Phát triển bền vững là mục tiêu chung được đặt ra đối với các quốc gia trên toàn thế giới, bắt nguồn từ yêu cầu đảm bảo những nhu cầu cơ bản của con người. Dù không được trực tiếp ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế nhưng các vấn đề liên quan đến phát triển bền vững đã được đề cập đến trong một số nhóm quyền con người cơ bản. Bài viết này nghiên cứu mối liên hệ giữa phát triển bền vững và quyền con người thông qua việc phân tích làm rõ mối quan hệ, những nội dung cơ bản của phát triển bền vững theo luật nhân quyền quốc tế. Trên cơ sở đó, các tác giả so sánh tương quan với hệ thống pháp luật Việt Nam để đưa ra một số gợi mở và đề xuất nhằm hướng tới phát triển bền vững trên cơ sở bảo đảm quyền con người tại Việt Nam.

Ảnh minh họa. Nguồn: doanthanhnien.vn

Đặt vấn đề

Cuộc sống của con người gắn liền với môi trường, mỗi hành động của con người dù nhỏ nhưng đều có những ảnh hưởng nhất định đối với môi trường. Khi số lượng con người sinh sống trên Trái đất gia tăng cũng đồng nghĩa với việc môi trường đang phải chịu thêm nhiều gánh nặng. Đây chính là lý do mà phát triển bền vững được đặt ra như một nhiệm vụ cần thực hiện để cải thiện chất lượng môi trường sống của con người, không chỉ cho thế hệ hiện tại mà còn cả cho thế hệ tương lai. Phát triển bền vững và quyền con người có mối liên hệ đặc biệt. Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người hướng tới phát triển bền vững có thể được xem xét để lồng ghép vào hệ thống pháp luật của Việt Nam nhằm đảm bảo tương thích với luật nhân quyền quốc tế và mục tiêu chung về phát triển bền vững toàn cầu.

1. Mối quan hệ giữa phát triển bền vững và bảo đảm quyền con người

Quyền con người, theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc, là “những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người”1. Như vậy, theo định nghĩa này, quyền con người được hiểu là những quyền mang tính phổ quát, không có bất kì sự phân biệt đối xử nào. Theo đó, luật nhân quyền quốc tế ra đời nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, đồng thời là cơ sở pháp lý để hỗ trợ, củng cố cơ chế nhân quyền quốc tế và quốc gia.

Phát triển bền vững lần đầu được nhắc đến vào năm 1980 trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” của Liên minh quốc tế bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên (IUCN-International Union for Conservation of Nature and Natural Resources) với mục tiêu “đạt được sự phát triển bền vững bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật”. Tại đó, thuật ngữ phát triển bền vững có phạm vi tương đối hẹp, nhằm viện dẫn đến tính bền vững của sự phát triển hệ sinh thái. Sau đó, vào năm 1987, theo định nghĩa của Liên hợp quốc (trong báo cáo của Ủy ban môi trường và phát triển thế giới của Liên hợp quốc) nêu rõ phát triển bền vững là “sự phát triển đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”2. Định nghĩa này đã chỉ ra bản chất khái niệm phát triển bền vững, đó là hướng tới sự cân bằng cần thiết giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, khủng hoảng tài nguyên và bất bình đẳng gia tăng, phát triển bền vững không chỉ là một lựa chọn mà còn là một yêu cầu cấp thiết. Cũng trong Báo cáo trên, các vấn đề cốt lõi liên quan đến môi trường và phát triển kinh tế đã được xác định nhằm xây dựng nền tảng vững chắc cho khái niệm phát triển bền vững. Kể từ đó, khái niệm phát triển bền vững được tái khẳng định và củng cố thông qua các hội nghị quốc tế như Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất năm 1992 tại Rio de Janeiro và Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu năm 2015.

Từ định nghĩa về phát triển bền vững, Liên hợp quốc đã soạn thảo và công bố hệ thống các văn bản nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, nổi bật trong số đó phải kể đến Chiến lược Phát triển bền vững năm 2030 (hay còn gọi là “Chương trình nghị sự 2030”). Đây là một kế hoạch hành động toàn cầu nhằm thúc đẩy hòa bình, thịnh vượng và bảo vệ hành tinh. Chương trình này được thông qua vào tháng 9/2015 và bao gồm 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) với 169 chỉ tiêu cụ thể. Chương trình nêu ra những cam kết cụ thể dự kiến áp dụng trên phạm vi toàn cầu nhằm xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, duy trì khối hòa bình và thịnh vượng chung. Đồng thời, 17 mục tiêu phát triển bền vững được coi là thước đo để các quốc gia nỗ lực nhằm cải thiện tình hình kinh tế - xã hội - môi trường nói chung và chất lượng sống của người dân nói riêng. Các mục tiêu phát triển bền vững được tích hợp với nhau trên nhiều phương diện - những mục tiêu ở lĩnh vực này sẽ đồng thời có ảnh hưởng hoặc đem đến kết quả ở lĩnh vực khác, và ngược lại. Các mục tiêu được giới thiệu nhằm nâng cao trách nhiệm quốc gia trong ưu tiên nguồn lực đối với nhóm yếu thế, đẩy lùi nạn đói nghèo, phân biệt đối xử tại các quốc gia thành viên3. Các mục tiêu đó bao gồm:

1. Chấm dứt đói nghèo dưới mọi hình thức ở mọi nơi (No Poverty).

2. Chấm dứt nạn đói, đảm bảo an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy nông nghiệp bền vững (Zero Hunger).

3. Đảm bảo cuộc sống khỏe mạnh và thúc đẩy phúc lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi (Good health and Well-being).

4. Đảm bảo giáo dục chất lượng toàn diện, công bằng và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người (Quality education).

5. Đạt được bình đẳng giới và trao quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em gái (Gender equality).

6. Đảm bảo tính sẵn có và quản lý bền vững nguồn nước và vệ sinh cho tất cả mọi người (Clean water and sanitation).

7. Đảm bảo tiếp cận năng lượng giá cả phải chăng, đáng tin cậy, bền vững và hiện đại cho tất cả mọi người (Affordable and Clean energy).

8. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện và lâu dài, việc làm đầy đủ, có năng suất và công việc tử tế cho tất cả mọi người (Decent work and Economic growth).

9. Xây dựng cơ sở hạ tầng phục hồi, thúc đẩy công nghiệp hóa toàn diện, bền vững và thúc đẩy đổi mới (Industry, innovation and infrastructure).

10. Giảm bất bình đẳng trong và giữa các quốc gia (Redcuced inequalities).

11. Làm cho các thành phố và khu định cư của con người trở nên toàn diện, an toàn, kiên cường và bền vững (Sustainable cities and communities).

12. Đảm bảo mô hình sản xuất và tiêu dùng bền vững (Responsible consumption and production).

13. Hành động khẩn cấp để chống lại biến đổi khí hậu và tác động của biến đổi khí hậu (Climate action).

14. Bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và tài nguyên biển để phát triển bền vững (Life below water).

15. Bảo vệ, phục hồi và thúc đẩy việc sử dụng bền vững các hệ sinh thái trên cạn, quản lý rừng bền vững, chống sa mạc hóa, ngăn chặn và đảo ngược tình trạng suy thoái đất và ngăn chặn mất đa dạng sinh học (Life on land).

16. Thúc đẩy các xã hội hòa bình và toàn diện vì sự phát triển bền vững, cung cấp quyền tiếp cận công lý cho tất cả mọi người và xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm và toàn diện ở mọi cấp độ (Peace, justice and strong institutions).

17. Tăng cường các phương tiện thực hiện và khôi phục quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển bền vững (Partnership for the goals).

Dựa vào bức tranh toàn cảnh của phát triển bền vững và quyền con người, chúng ta chỉ thấy một phần nhỏ giao thoa, không có ranh giới để phân định rõ điểm giống và khác biệt cơ bản giữa hai thuật ngữ. Tuy nhiên, khi phân tích các Mục tiêu phát triển bền vững được đề cập tại Chương trình Nghị sự 2030, dễ dàng nhận thấy những điểm tương đồng cơ bản giữa hai khái niệm này. Phát triển bền vững hướng đến một xã hội công bằng, không có sự phân biệt đối xử và thiết lập những điều kiện thuận lợi hơn cho cuộc sống của con người; trong khi đó quyền con người cũng đề cao sự bình đẳng, phổ quát bằng cách trao cho con người những quyền lợi cơ bản. Do đó, giữa phát triển bền vững và quyền con người có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ và tương tác lẫn nhau. Phát triển bền vững không thể đạt được nếu không tôn trọng quyền con người, và ngược lại, quyền con người không thể được bảo đảm đầy đủ nếu không có sự phát triển bền vững. Cụ thể, quyền con người thiết lập một khuôn khổ đạo đức, pháp lý để phát triển bền vững. Phát triển bền vững, ngược lại, cũng giúp hình thành môi trường và điều kiện để bảo đảm và thúc đẩy quyền con người. Vì vậy, những nhà hoạch định chính sách, nhà làm luật cần phải nắm được nguyên tắc này để lồng ghép những nội dung về quyền con người trong chương trình hành động vì phát triển bền vững.

2. Những nội dung gắn với phát triển bền vững trong luật nhân quyền quốc tế

Trong hệ thống văn kiện quốc tế về quyền con người, có thể thấy nội dung phát triển bền vững được lồng ghép trong nhiều quy định. Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người được ban hành vào năm 19484 là văn kiện quốc tế đầu tiên ghi nhận tương đối toàn diện về quyền con người. Những nội dung của Tuyên ngôn đã tạo nền tảng quan trọng cho sự ra đời của các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người sau này, như: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD, năm 1965); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, năm 1966); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR, năm 1966); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt với phụ nữ (CEDAW, năm 1979); Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (năm 1984); Công ước về quyền trẻ em (năm 1989), Công ước về bảo vệ quyền của tất cả người lao động di trú và các thành viên gia đình (năm 1990), Công ước về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị cưỡng bức mất tích (năm 2006), Công ước về quyền của người khuyết tật (năm 2007).

Bên cạnh đó, vấn đề quyền con người và phát triển bền vững còn được thể hiện rõ qua các Chương trình Nghị sự do Liên hợp quốc ban hành, mà gần đây nhất là Chương trình Nghị sự 2030. Trong số 17 mục tiêu phát triển bền vững, việc bảo đảm quyền con người được thể hiện qua một số nhóm mục tiêu, như xóa đói giảm nghèo, đẩy lùi nạn bất bình đẳng, thúc đẩy công bằng trong xã hội. Có thể khái quát nội dung quyền con người và phát triển bền vững trong các văn kiện quốc tế về quyền con người và Chương trình Nghị sự 2030 (SDGs) cụ thể như sau:

Thứ nhất, SDGs và quyền con người đều nhằm hướng tới tầm quan trọng của việc bảo vệ nhân phẩm và đảm bảo bình đẳng cho tất cả mọi người. Các mục tiêu như xóa đói giảm nghèo (Mục tiêu 1), đảm bảo giáo dục chất lượng (Mục tiêu 4), đạt được bình đẳng giới (Mục tiêu 5) và giảm thiểu bất bình đẳng (Mục tiêu 10) đều phần nào phản ánh các quyền cơ bản của con người, như quyền sống (Điều 3 - UDHR, Điều 6 - ICCPR), quyền được hưởng mức sống thích đáng (Điều 25 - UDHR, Điều 11.1 - ICESCR), quyền được học tập (Điều 26 - UDHR), và quyền bình đẳng (Điều 7 - UDHR, Điều 26 - ICCPR),...

Thứ hai, SDGs và quyền con người đều nhằm bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của con người. Điều này thể hiện qua những mục tiêu về đảm bảo sức khỏe con người (Mục tiêu 3), duy trì nước sạch và đảm bảo vệ sinh (Mục tiêu 6), bảo vệ môi trường (Mục tiêu 7, 13,14, 15). Những mục tiêu này được đặt ra một mặt để bảo vệ tính mạng con người, mặt khác nhằm duy trì điều kiện thuận lợi nhất để con người có thể sinh sống và phát triển một cách khỏe mạnh. Quyền về chăm sóc y tế mặc dù không trực tiếp gắn với việc bảo vệ môi trường nhưng được diễn giải theo hướng đảm bảo điều kiện sống tốt nhất và thuận lợi nhất cho sự phát triển của con người (Điều 12 - ICESCR).

Thứ ba, SDGs và quyền con người hướng tới việc kiến tạo môi trường làm việc công bằng để phát triển kinh tế một cách toàn diện, bao trùm. Các Mục tiêu cơ bản của SDGs bao gồm thúc đẩy công lý và hòa bình (Mục tiêu 16), thiết lập thị trường lao động công bằng để phát triển kinh tế (Mục tiêu 8). Các văn kiện pháp luật quốc tế về quyền con người cũng đưa ra những khái niệm tương tự, bao gồm quyền được nghỉ ngơi và giải trí với số giờ làm việc hợp lý (Điều 24 - UDHR, Điều 7.d - ICESCR), quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp và được hưởng những điều kiện làm việc công bằng (Điều 23 - UDHR, Điều 6,7 - ICESCR).

Thứ tư, SDGs và quyền con người đều yêu cầu các quốc gia có trách nhiệm chung để giải quyết các thách thức toàn cầu, vượt qua biên giới của mỗi nước, như biến đổi khí hậu và nghèo đói. Trong khi các văn bản luật nhân quyền quốc tế đưa ra những khuyến nghị nhằm tăng cường hợp tác quốc tế, tôn trọng thành viên của công ước thì SDGs đưa nội dung này vào một trong số các mục tiêu phát triển bền vững (Mục tiêu 17). Tăng cường hợp tác quốc tế không chỉ nêu cao trách nhiệm quốc gia mà còn củng cố quan hệ giám sát, đối thoại nhằm hoàn thiện hơn hành lang chính sách, pháp luật có liên quan đến mỗi lĩnh vực.

Tóm lại, có thể thấy các văn kiện quốc tế về quyền con người đã phần nào lồng ghép và truyền tải mục tiêu phát triển bền vững. Cả hai nội dung quyền con người và phát triển bền vững đều hướng tới việc thiết lập thế giới công bằng, bình đẳng để tiến tới phát triển ổn định, thịnh vượng cho tất cả mọi người. Phát triển bền vững gắn với bảo đảm quyền con người thì sẽ mang tính khả thi và gần gũi hơn, từ đó có thể thúc đẩy những chương trình hành động, cùng với hệ thống chính sách, pháp luật trong tương lai liên quan đến vấn đề này. Tuy nhiên, đối với từng quốc gia lại có những hướng áp dụng và gợi mở riêng biệt. Bởi lẽ các quốc gia có sự khác biệt nhất định về địa lý, lịch sử và văn hóa, cùng với đó là tốc độ phát triển kinh tế - xã hội riêng. Vì vậy, rất khó để đưa ra một khuôn mẫu chung cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững gắn với bảo đảm quyền con người ở từng quốc gia. Cần phải có những nghiên cứu và phân tích cụ thể cho từng trường hợp quốc gia cụ thể, dựa vào đó thì các nhà hoạch định chính sách và bên liên quan mới có thể thiết kế định hướng phát triển sao cho phù hợp.

3. Nhận xét chung và gợi mở cho Việt Nam

Kinh nghiệm từ một số quốc gia cho thấy, những chiến lược phát triển bền vững đều nhằm hướng đến lợi ích chung của con người. Việt Nam là quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, với đường bờ biển dài và nguồn tài nguyên phong phú. Đặc điểm địa lý này đem đến nhiều cơ hội cho Việt Nam trong việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên phục vụ đời sống con người. Nhưng đồng thời, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên hợp lý, cùng với đó là vấn đề suy thoái môi trường. Bên cạnh đó, Việt Nam còn có nguồn lao động tương đối trẻ, nhưng đang tồn tại nhiều vấn đề bất cập liên quan đến sử dụng và đãi ngộ với người lao động. Tại Việt Nam, phát triển bền vững đã trở thành một trong những chiến lược quan trọng nhất trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Điều này không chỉ phản ánh cam kết của Việt Nam đối với các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc mà còn thể hiện quyết tâm của đất nước trong việc đạt được sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã nỗ lực để xây dựng kế hoạch phát triển bền vững theo tinh thần chung của quốc tế. Cụ thể, Việt Nam đã ban hành Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011 - 2020, và mới đây là Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2021 - 2030. Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam được xây dựng dựa trên ba trụ cột chính: kinh tế, xã hội và môi trường. Đảng và Nhà nước khẳng định, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh, phát triển nhanh và bền vững cần dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Các chiến lược đều tập trung vào các mục tiêu cơ bản được nêu theo Chương trình của Liên hợp quốc, bao gồm: sử dụng năng lượng tái tạo, phát triển nông nghiệp bền vững và bảo vệ đa dạng sinh học. Chính phủ, cộng đồng và doanh nghiệp đều đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chương trình này, đảm bảo rằng mọi nguồn lực xã hội được huy động một cách tối ưu để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững5.

Dựa trên những phân tích về mối liên hệ giữa phát triển bền vững và quyền con người, cùng với các ví dụ thực tiễn nêu trên, có thể thấy phương hướng hoạt động của các quốc gia hiện nay là tiến hành lồng ghép đảm bảo quyền con người trong chiến lược phát triển bền vững. Chẳng hạn, việc đảm bảo quyền về sức khỏe, môi trường sống trong lành, giảm thiểu bất cập và phân biệt đối xử tại nơi làm việc,... tất cả đều được đưa vào các chính sách và hệ thống pháp luật cụ thể. Do đó, với tư cách là quốc gia thành viên ASEAN, đồng thời cũng là thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam cần phải tăng cường học hỏi và hợp tác quốc tế để ban hành hệ thống chính sách hiệu quả, trong đó. tích hợp nội dung phát triển bền vững và bảo đảm quyền con người như sau:

Thứ nhất, xây dựng chính sách phát triển bền vững gắn với từng nhóm quyền con người cụ thể, chẳng hạn như nhóm quyền về kinh tế, quyền về văn hóa, hay quyền về dân sự, v.v.. Việc phân loại nhóm quyền trong xây dựng chính sách sẽ đem lại cái nhìn bao quát và chi tiết hơn đối với những vấn đề đặt ra. Cùng với đó, phân loại quyền con người sẽ góp phần phác thảo rõ ràng hơn nhiệm vụ đặt ra đối với phát triển bền vững tại Việt Nam trong giai đoạn tới.

Thứ hai, nâng cao vai trò của các bên liên quan trong xây dựng và đảm bảo thực hiện chính sách. Phát triển bền vững là chiến lược mang tính toàn diện, do đó khi lồng ghép nội dung bảo đảm quyền con người vào chiến lược này sẽ thu hẹp phạm vi các bên có trách nhiệm liên quan. Từ đó, bộ máy quản lý sẽ được đơn giản hóa và mang tính chuyên môn hóa cao hơn. Tại Việt Nam hiện nay chưa có cơ quan chuyên trách về quyền con người, do vậy các vấn đề sẽ được chia theo nhóm lĩnh vực và nhóm người riêng biệt. Nếu xét theo lĩnh vực, chẳng hạn về mặt kinh tế, Bộ Công Thương và các doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm chính với nội dung về phát triển bền vững trong hoạt động kinh tế, cùng với đó là trách nhiệm trong bảo vệ các quyền con người thuộc nhóm quyền về kinh tế cơ bản.

Thứ ba, tăng cường đối thoại và hợp tác quốc tế để thúc đẩy phát triển bền vững gắn với bảo đảm quyền con người. Tại mục tiêu số 17 của Chương trình Nghị sự 2030 có nhắc đến quan hệ đối tác toàn cầu trong phát triển bền vững. Tương tự, luật nhân quyền quốc tế cũng bao gồm những văn kiện mang tính toàn cầu, phổ quát và được áp dụng chung cho mọi quốc gia thành viên. Vì thế, Việt Nam cần tăng cường giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm, đối thoại song phương và đa phương để củng cố vị thế quốc gia; đồng thời áp dụng những tiến bộ của khu vực trong xây dựng hệ thống pháp luật của riêng mình.

Kết luận

Có thể nói rằng, phát triển bền vững tại Việt Nam không chỉ là một yêu cầu cấp thiết mà còn là một định hướng chiến lược cho tương lai. Trong đó, phát triển bền vững gắn với bảo đảm quyền con người theo luật nhân quyền quốc tế tuy có nhiều thách thức nhưng lại tương đối phù hợp và hiệu quả trong giai đoạn hiện nay, trở thành xu hướng toàn cầu. Với sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước cùng sự chung tay của toàn xã hội, Việt Nam có thể vượt qua những thách thức và tận dụng được các cơ hội để phát triển bền vững, đảm bảo một tương lai tươi sáng cho thế hệ mai sau.

Khúc Thị Phương Anh

Học viên Chương trình thạc sĩ Pháp luật về quyền con người,

Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

GS.TS. Vũ Công Giao

Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người - Quyền công dân,

Trường Đại học Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.

Bài viết được đăng trên Tạp chí Pháp luật về quyền con người số 44 (02/2024)

---

Tham luận này đã được tác giả trình bày tại Diễn đàn Luật học Mùa thu lần thứ IV do Trường Đại học Luật-Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức vào ngày 25 - 26/10/2024.

“Nghiên cứu này được thực hiện trong khuôn khổ Đề tài mã số 505.01-2021.07 do Quỹ NAFOSTED tài trợ”.  

Tài liệu trích dẫn

(1) OHCHR, Freequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva, 2006, tr.1.

(2) Ủy ban môi trường và phát triển thế giới của Liên hợp quốc, Báo cáo Brundtland 1987.

(3) UNDP, The SDGs in Action, https://www.undp.org/sustainable-development-goals.

(4) United Nations, Universal Declaration of Human Rights, 1948.

(5) Việt Liễu, “Quan Điểm, Chiến Lược Phát Triển Bền Vững Của Việt Nam”, Tạp Chí Tài Chính, 2022 https://tapchitaichinh.vn/quan-diem-chien-luoc-phat-trien-ben-vung-cua-viet-nam.html.