Một trong những hệ quả của toàn cầu hóa là một lượng lớn người lao động di chuyển giữa các quốc gia. Bộ phận lao động di cư này mang lại cho nước tiếp nhận nhiều lợi ích nhưng cũng đặt ra những thách thức lớn về mặt quản lý nhà nước, đòi hỏi sự hoàn thiện quy định pháp luật dành riêng cho nhóm lao động này. Bài viết phân tích, đánh giá pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về vấn đề này tại Việt Nam, trong đó chỉ ra những ưu điểm, những hạn chế của pháp luật và đề xuất các kiến nghị hoàn thiện

Ngày càng nhiều người nước ngoài đến Việt Nam làm việc. Nguồn: nld.com.vn

1. Đặt vấn đề

Đi kèm với quá trình toàn cầu hóa là vấn đề di cư lao động quốc tế. Nhiều   nghiên cứu cho thấy, chưa có thời kỳ nào trong lịch sử nhân loại, tình trạng di cư lao động quốc tế lại phổ biến như hiện nay. Theo ước tính của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tại thời điểm năm 2019, trên thế giới có gần 170 triệu người lao động di cư. Báo cáo có tiêu đề “Ước tính toàn cầu của ILO về lao động di cư ra ngước ngoài: Kết quả và phương pháp luận”1 cho thấy trong năm 2019, lao động di cư ra nước ngoài chiếm gần 5% lực lượng lao động toàn cầu, khiến họ trở thành một phần không thể tách rời của nền kinh tế thế giới. Ở nhiều khu vực, lao động di cư ra nước ngoài chiếm một tỷ trọng quan trọng trong lực lượng lao động, là nguồn đóng góp không nhỏ cho xã hội và nền kinh tế của các nước tiếp nhận lao động. Nhiều người đảm nhận những công việc thiết yếu trong các lĩnh vực trọng yếu như chăm sóc y tế, giao thông, dịch vụ, nông nghiệp và chế biến thực phẩm. Di cư quốc tế vì việc làm là kết quả tất yếu và là một yêu cầu của quá trình toàn cầu hóa về kinh tế. Nó mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế thế giới nói chung, nền kinh tế của nhiều quốc gia nói riêng, cũng như cho nhiều gia đình, tuy nhiên, nó cũng tiềm ẩn những khó khăn, thách thức mà các chính phủ và người lao động di trú khắp nơi phải đối mặt, đó là tình trạng người lao động bị phân biệt đối xử, bị bóc lột và thậm chí bị xâm phạm các quyền và lợi ích cơ bản cả ở nước gửi và nước nhận lao động. Để xác lập một khuôn khổ pháp lý quốc tế công bằng cho việc di cư lao động quốc tế và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động di trú, Liên Hợp Quốc (UN) và ILO đã ban hành nhiều văn kiện, trong đó quan trọng nhất là Công ước của UN về các quyền của người lao động di  và các thành viên trong gia đình họ và hai Công ước số 97 và số 143 của ILO. Dựa trên những điều ước quốc tế này, nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã xây dựng những văn bản pháp luật có liên quan.

Thuật ngữ “người lao động di cư” chủ yếu được sử dụng trong giới học thuật, nghiên cứu, trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam cũng ít dùng khái niệm này. Người lao động di cư thường được nhắc đến là người lao động phổ thông của Việt Nam đi làm việc ở các nước khác theo hợp đồng. Tuy nhiên, thực chất khái niệm người lao động di cư còn rộng hơn thế, bao gồm cả người lao động đi làm việc theo con đường cá nhân không liên quan đến “kênh” chính thức và người lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc. Số lượng người nước ngoài vào Việt Nam làm việc ngày càng tăng. Theo số liệu công bố của Cục Việc làm - Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, năm 2005, số lượng lao động nước ngoài ở Việt Nam mới có 12 nghìn người; năm 2010 là 55,4 nghìn người; năm 2015 lên tới 83,6 nghìn người và năm 2019 đạt 117,8 nghìn người. Sau 15 năm, số lượng người lao động nước ngoài tại Việt Nam năm 2019 tăng gấp gần 10 lần so với năm 2005 và gấp 1,4 lần so với năm 2015.

Cho đến nay, tuy đã có một số quy định về việc quản lý người lao động nước ngoài nhằm bảo vệ quyền của người lao động di cư là người nước ngoài ở Việt Nam, pháp luật Việt Nam về người lao động di cư vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế. Trong khi đó, lao động di cư là người ngước ngoài ở Việt Nam đang ngày càng tăng lên và đóng góp ngày càng nhiều hơn cho nền kinh tế quốc dân. Do đó, việc nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của người lao động di cư là người nước ngoài ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết; trước hết là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động di cư là nước ngoài ở Việt Nam, đồng thời góp phần ổn định trật tự xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho người lao động di cư là người nước ngoài đóng góp công sức, chất xám, trí tuệ, tri thức cho nền kinh tế và sản xuất trong nước một cách hợp pháp, hợp lệ.

Bảo đảm quyền của lao động di cư là người nước ngoài ở Việt Nam là trách nhiệm của Nhà nước ta với công dân nước ngoài, góp phần nâng cao vị thế chính trị, uy tín của Nhà nước ta đối với thế giới cũng như niềm tin yêu của người lao động nước ngoài ở Việt Nam đối với Đảng và Nhà nước ta. Từ đó, đặt ra những yêu cầu đối với Việt Nam trong việc tham gia đóng góp trực tiếp và có trách nhiệm vào công cuộc bảo vệ và thúc đẩy các giá trị quyền con người trên phạm vi toàn thế giới, cũng như xây dựng các điều kiện nhằm đảm bảo sự thụ hưởng ngày càng tốt hơn các quyền con người, quyền công dân trên đất nước Việt Nam, trong đó có quyền của lao động di cư là người nước ngoài.

2. Quyền của người lao động di cư là người nước ngoài tại Việt Nam

Với việc đưa chương quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân từ vị trí Chương V trong bản Hiến pháp năm 1992 lên Chương II của Hiến pháp năm 2013; đặt quyền con người lên trước quyền công dân, đã thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc thừa nhận, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người nói chung, trong đó có quyền của người lao động di cư. Mọi người sống trên đất nước Việt Nam đều được công nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội như: quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền không bị phân biệt đối xử; quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở v.v..

Mặc dù chưa sử dụng khái niệm người lao động di cư trong các văn bản quy phạm pháp luật nhưng Việt Nam đã có những văn bản quan trọng để thúc đẩy và bảo vệ quyền lợi của người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ lao động của người lao động nước ngoài nằm rải rác tại nhiều văn bản pháp luật; phần lớn các quy định được ghi nhận trong Bộ luật Lao động năm 2019 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bộ luật Lao động năm 2019 tách phần quy định về người lao động nước ngoài thành một phần riêng, nhưng vẫn giữ nguyên quan điểm của Nhà nước Việt Nam về mục đích của hoạt động tuyển dụng người lao động nước ngoài là “chỉ được tuyển dụng người lao động nước ngoài vào làm vị trí công việc quản lý, điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật mà người lao động Việt Nam chưa đáp ứng được theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh.”2. Bên cạnh đó, việc sử dụng người lao động nước ngoài theo hợp đồng lao động tại Việt Nam trong những lĩnh vực đặc thù còn được sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật Thể dục, thể thao năm 2006 sửa đổi năm 2018; Bộ luật Hàng hải năm 2015; Luật Hàng không dân dụng năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2014); Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012), một số đạo luật và những văn bản dưới luật khác.

Về nguyên tắc, pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Tuy nhiên, đối với lao động nước ngoài làm việc cho các hiện diện thương mại của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam (người sử dụng lao động nước ngoài) thì thông thường, quyền và nghĩa vụ của họ sẽ được xác định theo pháp luật của quốc gia mà doanh nghiệp đó mang quốc tịch, nếu hai bên không có thỏa thuận luật áp dụng trong hợp đồng lao động. Đây là những người đã ký hợp đồng lao động với doanh nghiệp ở nước ngoài, theo luật nước ngoài. Sau đó, họ chỉ đến Việt Nam làm việc theo hình thức di chuyển nội bộ trong doanh nghiệp. Do đó, các quy định của Bộ luật Lao động Việt Nam, về nguyên tắc, sẽ không được áp dụng cho những đối tượng lao động này. Đồng thời, trong một số lĩnh vực khác liên quan như bảo hiểm xã hội, công đoàn... thì họ đương nhiên có quyền tham gia bảo hiểm ở nước ngoài và là thành viên của công đoàn ở quốc gia mà doanh nghiệp nước ngoài đó mang quốc tịch, mặc dù họ đang lao động trên lãnh thổ Việt Nam. Trong khi đó, đối với người nước ngoài làm việc cho người sử dụng lao động Việt Nam thì địa vị pháp lý của họ trong lĩnh vực lao động sẽ được điều chỉnh bởi Bộ luật Lao động Việt Nam và các quy định khác của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.

Theo Bộ luật Lao động năm 2019, người lao động nước ngoài làm việc cho người sử dụng lao động là người Việt Nam được hưởng những quyền lợi như lao động Việt Nam, cụ thể:

Một là, có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp; học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử.

Quyền làm việc là một trong các quyền cơ bản của con người đã được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người như tại khoản 1, Điều 6 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 của Liên hợp quốc; Công ước số 122 về chính sách việc làm năm 1964 của ILO. Thực hiện quyền này, pháp luật Việt Nam ghi nhận người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam có quyền lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm, có cơ hội tạo ra của cải, vật chất để đảm bảo cuộc sống và các nhu cầu của bản thân, gia đình và xã hội; và có quyền được làm việc trong điều kiện đảm bảo về an toàn, vệ sinh lao động. Quyền làm việc bao gồm quyền có việc làm, tự do lựa chọn việc làm, tự do hành nghề và tự do chuyển dịch lao động. Về nguyên tắc, người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không phân biệt quốc gia, dân tộc, tôn giáo đều có quyền trực tiếp liên hệ hoặc thông qua tổ chức dịch vụ việc làm liên hệ với bất kỳ người sử dụng lao động nào trên lãnh thổ Việt Nam để tìm việc làm phù hợp với nguyện vọng, khả năng, trình độ, sức khỏe của mình.

Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam cũng đặt ra một số hạn chế đối với quyền việc làm của người lao động nước ngoài tại Việt Nam so với lao động Việt Nam như sau:

Theo Bộ luật Lao động năm 2019, người sử dụng lao động Việt Nam chỉ được tuyển dụng lao động là công dân nước ngoài làm công việc quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật mà lao động Việt Nam chưa đáp ứng được theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh; người sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam khi tuyển dụng lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam phải giải trình nhu cầu sử dụng lao động và phải được cơ quan có thẩm quyền đồng ý bằng văn bản. Điều này có nghĩa là người lao động nước ngoài chỉ có cơ hội vào Việt Nam làm những công việc cần trình độ cao mà lao động Việt Nam chưa đáp ứng được, đồng thời Nhà nước cũng kiểm soát chặt chẽ đối với lao động nước ngoài làm việc cho người sử dụng lao động nước ngoài thông qua việc cho phép tuyển dụng hay không cho phép tuyển dụng lao động nước ngoài. Một hạn chế nữa đối với quyền làm việc của người lao động nước ngoài là về nơi cư trú. Theo pháp luật về cư trú, người nước ngoài không được cư trú, đi lại ở khu vực biên giới, khu vực có cắm biển cấm. Do đó, người nước ngoài không được làm việc ở những khu vực này.

Hai là, quyền hưởng lương; nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có lương và được hưởng phúc lợi tập thể.

Người lao động nước ngoài được hưởng tương tự như người lao động Việt Nam các chế độ về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ như: làm việc không quá 8 giờ trong 01 ngày và không quá 48 giờ trong 01 tuần. Đối với công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, thời giờ làm việc phải được bảo đảm theo đúng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Việc làm thêm giờ theo thỏa thuận nhưng không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 01 ngày; trường hợp áp dụng quy định thời giờ làm việc bình thường theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 01 ngày; không quá 40 giờ trong 01 tháng. Người nước ngoài được nghỉ 11 ngày lễ theo pháp luật Việt Nam và được nghỉ thêm 01 ngày Tết cổ truyền dân tộc và 01 ngày Quốc khánh của nước họ. Ngoài các quyền quy định trong Bộ luật Lao động, người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam còn được hưởng các quyền ghi nhận trong một số văn bản khác như: Theo Luật Cư trú, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam có quyền được tự do đi lại trên lãnh thổ Việt Nam phù hợp với mục đích đã đăng ký, nếu muốn vào các khu vực cấm thì phải được cơ quan có thẩm quyền đồng ý. Người nước ngoài vào Việt Nam làm việc phải đăng ký mục đích, thời hạn, địa chỉ cư trú với Cục Quản lý xuất nhập cảnh của Bộ Công an hoặc Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao. Theo Luật Bảo hiểm y tế năm 2008 sửa đổi năm 2014, từ ngày 01/7/2009, người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam còn có quyền tham gia bảo hiểm y tế, được cấp thẻ bảo hiểm y tế, được quyền khám chữa bệnh, được chi trả bảo hiểm y tế như lao động Việt Nam. Đây là điểm tiến bộ của pháp luật Việt Nam nhằm hỗ trợ người lao động nước ngoài khi gặp rủi ro, đảm bảo sự công bằng, hiệu quả trong khám, chữa bệnh.

Từ những phân tích trên đây có thể thấy pháp luật Việt Nam đã có những quy định về quyền của người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn một số khác biệt trong pháp luật về quyền của người lao động nước ngoài tại Việt Nam so với lao động Việt Nam và các quy định tại các Công ước quốc tế về quyền con người. Cụ thể, pháp luật quốc tế tiếp cận quyền của người lao động di cư dưới góc độ quyền con người của nhóm dễ bị tổn thương do phải làm việc trong những điều kiện kém thuận lợi hơn các lao động khác. Trong khi đó, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam quy định chặt chẽ việc quản lý lao động nước ngoài và chủ yếu nhằm mục đích bảo hộ lao động trong nước. Nghị định số 105/2003/NĐ-CP ngày 19/7/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Nghị định quy định cụ thể những người sử dụng lao động được phép tuyển dụng lao động nước ngoài vào làm việc với tỷ lệ không quá 3% so với số lao động hiện có của doanh nghiệp, nhưng nhiều nhất không quá 50 người, ít nhất cũng được tuyển 01 người; đồng thời người sử dụng lao động phải đăng báo cụ thể về nhu cầu lao động, yêu cầu công việc và các quyền lợi của người lao động, phải xin giấy phép lao động cho người nước ngoài, thời hạn của giấy phép lao động không quá 36 tháng. Lao động là nước nước ngoài làm việc tại Việt Nam, ngoài điều kiện chung như đối với lao động Việt Nam, còn phải đáp ứng những điều kiện riêng như: ít nhất phải từ đủ 18 tuổi trở lên; phải có sức khỏe và trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu của công việc quản lý hoặc công việc có yêu cầu cao về chuyên môn nghiệp vụ mà người lao động Việt Nam chưa đáp ứng được; không có tiền án về tội vi phạm an ninh quốc gia; không thuộc diện đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đang chấp hành hình phạt hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài; có giấy phép lao động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp (cụ thể là do Sở Lao động, Thương binh và Xã hội nơi đơn vị sử dụng lao động nước ngoài có trụ sở). Có một số trường hợp lao động nước ngoài tại Việt Nam được miễn giấy phép lao động cũng được quy định cụ thể về các điều kiện, nhưng những người lao động nước ngoài dù đã có đủ các điều kiện đã quy định, nếu muốn làm việc tại Việt Nam thì cần có thêm một điều kiện nữa, đó là có giao kết hợp đồng lao động.

3. Một số hạn chế của pháp luật và thực tiễn áp dụng về quyền của người lao động di cư là người nước ngoài tại Việt Nam

Cho đến nay, chưa có văn bản pháp luật chuyên biệt nào quy định cụ thể quyền của người lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc. Khoản 1, điều 5 Bộ luật Lao động năm 2019 có những quy định chung về quyền của người lao động, trong đó có người lao động nước ngoài làm việc ở Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có các văn bản cụ thể hóa các quy định này nên khó khăn cho việc áp dụng. Bên cạnh đó, theo các luật chuyên ngành, người lao động nước ngoài cũng không được ghi nhận hưởng tất cả các quyền như: không có quyền tham gia công đoàn, đình công và bị hạn chế về quyền làm việc.

Bên cạnh đó, việc quy định chế tài xử phạt với những vi phạm của các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp trong lĩnh vực này còn chưa đủ mạnh nên còn có tình trạng coi thường, có tình trạng vi phạm quy định pháp luật về tuyển dụng, quản lý lao động nước ngoài. Điều này cũng gây khó khăn trong việc nắm thông tin, quản lý và cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài do thiếu sự phối hợp của các ngành liên quan. Đây có thể coi là điểm yếu kém nhất trong tổ chức thực hiện pháp luật liên quan đến sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam.

Một khó khăn nữa là sự hạn chế trong nhận thức về các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền của người lao động nước ngoài tại Việt Nam và sự thiếu ý thức pháp luật trong việc chấp hành những quy định này. Khung pháp luật điều chỉnh quan hệ lao động của người lao động nước ngoài tại Việt Nam bao gồm có hai hệ thống văn bản pháp luật là: hệ thống các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và hệ thống văn bản pháp luật do Việt Nam ban hành. Trong các điều ước quốc tế đa phương mà Việt Nam tham gia, Việt Nam chưa tham gia các điều ước quốc tế điều chỉnh trực tiếp về người lao động di cư của ILO hoặc UN. Trong các điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam ký kết, Việt Nam chưa ký kết các hiệp định hợp tác lao động chỉ nhằm mục đích tiếp nhận người lao động nước ngoài. Việt Nam chưa ban hành luật riêng điều chỉnh quan hệ lao động của người lao động nước ngoài, các quy định điều chỉnh quan hệ lao động của người lao động nước ngoài chủ yếu tồn tại trong Bộ luật Lao động, ngoài ra nằm rải rác tại các văn bản pháp luật chuyên ngành khác.

4. Một số đề xuất hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền của người lao động di cư là người nước ngoài tại Việt Nam

Hiện nay, các quy định về người lao động nước ngoài được áp dụng chung theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 và nằm rải rác trong một số văn bản khác. Qua thực tiễn thực hiện, nhiều quy định chung không thể hoặc khó áp dụng đối với người lao động nước ngoài. Hoàn thiện quy định pháp luật về quyền của người lao động nước ngoài phải đảm bảo mối tương quan tổng thể các vấn đề pháp luật cần hoàn thiện khác. Đáp ứng yêu cầu này thì pháp luật về quyền của người lao động nước ngoài ở Việt Nam mới có tính thực tế và khả thi, bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động một cách hiệu quả nhất. Vì vậy, trong bối cảnh chưa thể xây dựng đạo luật riêng điều chỉnh người lao động nước ngoài thì cần tiến hành sửa đổi, bổ sung một số nội dung còn chưa hợp lý. Cụ thể như sau:

Một là, thống nhất các khái niệm có liên quan đến người lao động nước ngoài.

Bộ luật Lao động năm 2019 sử dụng thuật ngữ người lao động nước ngoài cũng chưa có sự thống nhất. Khoản 3 Điều 2 Bộ luật Lao động năm 2019 xác định đối tượng điều chỉnh của Bộ luật Lao động năm 2019 là “người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam” nhưng không có giải thích về khái niệm này. Tiếp đó, khoản 1 Điều 2 Nghị định 152/2020/NĐ-CP quy định về các hình thức lao động của công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam và xác định toàn bộ công dân nước ngoài vào Việt Nam làm việc theo nhiều hình thức đều là người lao động nước ngoài. Trong đó, những người nước ngoài vào Việt Nam để chào bán dịch vụ, cung cấp dịch vụ theo hợp đồng đều được gọi là người lao động. Từ thực trạng này cho thấy Bộ luật Lao động năm 2019 và văn bản hướng dẫn cần sự đồng bộ trong sử dụng thuật ngữ để tránh gây nhầm lẫn, khó xác định và phân loại người lao động nước ngoài.

Như vậy, cần xác định lại khái niệm người lao động nước ngoài trên cơ sở phân biệt hai khái niệm người lao động nước ngoài và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam và không nên xác định mọi hình thức công dân nước ngoài vào Việt Nam làm việc là người lao động nước ngoài.

Bộ luật Lao động năm 2019 cần bổ sung thêm khái niệm “Hợp đồng lao động đối với người lao động nước ngoài” và khái niệm “Quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài” vì đây chính là đối tượng điều chỉnh của pháp luật lao động và phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Lao động. Tiêu chí về “Quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài” có thể cân nhắc xác định trên cơ sở khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015.

Hai là, bổ sung quy định về các điều kiện đối với người lao động nước ngoài phù hợp với chính sách thu hút người lao động nước ngoài có chuyên môn cao của Việt Nam.

Hiện nay, chúng ta cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài theo vị trí công việc (4 loại công việc) để nhằm phù hợp với chính sách thu hút người lao động nước ngoài có chuyên môn cao. Tuy nhiên thực tế cũng cho thấy, lao động phổ thông nước ngoài (lao động bất hợp pháp) vẫn vào Việt Nam làm việc. Khoản 4 Điều 9 Nghị định 152/2020/NĐ-CP quy định về văn bản chứng minh là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật nhưng chưa đưa ra đầy đủ tiêu chí để xác nhận, đặc biệt thiếu các quy định về công nhận bằng cấp, chứng nhận trình độ của người lao động nước ngoài.

Ba là, thống nhất quy định về xác định pháp luật áp dụng điều chỉnh quan hệ lao động của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Lao động năm 2019.

Quy định tại Bộ luật Lao động năm 2019 về áp dụng pháp luật cho công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam đang gây nhiều tranh cãi. Theo khoản 3 Điều 151 Bộ luật Lao động năm 2019, thì đối với người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam phải tuân theo pháp luật lao động Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác và được pháp luật Việt Nam bảo vệ. Điều luật quy định cụ thể “tuân theo pháp luật lao động Việt Nam”, nhưng pháp luật lao động Việt Nam chưa đề cập đến quyền lựa chọn pháp luật áp dụng trong hợp đồng lao động như quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 nên dường như quy định này mâu thuẫn với quy định Bộ luật Dân sự năm 2015. Như vậy, nên chăng chúng ta cần bổ sung quy định giải thích theo hướng “tuân thủ pháp luật lao động Việt Nam” là tuân thủ các quy định của Bộ luật Lao động Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành về điều kiện để người nước ngoài được làm việc hợp pháp tại Việt Nam như giấy phép lao động, hình thức làm việc, còn lại quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động phải tuân thủ theo luật của nước được xác định theo các nguyên tắc xác định luật áp dụng đối với quan hệ lao động của tư pháp quốc tế quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015.

ThS. Trần Thanh Tùng

Khối Pháp chế và Tuân thủ, Ngân hàng TMCP Đông Nam Á

Bài viết đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 39 (08/2024)

---

Tài liệu tham khảo

1. ILO (2019), ILO Global Estimates on International Migrant Workers.

2. Khoản 1 Điều 152 Bộ luật Lao động năm 2019.

3. Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Bộ luật Lao động năm 2019.

5. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

6. Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 3/2/2016 của Chính phủ Việt Nam quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

7. Nghị định số 152/2020/NĐ-CP ngày 30/12/2020 của Chính phủ Việt Nam quy định về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và tuyển dụng, quản lý người lao động Việt Nam làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam.

8. Bảo vệ người lao động di trú (2009), Tập hợp các văn kiện quan trọng của quốc tế, khu vực ASEAN và của Việt Nam liên quan đến vị thế và việc bảo vệ người lao động di trú, Nxb Lao động – Xã hội.