Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0).  Lực lượng lao động hiện nay của Việt Nam mới chỉ tập trung vào các phân khúc lao động phổ thông, lao động bậc thấp và bậc trung. Chất lượng nguồn nhân lực và bảo đảm quyền làm việc của người lao động luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Bài viết tập trung làm rõ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về bảo đảm quyền làm việc của người lao động trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và đề xuất một số kiến nghị về vấn đề này.

Lực lượng lao động là đối tượng chịu tác động trực tiếp của Cách mạng 
công nghiệp lần thứ tư. Nguồn: lyluanchinhtri.vn.

1. Bối cảnh

Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống xã hội của con người, trong đó vấn đề việc làm và bảo đảm quyền làm việc là yêu cầu bức thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi gia đình và cá nhân. Bên cạnh những tác động tích cực như tạo ra nhiều việc làm mới có trình độ công nghệ cao, năng suất cao, quyền làm việc rộng mở với nhiều người và khai thác sức sáng tạo tiềm năng của con người, từ đó tạo ra những công việc thông minh, trí tuệ thì Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng có nhiều tác động tiêu cực liên quan đến bảo đảm quyền làm việc của người lao động. Khi tự động hóa thay thế lao động chân tay; robot, máy móc thay thế con người trong nhiều lĩnh vực, hàng triệu lao động trên thế giới rơi vào cảnh thất nghiệp, nhất là những người làm trong lĩnh vực bảo hiểm, môi giới bất động sản, tư vấn tài chính, vận tải, nhân viên bán hàng, may mặc, giày da...

Bên cạnh đó, Cách mạng công nghiệp 4.0 đặc biệt tác động đến quyền làm việc của nhóm xã hội dễ bị tổn thương như phụ nữ, người khuyết tật, trẻ em, người cao tuổi v.v.. “Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ giúp các quốc gia có cơ hội phát triển thịnh vượng hơn, kết nối và hội nhập nhanh chóng, dễ dàng hơn, bảo đảm tốt hơn các quyền con người, đồng thời cũng phải đối diện với những thách thức về quyền lao động, việc làm, bất bình đẳng, sự gia tăng tính dễ bị tổn thương cho các nhóm đối tượng trong xã hội...”1.

Trong quá trình tiến tới thời điểm “dân số vàng”, khoảng 20 năm qua, tổng số lao động Việt Nam đã tăng thêm khoảng 19 triệu người, từ mức 35 triệu (năm 1996) lên 54 triệu (năm 2016). Điều này là lợi thế khi nhiều nước phát triển đang suy giảm nguồn lao động, nhưng lại là điểm yếu khi máy móc làm thay con người. Hiện nay, lực lượng lao động Việt Nam mới chỉ có trên 23% có bằng cấp, chứng chỉ, trong số đó hơn 50% là có bằng cấp từ cao đẳng và đại học trở lên, chứng chỉ nghề trình độ trung cấp chiếm 5,42% và chứng chỉ nghề ngắn hạn chiếm 5,6% tổng lực lượng lao động2. Bên cạnh đó, cơ cấu lao động theo các cấp trình độ đào tạo còn bất hợp lý, không thực sự phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội. Việc thiếu các chuyên gia công nghệ thông tin có tay nghề cao dẫn đến lỗ hổng, đặc biệt là an ninh mạng: Việt Nam được xếp hạng 101 trong số 193 quốc gia về chỉ số an ninh mạng năm 2017, xếp sau Myanmar, Lào và Campuchia3.

Tuy nhiên, đang có một nghịch lý tồn tại ở thị trường lao động là tỷ lệ thất nghiệp của những người đã qua đào tạo nghề nghiệp, đặc biệt của những người có trình độ đại học thường cao gấp đôi chỉ số thất nghiệp chung của toàn bộ lực lượng lao động, hay nói cách khác là nguồn nhân lực chất lượng cao dôi dư khi nhu cầu vẫn còn rất lớn. Nguyên nhân lớn nhất dẫn tới tình trạng này là do chất lượng đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng. Trong khi đó, xu hướng già hóa dân số đang thể hiện khá rõ nét. Trong năm 2017, độ tuổi trung bình ở Việt Nam là 30,4 và được dự báo sẽ là 42,1 vào năm 2050. Do tỷ lệ dân số ở độ tuổi trên 65 gia tăng, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động đang suy giảm.

Trước những tác động mạnh mẽ và rất nhanh của Cách mạng công nghiệp 4.0, để tận dụng, nắm bắt những cơ hội tốt và giảm thiểu tối đa những khó khăn, tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng này, Đảng và Nhà nước ta đã xác định quan điểm, chủ trương, đường lối về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và bảo đảm quyền làm việc cho người lao động, tập trung vào các nhiệm vụ như: xây dựng và hoàn thiện chính sách, chiến lược và pháp luật lao động; điều chỉnh, cơ cấu lực lượng lao động; nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nghề; giải quyết mối quan hệ giữa đào tạo và việc làm, tổ chức tốt cơ sở dự báo nhu cầu đào tạo...

2. Quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về bảo đảm quyền làm việc của người lao động trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Là quốc gia đang phát triển, còn nhiều khó khăn nhưng Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định bảo đảm quyền làm việc cho mỗi người dân vừa là vấn đề cấp bách trước mắt, vừa là những vấn đề chiến lược lâu dài của nền kinh tế. Trước làn sóng tác động mạnh mẽ và nhanh chóng của Cách mạng công nghiệp 4.0, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định quan điểm, chủ trương về việc tận dụng những tác động tích cực và giải pháp đối phó với những tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng này đối với quyền con người nói chung và quyền làm việc của người lao động nói riêng. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “... nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước...”4. Dựa trên công nghệ mới, hiện đại để phát triển các ngành công nghiệp vẫn còn có lợi thế (chế biến nông sản, dệt may, da giày...), tạo nhiều việc làm, sản xuất hàng xuất khẩu, đóng góp lớn vào giá trị gia tăng quốc gia5.

Trên cơ sở đó, Đảng đặt ra mục tiêu về xã hội: “Đến năm 2025, tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 25%; tỷ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị năm 2025 dưới 4%...”6. Đồng thời, định hướng về phát triển nguồn nhân lực và việc làm: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới;... bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”7. “Đào tạo con người theo hướng đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”8.

Bên cạnh đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của ban Chấp hành Trung ương về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Đảng ta nhận định: “Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đất nước...; Cách mạng công nghiệp 4.0 được áp dụng trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; xuất hiện ngày càng nhiều hình thức kinh doanh, dịch vụ mới, xuyên quốc gia, dựa trên nền tảng Cách mạng công nghiệp 4.0 và Internet đang tạo nhiều cơ hội việc làm, thu nhập, tiện ích, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân... Tuy vậy, mức độ chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 của nước ta còn thấp. Thể chế, chính sách còn nhiều hạn chế và bất cập. Cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu...”.

Trên cơ sở đó, Đảng khẳng định quan điểm chỉ đạo: (1) Chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng; đồng thời nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nội hàm, bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 để quyết tâm đổi mới tư duy và hành động, coi đó là giải pháp đột phá với bước đi và lộ trình phù hợp là cơ hội để Việt Nam bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội; (2) Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại cả cơ hội và thách thức. Phải nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội thông qua nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu tiên tiến của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cho các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, nhất là một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới. Chủ động phòng ngừa, ứng phó để hạn chế các tác động tiêu cực, bảo đảm quốc phòng, an ninh, an toàn, công bằng xã hội và tính bền vững của quá trình phát triển đất nước; (3) Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 yêu cầu phải đổi mới tư duy về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng, hoàn thiện thể chế cho phù hợp. Cần có cách tiếp cận mở, sáng tạo, cho thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra, tạo mọi thuận lợi cho đổi mới sáng tạo. Tránh mọi biểu hiện bàng quan, thiếu tự tin, thụ động, nhưng không chủ quan, nóng vội, duy ý chí; (4) Phát huy tối đa các nguồn lực, bảo đảm đủ nguồn lực cho việc chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, xác định nguồn lực bên trong là quyết định, chiến lược, cơ bản lâu dài; nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của toàn xã hội. Mục tiêu đặt ra là: “ Tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hoá đất nước; phát triển mạnh mẽ kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái”.

Để đạt được các mục tiêu trên, Đảng đề ra các chủ trương, chính sách về bảo đảm quyền làm việc trong tâm thế chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Về hoàn thiện thể chế, tạo lập hành lang pháp lý cho việc triển khai các mô hình lao động, việc làm mới trên nền tảng công nghệ số và hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, xử lý kịp thời các thách thức đặt ra đối với phát triển xã hội. Về phát triển nguồn nhân lực, Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 đặt mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và chính sách phát triển nguồn nhân lực là một trong 8 chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0: "Rà soát tổng thể, thực hiện đổi mới nội dung và chương trình giáo dục, đào tạo theo hướng phát triển năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển; đưa vào chương trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu. Đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số; lấy đánh giá của doanh nghiệp làm thước đo cho chất lượng đào tạo của các trường đại học trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên các nền tảng số. Có cơ chế khuyến khích và ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp công nghệ tham gia trực tiếp vào quá trình giáo dục và đào tạo, tạo ra sản phẩm phục vụ cho nền kinh tế số. Xây dựng một số trung tâm giáo dục, đào tạo xuất sắc về công nghệ theo hợp tác công - tư. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút, sử dụng nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển mạnh đào tạo nghề và hỗ trợ đào tạo kỹ năng cho chuyển đổi công việc. Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho người lao động khi tham gia đào tạo lại, đào tạo nâng cao chuyên môn và kỹ năng để chuyển đổi công việc. Hình thành mạng học tập mở của người Việt Nam. Thực hiện theo lộ trình phổ cập kỹ năng số, kỹ năng bảo đảm an toàn, an ninh mạng đạt trình độ cơ bản cho người dân. Đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, xây dựng văn hóa số trong cộng đồng". Đây là bước khởi đầu cho những văn kiện chính thức của Đảng về chuyển đổi số và cũng là bước phát triển tư duy kịp thời của Đảng ta trong xu thế phát triển trước tác động của cách mạng công nghiệp 4.09.

Ngày 04/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó đề ra các giải pháp về bảo đảm quyền làm việc: “...5. Thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới, trong đó cần tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM), ngoại ngữ, tin học trong chương trình giáo dục phổ thông; đẩy mạnh tự chủ đại học, dạy nghề; thí điểm quy định về đào tạo nghề, đào tạo đại học đối với một số ngành đặc thù. Biến thách thức dân số cùng giá trị dân số vàng thành lợi thế trong hội nhập và phân công lao động quốc tế”. Theo đó, giao trách nhiệm cho các Bộ, ngành có liên quan: (1) Bộ Giáo dục và Đào tạo: thúc đẩy triển khai giáo dục về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) trong chương trình giáo dục phổ thông; tổ chức thí điểm tại một số trường phổ thông ngay từ năm học 2017 - 2018. Nâng cao năng lực nghiên cứu, giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học; tăng cường giáo dục những kỹ năng, kiến thức cơ bản, tư duy sáng tạo, khả năng thích nghi với những yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; (2) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: a) Đổi mới đào tạo, dạy nghề trong hệ thống các trường đào tạo nghề theo hướng phát triển nguồn nhân lực, chuyển đổi nghề nghiệp có kỹ năng phù hợp, có thể tiếp thu, làm chủ và khai thác vận hành hiệu quả những tiến bộ công nghệ của Cách mạng công nghiệp thứ 4; b) Nghiên cứu, đề xuất các chính sách, giải pháp khắc phục, giảm thiểu tác động, ảnh hưởng của Cách mạng công nghiệp 4.0 tới cơ cấu thị trường lao động, an sinh xã hội.

Để cụ thể hóa chủ trương của Đảng về chuyển đổi số và phát triển nguồn nhân lực số phục vụ quá trình chuyển đổi số toàn diện ở nước ta, ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Theo đó, “lựa chọn, đào tạo, tập huấn đội ngũ tối thiểu 1.000 chuyên gia về chuyển đổi số cho ngành, lĩnh vực, địa phương. Các chuyên gia này tiếp tục đào tạo lại cho cán bộ liên quan ở cơ quan, tổ chức mình và trở thành lực lượng nòng cốt để dẫn dắt, tổ chức và lan tỏa tiến trình chuyển đổi số quốc gia”. Đồng thời yêu cầu “Thúc đẩy chuyển đổi số xã hội, tập trung vào chuyển đổi kỹ năng, cung cấp các khóa học đại trà trực tuyến mở, hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp lớn trên thế giới để đào tạo, tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng về công nghệ số và chuyển đổi số, hình thành văn hóa số. Chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số để phát triển xã hội số, không ai bị bỏ lại phía sau”.

Tập trung cho nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngày 28/01/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 146/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động thúc đẩy thực hiện chuyển đổi số; phổ cập kỹ năng số cho các đối tượng tham gia vào quá trình chuyển đổi số quốc gia, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số trong từng ngành, lĩnh vực, địa phương.

Thực hiện cam kết tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới năm 1992 ở Rio de Janerio, Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững với 17 mục tiêu về phát triển bền vững, Việt Nam đã ban hành nhiều Chiến lược, Kế hoạch hành động thực hiện phát triển bền vững. Trong đó, phải kể đến Nghị quyết số 136/NQ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ về phát triển bền vững. Mục tiêu 8 của Nghị quyết đã khẳng định: “Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người”. Để thực hiện mục tiêu này, Chính phủ đã giao cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nhiệm vụ: trong giai đoạn 2020 - 2030,... “thực hiện các giải pháp đổi mới và phát triển giáo dục nghề nghiệp; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao để đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; tăng cường gắn kết và huy động doanh nghiệp tham gia giáo dục nghề nghiệp gắn với giải quyết việc làm cho người lao động; thực hiện tốt chính sách, giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động gắn với nâng cao chất lượng việc làm; tiếp tục mở rộng diện bao phủ, phát triển đối tượng tham gia và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp”.

Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã nhận định đúng đắn về những tác động, nhất là những thách thức của Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với nguồn nhân lực và vấn đề việc làm của người lao động. Trên cơ sở đó, đề ra những yêu cầu, nhiệm vụ nhằm tận dụng những lợi thế, khắc phục những khó khăn do cuộc Cách mạng này đem lại, giúp từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và bảo đảm quyền làm việc cho người lao động.

3. Một số kiến nghị, đề xuất

Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới về mọi mặt của đời sống xã hội, chỉ khác nhau ở mức độ nhanh chậm của các giai đoạn phát triển của nó. Việt Nam với đặc thù nền kinh tế đang phát triển với tốc độ nhanh, có nhiều tiềm lực nhưng đồng thời cũng tồn tại nhiều thách thức ngay cả ở thị trường lao động truyền thống như: lao động có trình độ và kỹ năng thấp, cơ sở vật chất, thiết bị công nghệ còn hạn chế, công nghiệp sáng chế, chế tạo còn yếu kém, sự phát triển không bền vững, dễ bị tác động bởi các yếu tố xung quanh, ô nhiễm và suy thoái môi trường nặng nề... Để có thể kiểm soát tốt, đón bắt kịp thời những tác động tích cực của Cách mạng công nghiệp 4.0 và thúc đẩy phát triển việc làm, bảo đảm tốt hơn các quyền cho người lao động, xuất phát từ những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tác giả có một số đề xuất, kiến nghị như sau:

Thứ nhất, trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, cần xây dựng chiến lược, kế hoạch hành động có tính chất tổng thể tiếp nhận và ứng phó với Cách mạng công nghiệp 4.0 trong lĩnh vực lao động, việc làm. Chiến lược và kế hoạch hành động đó phải đánh giá sát thực điều kiện và tiềm năng của Việt Nam trong cuộc Cách mạng này cũng như những tác động đối với vấn đề lao động, việc làm; dự báo cả những tác động trong tương lai. Trên cơ sở đó, có giải pháp cụ thể trong từng giai đoạn đối với từng nội dung của quyền làm việc.

Thứ hai, Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra trên phạm vi toàn cầu, cần có sự chung tay cùng giải quyết của các quốc gia. Một hệ thống pháp luật lao động phù hợp với các yêu cầu của quá trình toàn cầu hóa là điều kiện cần thiết để tận dụng thời cơ, phát huy thế mạnh của lực lượng lao động nước ta. Do đó, Việt Nam cần tham gia sâu rộng hơn nữa vào hệ thống pháp luật lao động quốc tế, thông qua việc gia nhập, phê chuẩn thêm công ước quốc tế và khu vực về lao động; tăng cường ảnh hưởng của Việt Nam đến quá trình xây dựng pháp luật lao động quốc tế. Đồng thời, tiếp tục nội luật hóa các tiêu chuẩn lao động quốc tế, đặc biệt là các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản theo Tuyên bố năm 1998 của ILO phù hợp với trình độ, mức độ phát triển kinh tế - xã hội và thể chế chính trị của Việt Nam, phục vụ quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 5/11/2016 của Hội nghị 4.0, Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII.

Thứ ba, Đảng ta đã khẳng định, “... Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh của các cấp, các ngành”10. Vận dụng trong lĩnh vực lao động, việc làm, cần thiết có sự kết nối giữa các chương trình, chính sách về công nghệ thông tin, chuyển đổi số, phát triển nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo... với quyền làm việc.

Thứ tư, rà soát, đánh giá toàn diện hệ thống pháp luật lao động cả trên phương diện kỹ thuật lập pháp cũng như trong khâu tổ chức thực hiện để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của pháp luật lao động đáp ứng sự thay đổi của việc làm trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó, đặc biệt chú trọng đến những việc làm mới, được áp dụng công nghệ số. Việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật lao động một mặt phải bảo đảm phù hợp với quy luật của thị trường nhưng mặt khác phải bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động, trong đó không thể bỏ qua những đặc thù của lực lượng lao động là đối tượng dễ bị tổn thương trong việc tiếp cận và tìm kiếm việc làm. Pháp luật phải hạn chế sự bất bình đẳng trong quan hệ lao động mới; bất bình đẳng giữa lao động có trình độ chuyên môn và lao động không có trình độ chuyên môn hoặc trình độ chuyên môn thấp.

Nâng cao tính khả thi của Bộ luật Lao động và bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật thông qua việc nghiên cứu, sửa đổi các luật như Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Việc làm, Luật Công đoàn, Luật Hợp tác xã; xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động năm 2019... nhằm sớm tạo điều kiện cho người dân tiếp cận và tìm kiếm việc làm thỏa đáng. Do đó, thay vì chỉ tạo ra những thay đổi trong hệ thống chính sách, pháp luật, cần thay đổi cả về nhận thức trong việc thực thi pháp luật về lao động.

Thứ năm, chuyển đổi số hay số hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng như tạo ra nhiều việc làm mới hay đào tạo, nâng cao kỹ năng cho người lao động cũng cần chú trọng giữ gìn, bảo tồn văn hóa dân tộc và chủ quyền quốc gia. “Hình thành văn hóa số gắn với bảo vệ văn hóa, giá trị đạo đức căn bản của con người và chủ quyền số quốc gia. Chuyển đổi số là phương thức để thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc11.

Thứ sáu, chú trọng nhóm xã hội dễ bị tổn thương, đặc biệt là phụ nữ nhằm giảm khoảng cách về giới trong tiếp cận với công nghệ. Theo đó, cần giải quyết khoảng cách giới bằng cách nhấn mạnh đến tư duy sáng tạo của lao động phụ nữ và khuyến khích họ tham gia tích cực vào quá trình đổi mới thông qua các chương trình công nghệ thông tin và STEM, từ đó giúp phụ nữ cạnh tranh tốt hơn trong thị trường lao động và thúc đẩy tính dịch chuyển xã hội của họ. Đối với người khuyết tật, do hạn chế về sức khỏe tinh thần và thể chất thì những việc làm có trình độ, kỹ thuật lao động thấp vẫn cần được duy trì và phát triển phù hợp với họ. Bởi lẽ, lựa chọn một việc làm đối với một người không chỉ là kiếm sống, thu nhập mà còn giúp người lao động khẳng định giá trị bản thân, đóng góp cho xã hội và phát huy lối sống tích cực./.

ThS. Đặng Thị Loan

Viện Quyền con người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 37(04/2024)

---

Tài liệu trích dẫn
(1) Alekseev S.S. Triết học pháp luật, Mátxcơva, 1998, tr.131 (bản tiếng Nga).
(2) Baskin Yu.Ya. Các tiểu luận về triết học pháp luật, tr. 54 (bản tiếng Nga).
(3) Võ Khánh Vinh, Về xã hội pháp quyền Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2020.
(4) Trích theo: Alekseev S.S. Triết học pháp luật, Mátxcơva, 1998, tr.135 (bản tiếng Nga).
(5) Schelling F.V. Toàn tập, T. 1, tr. 456 (bản tiếng Nga).
(6) Tài liệu đã dẫn, tr. 450.
(8) Schelling F.V. Toàn tập, T. 1, tr. 447 (bản tiếng Nga).
(8) Tài liệu đã dẫn, tr. 458.
(9) Alekseev S.S. Triết học pháp luật, Mátxcơva, 1998, tr.136 (bản tiếng Nga).
(10) E.A. Lukaseva (Chủ biên), Lý luận chung về quyền con người, tr.136 (bản tiếng Nga).
(11) Alekseev S.S. Triết học pháp luật, Mátxcơva, 1998, tr.138 (bản tiếng Nga).
(12) Alekseev S.S. Triết học pháp luật, Mátxcơva, 1998, tr.142 (bản tiếng Nga).