những quyền đó được thực thi hiệu quả hay chưa, ai phải chịu trách nhiệm.

- Tôi rất tán đồng với việc để các cháu học sinh tiếp cận và tham gia ý kiến với bộ luật. Nhưng tùy từng luật như luật về giáo dục, về giao thông, về trật tự an ninh... xin đừng hình thức hóa về "dân chủ" vừa không hiệu quả, vừa mất thời gian và giảm ý nghĩa của luật!

- Theo quy định của pháp luật thì trẻ em trong mọi trường hợp phải có người giám hộ, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em. Lấy ý kiến của trẻ em trong một dự án luật có nội dung phức tạp có nên? Liệu có kết quả như mong muốn? Nghe tin...tổ chức lấy ý kiến của trẻ em xây dựng dự thảo Luật Đất đai, với tư cách là người trưởng thành, tôi thấy có sự không yên tâm và khó tin sẽ có kết quả tốt.

- Kể cả học sinh cấp 3 cũng chưa hẳn các em đã hiểu đầy đủ, nói sao trẻ em biết được, thậm chí các cháu chưa phân biệt được các nhóm đất. Việc này hoàn toàn không phù hợp.

- Các cháu thiếu nhi tuổi còn rất nhỏ nên suy nghĩ rất ngô nghê và tôi thật sự không hình dung nổi Luật Đất đai cũng chúng ta lại có thể được xây dựng dựa trên những ý kiến ngô nghê như vậy được. 

Từ những bình luận trên, có thể rút ra một số nhận xét như sau:

Thứ nhất, về cách nhìn nhận của người lớn về trẻ em. Rõ ràng trong xã hội Việt Nam hiện vẫn tồn tại những định kiến của người lớn về năng lực của trẻ em. Một số người lớn cho rằng trẻ em không đủ khả năng hiểu và đưa ra ý kiến có giá trị về các vấn đề phức tạp như Luật Đất đai. Điều này phản ánh quan điểm truyền thống xem trẻ em như những cá nhân chưa phát triển đầy đủ, không có khả năng đóng góp ý kiến quan trọng hoặc hiểu các vấn đề phức tạp. Rõ ràng, việc tham gia của trẻ em nên được nhìn nhận từ góc độ hai chiều, đặc biệt là việc tham gia giúp trẻ xây dựng những kỹ năng và kiến thức cần thiết. Sự tham gia này cũng là một cơ hội quan trọng để trẻ em phát triển kỹ năng sống, kỹ năng phân tích và đưa ra quyết định. Tham gia vào các quá trình quyết định giúp trẻ em học cách thảo luận, tranh luận, và hiểu biết sâu hơn về cách thức hoạt động của xã hội và pháp luật. Điều này có thể trang bị cho trẻ em những công cụ cần thiết để trở thành công dân tích cực và có trách nhiệm trong tương lai.

Thứ hai, lo ngại về tính phù hợp và hiệu quả là một điểm đáng được quan tâm. Nếu sự tham gia của trẻ em không thực sự ảnh hưởng đến quyết định cuối cùng, điều đó có thể khiến nỗ lực này trở thành vô nghĩa và chỉ mang tính hình thức. Nhiều người cho rằng, việc lấy ý kiến của trẻ em vào vấn đề Luật Đất đai không thực sự hiệu quả vì các ý kiến của trẻ em không được tính đến một cách nghiêm túc trong quá trình đưa ra quyết định, hoặc trẻ em không có đủ kiến thức và kỹ năng để hiểu và đánh giá các vấn đề phức tạp của Luật Đất đai. Để khắc phục điều này, cần phải có một quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng, trang bị cho trẻ em những kỹ năng và kiến thức cần thiết để trẻ có thể tham gia một cách có ý nghĩa. Ngôn ngữ sử dụng trong các tài liệu, cũng như trong giao tiếp giữa người lớn và trẻ em cũng phải đơn giản, rõ ràng và dễ hiểu để trẻ em có thể tiếp nhận và phản hồi một cách hiệu quả.

Xét chung, ví dụ trên cho thấy các nhà lập pháp, các chuyên gia pháp lý, cán bộ nhà nước, xã hội, giáo viên phải có sự nhạy bén trong cách tiếp cận, giải thích và huy động sự tham gia của trẻ em vào các vấn đề pháp lý. Cũng cần có sự đầu tư vào các chương trình giáo dục pháp luật dành cho trẻ em trong nhà trường, qua đó giúp trẻ em hiểu biết và quen thuộc với các quy định pháp luật từ sớm. Các chương trình này không chỉ giáo dục trẻ em về các quyền cơ bản của mình mà còn về cách thức mà các quy định pháp luật ảnh hưởng đến cuộc sống của các em và cách thức mà các em có thể tham gia vào việc hình thành các chính sách công, qua đó không chỉ giúp trẻ em phát triển thành những công dân hiểu biết, có trách nhiệm và có khả năng tham gia vào các quá trình xã hội và pháp lý một cách hiệu quả, mà còn thúc đẩy một xã hội tôn trọng và khuyến khích sự tham gia của tất cả mọi người, bất kể tuổi tác. 

Kết luận

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc củng cố và thực thi pháp luật liên quan đến quyền tham gia của trẻ em. Sự phát triển của các chính sách và khuôn khổ pháp lý cho thấy một cam kết ngày càng tăng từ phía Nhà nước nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền lợi của trẻ em. Tuy nhiên, mặc dù đã đạt được những tiến bộ nhất định, thực tiễn cho thấy vẫn còn nhiều thách thức cần được giải quyết để đảm bảo rằng quyền tham gia của trẻ em được thực hiện một cách hiệu quả và toàn diện.

ThS. Nguyễn Phương Uyên - GS.TS. Vũ Công Giao

Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 38 (06/2024)

---

* Bài viết là kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.04.12/21-25 “Về mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trong giai đoạn mới”
Tài liệu trích dẫn
(1) H. Cahill and B. Dadvand, ‘Re-conceptualising youth participation: A framework to inform action’, Children and Youth Services Review, vol. 95, pp. 243-253, Dec. 2018, doi: 10.1016/j.childyouth.2018.11.001.
(2) Cựu chủ tịch Ủy ban về quyền trẻ em của Liên hợp quốc, Jaap E Doek, đã nhấn mạnh rằng, Điều 12 được coi là một trong những trụ cột - cùng với các Điều 13 và 15 - cho việc hiểu và thực hiện quyền tham gia của trẻ em. 
(3) N. Devas and U. Grant, ‘Local government decision‐making-citizen participation and local accountability: some evidence from Kenya and Uganda’, Public Admin & Development, vol. 23, no. 4, pp. 307-316, Oct. 2003, doi: 10.1002/pad.281.
(4) S. Tikare, D. Youssef, P. Donnelly-Roark, and P. Shah, ‘Organizing Participatory Processes in the PRSP’, 2001. [Online]. Available: https://api.semanticscholar.org/CorpusID:14186739
(5) C. Pateman, Participation and Democratic Theory, 1st ed. Cambridge University Press, 1970. doi: 10.1017/CBO9780511720444.
(6) S. R. Arnstein, ‘A Ladder Of Citizen Participation’, Journal of the American Institute of Planners, vol. 35, no. 4, pp. 216–224, Jul. 1969, doi: 10.1080/01944366908977225.
(7) UN Committee on the Rights of the Child (CRC), ‘General comment No. 12 (2009): The right of the child to be heard, CRC/C/GC/12’. Jul. 20, 2009.
(8) UN Committee on the Rights of the Child (CRC), ‘General comment No. 12 (2009): The right of the child to be heard, CRC/C/GC/12’. Jul. 20, 2009.
(9) R. Hart, ‘Children’s Participation: From Tokenism To Citizenship’, Innocenti Essays, vol. 4, Feb. 1992.
(10) UN Committee on the Rights of the Child (CRC), ‘General comment No. 12 (2009): The right of the child to be heard, CRC/C/GC/12’. Jul. 20, 2009.
(11)  J. Wall, Children’s rights: today’s global challenge. Lanham: Rowman & Littlefield, 2017.