Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là sự kết tinh truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hoá của nhân loại, là tài sản tinh thần vô giá Người để lại cho Đảng và nhân dân ta. Bài viết nêu bật nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, phân tích làm rõ thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, đề xuất một số phương hướng vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người ở Việt Nam thời gian tới.
1. Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc. Với những cống hiến xuất sắc cho dân tộc Việt Nam và cho nhân loại tiến bộ trên thế giới, năm 1987, nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết 24C/1865 tôn vinh Người là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam.
Nhận thức, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam được hình thành trong quá trình hoạt động cách mạng rất toàn diện và sâu sắc, trở thành "tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển của các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Thứ nhất, tư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh là sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ quyền con người, trước hết là quyền tự quyết dân tộc
Trước khi Người ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, Hồ Chí Minh - lúc đó là thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, đã luôn trăn trở về địa vị của nước An Nam với xứ Nam Kỳ là thuộc địa, xứ Bắc Kỳ là nửa thuộc địa (danh nghĩa là “bảo hộ” nhưng thực tế quản lý lại là “thuộc địa” của Pháp), xứ Trung Kỳ nằm dưới sự “bảo hộ” của nước Pháp. Người dân Việt Nam khi đó đều nhận thức được vị thế “vong quốc nô”, Người từng nói: “Từ ngày bị đế quốc Pháp xâm chiếm, nước ta là một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”2, hậu quả là người Việt Nam không có “quyền làm người”. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” nổi tiếng, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã cho thấy tình cảnh của người dân thuộc địa châu Á, châu Phi, mà cái kết ở trong nhận định chua chát của chính một người Pháp: “Anh có biết mạng của một người An Nam đáng giá bao nhiêu không? Không đáng một trinh! Thật đấy”3. Chính vì vậy, Người đã dành cả cuộc đời mình để “tìm lại hình của Nước”, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc - theo Luật quốc tế về quyền con người thì đó chính là quyền tự quyết của dân tộc. Với Hồ Chí Minh, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”4.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là sự kế thừa tư tưởng nhân đạo, nhân văn của nhân loại, thể hiện trong nhận thức và quan điểm của Người. Hồ Chí Minh quan niệm: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội”. Nếu hôm nay, họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”5.
Thứ ba, cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng đoàn kết vì con người
Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc đậm chất Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tình đoàn kết, nghĩa đồng bào, do đó, chủ trương của Người luôn là tìm ra điểm chung để khắc phục những khác biệt, và những điểm chung trong tư tưởng Hồ Chí Minh đều hướng tới con người. Tư tưởng đoàn kết vì con người mang tính cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh, là một trong những “bất biến” trong tư tưởng của Người để trên cơ sở đó “ứng vạn biến” trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Thể hiện trong quá trình Hồ Chí Minh xác định đường lối cách mạng và chủ trương xây dựng lực lượng cách mạng Việt Nam: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, trong đó mục tiêu cụ thể là “Dân chúng được tự do tổ chức; Nam nữ bình quyền, v.v..; Phổ thông giáo dục theo công nông hoá; Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập; dựng ra Chính phủ công nông binh; Tổ chức ra quân đội công nông; thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v..) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; Mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm tám giờ”6. Con đường cách mạng và những mục tiêu cụ thể của cách mạng Việt Nam nêu trên cho thấy rõ tinh thần “vì con người” của Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, Người đề ra sách lược và chương trình hành động của Đảng ta, trong đó có nội dung: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh Niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến...) thì phải đánh đổ”7. Cùng với đó là tư tưởng đoàn kết lương giáo, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hướng tới mục tiêu “tốt đời đẹp đạo”; tư tưởng bình đẳng, sống chung giữa các nền văn hóa, cùng giúp đỡ nhau phát triển giữa nam và nữ, giữa các dân tộc anh em, giữa miền ngược với miền xuôi, giữa các thế hệ già - trẻ... Tư tưởng tôn trọng sự khác biệt, chung sống hòa bình, đoàn kết cùng giúp nhau tiến bộ của Người luôn song hành với tư tưởng tránh xung đột, tránh chiến tranh ở mức cao nhất để người dân được sống trong hòa bình, ổn định và phát triển. Xung đột, chiến tranh là trạng thái xã hội khiến cho ngay cả quyền cơ bản nhất là quyền được sống của con người cũng khó được bảo đảm. Vì vậy, tránh được xung đột, tránh được chiến tranh chính là một trong những điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người.
Thứ tư, nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là luôn hướng đến mục tiêu bảo đảm hạnh phúc cho mọi người
Hồ Chí Minh khẳng định phải làm cho dân được ấm no, hạnh phúc. Đường lối cách mạng Việt Nam do Người khởi thảo nêu rõ: “thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; Mở mang công nghiệp và nông nghiệp”8. Trong bài nói chuyện với đồng bào các dân tộc tỉnh Tuyên Quang, Người nói: “Chủ nghĩa xã hội nghĩa là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng”9. Trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp, mặc dù rất tập trung cho nhiệm vụ đánh giặc, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt vấn đề kháng chiến và kiến quốc song hành. Vào thời điểm tháng 11/1945, đất nước đang đối mặt với thù trong giặc ngoài, phía Nam chiến đấu chống Pháp, phía Bắc đối phó với quân đội Tưởng Giới Thạch, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quan tâm, kêu gọi nhân tài tham gia kiến thiết nước nhà trên 4 lĩnh vực là ngoại giao, quân sự, giáo dục và kinh tế. Trong đó, kiến thiết kinh tế chiếm vị trí số 2, chỉ sau quân sự. Trong thư gửi tướng quân đội Tưởng Giới Thạch là Trần Tu Hòa10, Hồ Chí Minh nêu rõ 6 điểm trong Chính cương của Việt Minh, có nhiệm vụ thứ hai là “Về kinh tế”, sau nhiệm vụ thứ nhất là “Liên hiệp lực lượng cả nước để giành lại quyền độc lập, xây dựng một nước Dân chủ Cộng hòa”. Các nhiệm vụ khác gồm Về xã hội, Về văn hóa, Về ngoại giao... Chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh viết trong tác phẩm Thường thức chính trị năm 1953 có ghi rõ 4 chính sách mấu chốt để phát triển kinh tế nước ta gồm: Công tư đều lợi, Chủ thợ đều lợi, Công nông giúp nhau, Lưu thông trong ngoài11. Trong đó, “công tư đều lợi” có nghĩa là kinh tế quốc doanh với kinh tế tư bản dân tộc, kinh tế cá nhân của nông dân và thợ thủ công đều là lực lượng rất cần thiết cho công cuộc xây dựng kinh tế đất nước, các thành phần kinh tế này cùng nhau phát triển vì lợi ích quốc gia, lợi ích của đại đa số nhân dân. Hồ Chí Minh giải nghĩa “Chủ thợ đều lợi” là “Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ lợi quyền của công nhân. Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên”. Công nhân và nông dân tích cực sản xuất phục vụ nhu cầu công nghiệp, nông nghiệp, qua đó tăng cường liên minh công nông. Lưu thông trong ngoài là chính sách mở cửa kinh tế, giao thương quốc tế, xuất nhập khẩu. Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để một trong những lĩnh vực rất quan trọng của đất nước - lĩnh vực kinh tế phát triển thì tôn trọng, bảo đảm và mở rộng quyền kinh tế của người dân là hết sức cần thiết. Ngay từ những năm đầu thành lập Đảng cho đến những năm Đảng nắm chính quyền, Người đã luôn quan tâm và tạo điều kiện để tư bản dân tộc và kinh tế tư nhân phát triển trong khuôn khổ chính sách và pháp luật xã hội chủ nghĩa, đáng chú ý là yêu cầu hài hòa về lợi ích giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân; giữa tư bản và công nhân. Đặt trong bối cảnh cách mạng Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến trước Đổi mới, những tư tưởng của Hồ Chí Minh về kinh tế nói chung và bảo đảm quyền kinh tế cho nhân dân nói riêng đã có tính vượt trước, đậm chất Việt Nam xuất phát từ yếu tố cốt lõi trong tư tưởng của Người là “vì con người”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lớp bổ túc văn hóa của bà con lao động ở khu Lương Yên,
thành phố Hà Nội (ngày 27-3-1956). Nguồn: hochiminh.vn
2. Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Thứ nhất, trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng gần 95 năm qua, Đảng ta luôn trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người; phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, nhân dân được sống ấm no, tự do, hạnh phúc trong một xã hội công bằng, bình đẳng và văn minh.
Trong công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng ta gần 40 năm qua, con người luôn được Đảng, Nhà nước đặt ở vị trí trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là chủ thể, động lực của sự phát triển thể hiện rõ trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”12. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”13.
Như vậy, Đảng ta đã phát triển thêm một bước tiếp cận mới không chỉ về lý luận mà còn dựa trên tổng kết từ thực tiễn của gần 40 năm đổi mới và cả chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc như Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”14. Quan điểm nhân dân là trung tâm, là chủ thể trong chiến lược phát triển, đã làm rõ hơn về chủ thể thụ hưởng quyền con người đó chính là nhân dân. Từ cách tiếp cận này, Đảng ta yêu cầu: “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân”15. Đây là cách tiếp cận mới về quyền con người, hướng tiếp cận này chính là phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người trong hoạch định chính sách phát triển; đây là phương pháp tiếp cận phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh, đã và đang được Liên hợp quốc cùng nhiều nước phát triển sử dụng rộng rãi trong hoạch định chương trình, chiến lược, kế hoạch phát triển. Theo đó, trong các chương trình, chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước ta đều phải hướng trọng tâm vào chủ thể hưởng quyền, đó là người dân - nhân dân; lấy quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể hưởng quyền là cơ sở xây dựng và hoạch định chính sách phát triển quốc gia; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu cao nhất trong hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Nhờ đó, dù còn nhiều khó khăn, thách thức và cả một số hạn chế, nhưng bảo đảm quyền con người ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đóng góp vào sự phát triển chung toàn diện trên các lĩnh vực của đất nước, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Việt Nam cũng trúng cử thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc hai nhiệm kỳ: nhiệm kỳ 2014-2016 và nhiệm kỳ 2023-2025.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”16. Theo đó, Quốc hội có nhiệm vụ cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về quyền con người thành các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Xây dựng nền hành chính liêm chính, phục vụ người dân và kiến tạo phát triển, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. "Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”17. Vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên được tăng cường.
Công tác cải cách pháp luật, hoàn thiện thể chế, chính sách đã được đẩy mạnh. Hiến pháp năm 1992 và đặc biệt Hiến pháp năm 2013 được xây dựng dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền con người, ghi nhận và chú trọng bảo đảm các quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa. Thực hiện nhất quán đường lối “Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền con người và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết”18.
Các quyền dân sự, chính trị đã được bảo đảm một cách chủ động trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật. Tỷ lệ đói nghèo và tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh giảm rõ rệt. Việt Nam đã xây dựng khuôn khổ pháp lý vững chắc về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ. Với mục tiêu bảo vệ công lý, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, hoạt động tư pháp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, “công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và việc bắt, giam, giữ, cải tạo được thực hiện nghiêm minh, dân chủ, công bằng hơn, hạn chế được oan, sai, bỏ lọt tội phạm, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”19. Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cũng được chú trọng thực hiện thông qua triển khai các chương trình, mục tiêu, chính sách quốc gia như bảo đảm quyền thoát nghèo; quyền về việc làm, thu nhập; quyền sở hữu; an sinh xã hội, quyền được chăm sóc y tế, sức khỏe; quyền được học tập, giáo dục; quyền được tham gia vào đời sống văn hóa... Hiện nay, so với thời kỳ trước đổi mới, đời sống của đại bộ phận người dân Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt. Việt Nam hiện xếp thứ 115/191 quốc gia về chỉ số phát triển con người (HDI), xếp hạng 67/160 về chỉ số bất bình đẳng giới (GII), tuổi thọ bình quân và thu nhập bình quân đầu người đều tăng... Việt Nam cũng là một trong những quốc gia hoàn thành sớm Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc (MDGs). Theo xếp hạng của Liên hiệp quốc năm 2020 về thực hiện SDGs, Việt Nam xếp thứ 51/193 quốc gia thành viên, đạt thành tích cao hơn so với nhiều nước trong khu vực20. Công tác bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương cũng đạt những bước tiến mới, đáng ghi nhận. Hệ thống pháp luật có nhiều quy định về chống phân biệt đối xử, tăng cường mức độ sẵn có của các dịch vụ, khả năng tiếp cận bình đẳng và chất lượng các dịch vụ, cơ hội; mức độ bao phủ của hệ thống bảo hiểm xã hội; chi phí phù hợp...
Thứ hai, bên cạnh những bước tiến bộ trong bảo vệ quyền con người, các quyền hiến định trong Hiến pháp năm 2013 vẫn chưa hoàn toàn tương thích với nội dung các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Việt Nam cũng chưa thành lập một cơ quan quốc gia chuyên trách bảo vệ và thúc đẩy quyền con người theo như khuyến nghị của Liên hợp quốc. Tính độc lập của thẩm phán và hội thẩm khi xét xử có lúc, có nơi chưa được tôn trọng đầy đủ. Quy trình, thủ tục tố tụng hình sự vẫn còn một số điểm chưa phù hợp, gây rủi ro với bị can, bị cáo. Chế độ giam giữ trong thực tế còn một số vấn đề chưa tương thích với các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người...
Thứ ba, mặc dù, còn những khó khăn, vướng mắc và hạn chế, nhưng những thành tựu bảo đảm quyền con người ở nước ta trong gần 40 năm qua cho thấy việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác này vừa phù hợp thực tiễn Việt Nam, vừa cơ bản phù hợp yêu cầu bảo đảm quyền con người trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Vì vậy, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong thời gian tới đồng nghĩa với việc bám sát mục tiêu đáp ứng nguyện vọng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân sẽ là những định hướng chủ yếu trong công tác xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật bảo vệ, bảo đảm quyền con người trong thời gian tới.
3. Phương hướng vận dụng phát triển, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người ở Việt Nam
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để bảo đảm quyền con người ngày càng hiệu quả hơn, yêu cầu đặt ra đối với Đảng và Nhà nước ta là tiếp tục giữ vững ổn định chính trị trong nước, duy trì quan hệ đối ngoại hòa bình với các nước, tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế theo hướng bền vững đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, y tế... Việc vận dụng phát triển, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người thời gian tới cần tập trung vào một số định hướng chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện các quy định về quyền con người, quyền công dân đã được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 nhằm nâng cao tính khả thi. Hoàn thiện các nguyên tắc Hiến định liên quan đến việc bảo vệ các quyền con người, quyền công dân như nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước; nguyên tắc về hạn chế quyền. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân được hiến định theo hướng bảo đảm sự tương thích với các nguyên tắc, tiêu chuẩn pháp luật quốc tế về quyền con người, như quyền tự do đi lại, cư trú; tự do biểu đạt, lập hội, hội họp, biểu tình; quyền có nơi ở hợp pháp; quyền được quyết định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ... Bổ sung thêm một số quyền, tự do cơ bản như: quyền không bị bắt làm nô dịch; quyền không bị bỏ tù vì không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng; quyền được thừa nhận là thể nhân trước pháp luật ở mọi nơi; quyền đình công; quyền thành lập, gia nhập công đoàn... Mặc dù một số quyền này đã được ghi nhận trong một số luật chuyên ngành, song do tính chất quan trọng của các quyền này, việc hiến định vẫn là cần thiết. Bên cạnh đó, nên bổ sung quy định cụ thể hơn về quyền của một số nhóm xã hội yếu thế, dễ bị tổn thương: người lao động di trú, người có giới tính đặc biệt (LGBT)...
Thứ hai, cần hoàn thiện các quy định về giải thích Hiến pháp; cụ thể hóa các nghĩa vụ, cơ chế tổ chức thực hiện, và tiêu chí đánh giá thực hiện nghĩa vụ về quyền con người của các cơ quan nhà nước từ Trung ương tới địa phương. Đồng thời, hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu các điều kiện để thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia, cơ quan bảo hiến. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự nhằm bảo vệ hiệu quả quyền con người trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự. Nghiên cứu thúc đẩy các thiết chế tư pháp dân sự theo hướng mở rộng cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự thay thế khiếu kiện tư pháp, cụ thể như trọng tài, hòa giải, đàm phán...
Thứ ba, tiếp tục củng cố, đổi mới hệ thống chính trị bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người. Hoàn thiện cơ chế vận hành Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong đó, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân; xây dựng Nhà nước liêm chính, kiến tạo phát triển; nâng cao hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong giám sát, phản biện xã hội; tăng cường, nâng cao chất lượng giáo dục góp phần nâng cao dân trí.
Thứ tư, bảo đảm thực hiện quyền con người trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tự bản thân đã đòi hỏi nghèo đói phải được giải quyết về căn bản. Vì vậy, bảo đảm quyền kinh tế cho mọi người, quyền bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế, đòi hỏi chiến lược xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội và thu hẹp khoảng cách giàu nghèo là rất quan trọng. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải giúp tăng số người giàu có. Để thực hiện được điều đó, cần phát huy vai trò điều tiết vĩ mô, phân phối lợi ích và bảo đảm phúc lợi xã hội, trong đó chú trọng đến các đối tượng hưởng chính sách xã hội, đồng bào vùng sâu, vùng xa; đồng thời, xây dựng và triển khai chiến lược phát triển kinh tế vùng miền, góp phần thu hẹp khoảng cách về kinh tế, xã hội giữa "miền ngược" với miền xuôi, vùng sâu, vùng xa với đồng bằng, đô thị. Tăng cường đào tạo nghề, cho vay vốn, ưu tiên trong giáo dục, đào tạo, trong đầu tư phát triển đối với người nghèo, hoàn cảnh khó khăn, diện chính sách, con em nông dân và đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số. Theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh thì phát triển đồng đều phải trở thành một nguyên tắc trong hoạch định chính sách xã hội, chính sách kinh tế.
TS. Nguyễn Thị Thanh Nhàn
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 43 (12/2024)
---
Tài liệu trích dẫn
(1) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.32.
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H.2011, tr.401.
(3) Hồ Chí Minh: Sđd, tập 2, tr.65
(4) Hồ Chí Minh: Sđd, tập 4, tr.64
(5) Võ Nguyên Giáp (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh với con đường cách mạng Việt Nam, Nxb CTQGST, H.2017, tr.53, 54 (dẫn theo "Hồ Chí Minh truyện", bản dịch Trung văn của Trương Niệm Thức, Bát Nguyệt xuất bản xã, Thượng Hải, tháng 6-1949).
(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, tr.1, 2.
(7) Hồ Chí Minh: Sđd, tập 3, tr.3
(8) Hồ Chí Minh, Sđd, tập 3, tr.1, 2.
(9) Hồ Chí Minh, Sđd, tập 10, tr.317, 318.
(10) Hồ Chí Minh, Sđd, tập 4, tr.137, 138.
(11) Hồ Chí Minh, Sđd, tập 8, tr.267.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 76.
(13) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2021, tr. 27 - 28.
(14) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, tr. 453.
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2021, tr. 173.
(16) Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, Tập 1, tr. 175-176.
(17) Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, Tập 1, tr. 177.
(18) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB CTQG, H. 2016, tr.167.
(19) Ban Chỉ đạo cải cách Tư pháp, Báo cáo tổng kết việc thực hiện chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2011-2016; dự kiến chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2016-2021, tr.27.
(20) Tường Duy Kiên, Thành tựu về bảo đảm quyền con người tại Việt Nam trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, ngày 29/11/2022. (https://www.xaydungdang.org.vn/nhan-quyen-va-cuoc-song/thanh-tuu-ve-bao-dam-quyen-con-nguoi-tai-viet-nam-trong-tien-trinh-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xhcn-18098, truy cập ngày 07/6/2024).